Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích và học tốt môn địa lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 17 trang )

A .MỞ ĐẦU:
I/ Lý do chọn đề tài:
Khi xã hội phát triển, việc hình thành thế giới quan cho học sinh là rất
quan trọng, đặc biệt là đối với học sinh lớp 12. Đây là đối tượng dễ nhạy cảm
với những biến đổi của xã hội, nhất là khi các em chuẩn bị rời ghế nhà trường
THPT để bước vào một cánh cửa mới của cuộc đời. Dạy học là chăm bồi cả đức
lẫn tài cho một thế hệ tương lai kế thừa gìn giữ và xây dựng tổ quốc mai sau
phồn vinh hơn.Việc truyền đạt kiến thức cho học sinh cũng góp phần giúp các
em có thể tiếp nhận một nguồn thông tin bổ ích để ứng dụng vào thực tiễn cuộc
sống. Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực
chủ động, sáng tạo của học sinh đang được các trường triển khai rộng rãi. Để
thực hiện tốt yêu cầu đó người làm công tác giáo dục phải tìm ra những giải
pháp có hiệu quả để giúp các em học tốt các môn học nói chung và môn địa lí
nói riêng.
Với tình hình giảng dạy môn Địa lí hiện nay ở trường tôi cho thấy: phụ
huynh và học sinh đều có xu hướng lựa chọn các môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh,
Ngoại Ngữ làm các môn học chính để theo học nhằm phục vụ cho việc thi Đại
học - Cao đẳng, còn môn Địa lí chỉ là môn học phụ. Tâm lý phân biệt môn
chính, môn phụ vốn đã hình thành trong đầu óc của phụ huynh, học sinh và ngay
cả một số giáo viên từ xưa đến nay, nhiều người vẫn cho học Địa lí là học thuộc
lòng những gì cô dạy, như: nhớ số liệu, địa danh, đặc điểm của một số đối tượng
địa lí… như vậy là đủ. Còn kĩ năng và tư duy dành cho các môn Toán, Lý,
Hóa… Vì lẽ đó phụ huynh thường khuyên con, em mình học lớp 12 không cần
chú tâm vào học môn Địa lí sẽ mất nhiều thời gian. Điều này khiến cho các em
học sinh lớp 12 có thái độ coi thường học Địa lí, khiến giờ học Địa lí trở nên
nhàm chán, khó tiếp thu, gây ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dạy và học.
Xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị tôi đang công tác và những vấn
đề xã hội được đề cập ở trên. Với mong muốn được góp phần đưa chất lượng
môn Địa lí ngày càng được nâng cao, tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài sau:
“Một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và học tốt môn Địa
lí”. Rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của tất cả anh chị em, bạn bè đồng


nghiệp.
II/ Mục đích nghiên cứu:
Thông qua đề tài này, tôi có thể đề ra được những giải pháp dạy học giúp
học sinh lớp 12 nhận thức được môn Địa lí không chỉ là môn học mang tính học
thuộc và ghi nhớ mà Địa lí cũng là môn học đòi hỏi người học phải tư duy lôgíc,
phải có kĩ năng tính toán, đào sâu phân tích, giải thích các hiện tượng địa lí tự
nhiên hoặc kinh tế - xã hội. Bằng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên
sẽ hình thành trong học sinh thái độ đúng đắn và hứng thú đối với môn Địa lí.
1


Từ đó giúp các em ngày càng yêu thích và học tốt môn Địa lí hơn nữa. Góp
phần nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí ở trường THPT Nguyễn Quán
Nho.
III/ Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích môn Địa lí và
học tốt môn Địa lí.
IV/ Phương pháp nghiên cứu:
1/ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
2/ Phương pháp quan sát
3/ Phương pháp khảo sát, điều tra
4/ Phương pháp thu thập thông tin
5/ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
B. NỘI DUNG:
I/ Cơ sở lí luận của đề tài:
Các nhà tâm lí học đã nghiên cứu và chỉ ra rằng: “hứng thú có một vai trò
quan trọng trong quá trình hoạt động của con người”. Nó là động cơ thúc đẩy
con người tham gia tích cực vào các hoạt động. Khi được làm việc phù hợp với
hứng thú dù phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được
hiệu quả cao. Trong hoạt động học tập cũng vậy, hứng thú có vai trò hết sức

quan trọng, thực tế cho thấy hứng thú đối với các bộ môn của học sinh tỉ lệ
thuận với kết quả học tập của các em. Vì vậy quá trình dạy và học tích cực đòi
hỏi sự biến đổi không ngừng cả tư duy lẫn hành động của người dạy và người
học. Trước hết, người giáo viên Địa lí phải có năng lực sư phạm vững vàng bởi
vì dạy học vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật, giáo viên phải có
phương pháp dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong
việc tìm kiếm lĩnh hội tri thức. Cụ thể:
- Phải nắm được phương pháp dạy học đặc trưng của môn Địa lí. Trong
quá trình dạy học, giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp với nội
dung bài học, kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy học, tổ chức
tốt hoạt động của thầy và trò.
- Phải đảm bảo kiến thức chính xác theo chuẩn kiến thức và kĩ năng Địa lí,
đảm bảo tính hệ thống giúp học sinh dễ học, dễ hiểu.

2


- Phải tổ chức nhiều hình thức học tập thích hợp, điều khiển học sinh học
tập tích cực và chủ động. Chú ý đến từng đối tượng học sinh, kèm cặp, giúp đỡ
các học sinh còn yếu, tiếp thu bài còn chậm.
Như vậy, mỗi người giáo viên Địa lí ngoài kiến thức bộ môn, kĩ năng sư
phạm thì bản thân cần phải có nghệ thuật, biết khơi gợi, kích thích lòng ham
muốn học hỏi, hiểu biết của học sinh bằng cả tấm lòng nhiệt tình, bằng sự khéo
léo trong xử lý tình huống, trong nghiệp vụ sư phạm của mình để hình thành cho
học sinh một kĩ năng, một thói quen tốt, một nhận thức đúng đắn và đầy đủ, sâu
sắc về kiến thức được lĩnh hội.
II/ Thực trạng:
1/ Tình hình chung:
a/ Thuận lợi.
- Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của BGH nhà trường và các

cấp lãnh đạo và sự tín nhiệm và ủng hộ của cha mẹ học sinh.
- Được sự hỗ trợ của các giáo viên có kinh nghiệm, nhiệt tình trong công
tác. Học sinh ham học hỏi, có trí phấn đấu.
- Đồ dùng dạy học và một số phương tiện dạy học hiện đại đã được nhà
trường trang bị tương đối đầy đủ.
b/ Khó khăn.
- Khả năng nhận thức của học sinh còn chậm, việc áp dụng kỹ năng tính
toán còn hạn chế.
- Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình,
không đôn đốc con em học tập ở nhà.
- Cơ sở vật chất còn thiếu đồng bộ: phương tiện dạy học, tài liệu tham
khảo còn ít, chưa có phòng học chức năng.
2/ Tình hình thực tế của việc dạy học Địa lí trước khi thử nghiệm đề tài
nghiên cứu đối với học sinh lớp 12, trường THPT Nguyễn Quán Nho:
Bản thân tôi đã có 4 năm đảm nhận dạy Địa lí lớp 12 và trực tiếp ôn thi tốt
nghiệp cho các em, qua quá trình giảng dạy ở trên lớp và qua một vài buổi trao
đổi chuyên môn với một số đồng nghiệp cùng với việc thăm rò, tìm hiểu ý kiến
của các em học sinh lớp 12. Tôi nhận thấy việc dạy học Địa lí theo phương pháp
đổi mới nhằm tạo hứng thú cho học sinh học tốt môn Địa lí ở trường tôi vẫn còn
nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Cụ thể:

3


a/ Về phần giáo viên:
- Việc áp dụng phương pháp dạy hoc tích cực chưa mang lại hiệu quả cao.
Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều
giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các
phương pháp dạy học cũng như sử sụng các phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng nề

truyền thụ kiến thức lí thuyết, kĩ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho
học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan
tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông, sử dụng các phương tiện
dạy học chưa được thực hiện rộng rãi hoặc một bộ phận giáo viên còn lạm dụng
hoặc thiếu kỹ năng CNTT nên làm giảm hiệu quả giờ dạy trên lớp.
- Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa bảo đảm yêu cầu khách quan, chính
xác công bằng. Việc kiểm tra chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và
đánh giá qua điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học sinh duy trì dạy học
theo lối “đọc - chép”, học sinh học tập thiên về ghi nhớ, ít quan tâm vận dụng
kiến thức. Nhiều giáo viên chưa vận dụng đúng quy trình biên soạn đề kiểm tra
nên các bài kiểm tra còn nặng tính chủ quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra,
đánh giá ngay trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên lớp chưa được
quan tâm thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Chưa nhận thức đúng mối
quan hệ giữa đổi mới PPDH và đổi mới kiểm tra, đánh giá nên đã gây khó khăn
không nhỏ cho việc tự học của học sinh cũng như phản ánh không khách quan
kết quả học tập của các em...
b/ Về phần học sinh:
Nhiều học sinh lớp 12 còn nặng nề tư tưởng coi môn Địa lí là môn phụ,
toàn khối 12 năm học 2015 – 2016 ở trường tôi chỉ có 3 em/ 270 em học sinh
theo học khối C còn lại là các em theo khối A, A1, B, D1, T, M... nên nhiều em
có thái độ xem nhẹ việc học Địa lí. Biểu hiện:
- Tỷ lệ bài kiểm tra trung bình học kì I của toàn khối 12 như sau: loại giỏi
6,3%, loại khá 51,5%, loại trung bình 37,4%, loại yếu 4,8%.
- Thực trạng học địa lí ở những lớp này thường không sôi nổi. Các em chỉ
học và trả lời những kiến thức có sẵn trong sách, khả năng tư duy và tìm tòi
kém. Những câu hỏi mở rộng được giáo viên đưa ra các em ít khi trả lời đúng và
đầy đủ.
- Thái độ đối với học tập không hào hứng, nhiệt tình, mang đậm tính sách
vở, nhiều khi còn học vẹt, đối phó trong các giờ kiểm tra nên tỷ lệ học sinh giỏi
rất ít vì vậy việc học địa lí trở nên nhàm chán, ít cuốn hút các em hơn.


4


III/ Biện pháp khắc phục:
Trước hết, tôi muốn đưa ra một số giải pháp giúp học sinh lớp 12 –
trường THPT Nguyễn Quán Nho có hứng thú và yêu thích môn Địa lí:
1/ Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh để thể hiện các mối quan
hệ địa lí:
Qua nghiên cứu và thực nghiệm giảng dạy Địa lí tại trường tôi thấy rằng
ngoài các hình thức dạy học truyền thống nếu ta biết đổi mới phương pháp nhằm
phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học thì hiệu quả bài dạy
cao hơn. Các mối quan hệ địa lí rất đa dạng và phong phú: tự nhiên - tự nhiên, tự
nhiên - xã hội, kinh tế xã hội - tự nhiên cùng với việc tạo không khí chủ động
học sinh nắm bài nhanh hơn, dễ dàng phân biệt được các mối quan hệ để phán
đoán nhận định đúng về các sự vật, hiện tượng địa lí. Đối với mỗi bài dạy người
giáo viên cần xác định rõ mục tiêu bài đó cần cung cấp cho học sinh những kiến
thức gì? Rèn kỹ năng địa lí gì? Dựa trên mục tiêu đó giáo viên sẽ chọn lựa hình
thức, biện pháp phù hợp với nội dung bài học.
Đối với học Địa lí thì sử dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực
chủ động trong giờ học Địa lí là một thế mạnh thu hút sự chúg ý rất lớn với học
sinh. Các em sẽ được tự mình sắp xếp thể hiện các mối quan hệ địa lí một cách
dễ dàng hơn theo cách hiểu của mình, được thể hiện khả năng tư duy trước mọi
người. Đó cũng là một cách để học sinh tham gia vào bài giảng nhiều hơn, thúc
đẩy sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập, tạo không khí sôi nổi vui vẻ. Hơn
nữa để tham gia được vào những phương pháp đổi mới địa lí ấy, đòi hỏi các em
phải chăm học, tập trung nghe giảng trên lớp, luôn quan sát mọi sự vật hiện
tượng xung quanh, chăm đọc sách báo. Nhờ vậy khả năng tư duy nhanh nhạy,
sáng tạo, từ đó sẽ có nhiều cách học thông minh được trò tìm ra và thể hiện, học
hỏi lẫn nhau. Do đó học Địa lí sẽ nhàn hơn, dễ hiểu, dễ nhớ, khiến các em yêu

thích môn học.
2/ Xây dựng tình huống có vấn đề:
- Tình huống có vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích
muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách
nào, chưa đủ kiến thức để giải quyết.
- Khi xây dựng tình huống có vấn đề, GV cần cung cấp thông tin, tạo tình
huống, HS phát hiện vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tự đề xuất các giả thuyết và
lựa chọn phương pháp giải quyết sau đó GV và HS cùng đánh giá.
Ví dụ: Địa lí 12 – Bài 8: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển:
GV đặt câu hỏi có vấn đề và yêu cầu HS thảo luận theo nhóm. Nội dung câu hỏi:
“Tại sao cùng vĩ độ với nước ta nhưng ở khu vực Tây Nam Á lại có cảnh quan
5


hoang mạc và bán hoang mạc còn cảnh quan thiên nhiên ở nước ta lại phát
triển đới rừng nhiệt đới ẩm quanh năm xanh tốt”?
HS có thể đưa ra các giả thuyết để trả lời, như:
- Nguyên nhân làm cho Tây Nam Á phát triển cảnh quan hoang mạc và bán
hoang mạc, do: Tây Nam Á là khu vực nằm sâu trong lục địa nên khí hậu mang
tính lục địa khô nóng, khắc nghiệt...
- Nguyên nhân làm cho cảnh quan thiên nhiên nước ta phát triển đới rừng
nhiệt đới ẩm, khác biệt so với Tây Nam Á, do: nước ta có đường bờ biển dài
(3260km), từ Bắc xuống Nam nước ta có 28/63 tỉnh giáp biển Đông, đây là kho
dự trữ ẩm dồi dào, khi các khối khí từ biển thổi vào nước ta sẽ mang lại lượng
mưa và đổ ẩm lớn làm cho khí hậu nước ta mang tính hải dương sâu sắc...
GV nhận xét và cũng cố lại kiến thức cho HS, nhấn mạnh: Biển Đông đã
tác động mạnh mẽ đến thiên nhiên nước ta làm cho cảnh quan thiên nhiên nước
ta ôn hòa, cây cối 4 mùa xanh tốt, khác hẳn so với các nước khác có cùng vĩ độ.
3/ Tổ chức trò chơi.
a/ Thi giải thích các hiện tượng địa lí trong bài.

b/ Mô tả các mối quan hệ địa lí theo cách của em.
c/ Xếp hình và ghép tên.
Ví dụ: Địa lí 12: Bài 3: Vấn đề khai thác thế mạnh ở TDMN Bắc Bộ.
Nối tên các nhà máy thủy điện với các dòng sông tương ứng:
1/ Hòa Bình

A/ Sông Chảy

2/ Sơn La

B/ Sông Gâm

3/ Thác Bà

C/ Sông Đà

4/ Tuyên Quang
*Lưu ý: Với mỗi hình thức trò chơi, ngoài đáp án đã soạn sẵn giáo viên có
thể đánh giá cho điểm dưới nhiều hình thức khác nhau tạo không khí sôi nổi
trong học tập. Giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau trong kiểm
tra và củng cố bài, tuỳ theo từng bài học để lựa chọn. Bằng cách nêu các câu hỏi
tình huống có vấn đề, sử dụng các dạng bài tập có sẵn trong SGK, SBT, hoặc
GV tự nghĩ ra, bằng cách sử dụng bảng phụ có đề sẵn trò chơi, tận dụng bảng
chữ cái tiếng Anh đa dụng, các thanh gắn nam châm hoặc các mảnh xốp mỏng,
giấy A4 để tự tạo ra các trò chơi đơn giản nhằm phục vụ cho học tập đạt hiệu
quả. Qua đó giúp học sinh tự mình khái quát lại toàn bộ những kiến thức cần
nắm vững sau bài học.
6



`4/ Sử dụng các phương tiện nghe nhìn (máy chiếu projector):
Thực tế cho thấy, việc đổi mới phương pháp chỉ có hiệu quả và tác động
tích cực khi giảng viên có kiến thức chuyên môn vững vàng và được trang bị
những kỹ năng cần thiết về khả năng thuyết trình, hiểu biết và sử dụng các công
cụ hỗ trợ giảng dạy như tin học và các trang thiết bị nghe nhìn. Việc sử dụng các
phương tiện nghe nhìn như máy chiếu projector vào trong giảng dạy giúp cho
người học có hứng thú, dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ qua đó giúp người dạy chuyển
tải nội dung đến người học một cách có hiệu quả nhất.
Ví dụ 1: Địa lí 12: Bài 33 - Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở
Đồng bằng sông Hồng.
GV giới thiệu bài mới bằng cách cho HS quan sát lên màn chiếu projector
những hình ảnh sau và hãy cho biết những hình ảnh này nhắc đến vùng kinh tế
nào ở nước ta?
1

4

2

3

HS dựa vào hiểu biết của mình có thể trả lời được : Đây là những hình ảnh
nhắc đến vùng Đồng bằng sông Hồng, cụ thể :
- Hình 1: thể hiện cánh đồng lúa chín. Lúa nước là cây trồng truyền thống
của vùng Đồng bằng sông Hồng.
- Hình 2: Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, đặt ở Hà Nội. Hà Nội là thủ đô của cả
nước và cũng là một tỉnh của vùng Đồng bằng sông Hồng.
7



- Hình 3: Hồ Gươm hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm, là một trong những điểm
du lịch hấp dẫn ở Hà Nội.
- Hình 4: Thể hiện mật độ người tham gia giao thông quá đông đúc dẫn đến
tình trạng tắc đường ở thủ đô Hà Nội.
Ví dụ 2: Địa lí 12: Bài 6: Đất nước nhiều đồi núi.
Khi cho HS tìm hiểu về đặc điểm địa hình vùng núi Đông Bắc, GV sử dụng
phần mềm MAP INFO để tạo lược đồ địa hình vùng núi Đông Bắc được tách ra
từ lược đồ địa hình Việt Nam rồi sử dụng máy chiếu projector để chiếu lên cho
HS quan sát kĩ:
LƯỢC ĐỒ ĐỊA HÌNH VÙNG NÚI ĐÔNG BẮC

Sau khi quan sát lược đồ địa hình vùng núi Đông Bắc trên màn chiếu, HS
có thể thấy được:
- Hướng núi: vòng cung với 4 cánh cung chụm đầu ở dãy núi Tam Đảo
thuộc huyện Việt Trì - tỉnh Phú Thọ, mở ra ở hướng Bắc( CC. Sông Gâm, CC.
Ngân Sơn), và ở hướng Đông(CC. Bắc Sơn, CC. Đông Triều) tạo thuận lợi cho
gió mùa Đông Bắc xâm nhập vào lãnh thổ nước ta.
- Địa hình núi thấp và núi trung bình chiếm phần lớn diện tích…
Thứ hai, để học sinh lớp 12 trường tôi có được những kĩ năng học tốt
môn địa lí tôi mạnh dạn đề xuất những giải pháp sau:

8


1/ Tổ chức và hướng dẫn học sinh kĩ năng sử dụng các thiết bị:
Thiết bị và phương tiện dạy học phong phú, hiện đại, thực sự là công cụ
cho học sinh trong việc nghiên cứu khám phá kiến thức một cách nhanh chóng
và có hiệu quả nhất. Do vậy, giáo viên cần tổ chức hướng dẫn học sinh tiến hành
các hoạt động học tập nhằm khai thác và lĩnh hội kiến thức với phương tiện dạy
học Địa lí sau:

a/ Đọc bản đồ, lược đồ:
Đối với việc dạy học Địa lí, bản đồ là nguồn kiến thức quan trọng và được
coi như quyển sách thứ hai của học sinh. Tổ chức cho học sinh làm việc với bản
đồ giáo viên cần lưu ý hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trên bản đồ theo
các bước sau:
- Đọc tên bản đồ để biết đối tượng địa lí thể hiện trên bản đồ là gì?
Ví dụ:
Bản đồ địa hình thì đối tượng thể hiện trên bản đồ chủ yếu là địa hình (các
dạng địa hình và sự phân bố của chúng); Bản đồ khí hậu thì đối tượng thể hiện
chủ yếu của bản đồ sẽ là các yếu tố khí hậu (Nhiệt độ, khí áp, gió, mưa...) hoặc
bản đồ công nghiệp thì đối tượng thể hiện chủ yếu sẽ là các trung tâm và các
ngành công nghiệp.
- Đọc bảng chú giải để biết cách người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ
như thế nào? Bằng các kí hiệu gì? Bằng các màu gì? Bởi các kí hiệu qui ước trên
bản đồ là những biểu trưng của các đối tượng, hiện tượng địa lí trong hiện thực
khách quan. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết thông qua những
kí hiệu đó mà rút ra nhận xét về tính chất, đặc điểm của các đối tượng địa lí
được thể hiện trên bản đồ.
- Dựa vào các kí hiệu, màu sắc trên bản đồ để xác định vị trí của các đối
tượng địa lí.
- Dựa vào bản đồ kết hợp với kiến thức địa lí, vận dụng các thao tác tư duy
(so sánh, phân tích, tổng hợp) để phát hiện các mối liên hệ địa lí không thể hiện
trực tiếp trên bản đồ (đó là mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, các yếu tố kinh
tế với nhau) nhằm giải thích sự phân bố cũng như đặc điểm các đối tượng, hiện
tượng địa lí.
b/ Biểu đồ:
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phân tích biểu đồ theo các bước:
- Đọc tiêu đề phía trên hoặc phía dưới biểu đồ, xem biểu đồ thể hiện, hiện
tượng gì? (khí hậu, cơ cấu kinh tế, phát triển dân số…).
9



- Tìm hiểu xem các đại lượng thể hiện trên biểu đồ là gì?(nhiệt độ, lượng
mưa, các ngành kinh tế, dân số...) trên lãnh thổ nào và thời gian nào, được thể
hiện trên biểu đồ như thế nào? (theo đường, cột, hình quạt...) và trị số các đại
lượng được tính bằng gì?(mm, %, triệu người...).
Ví dụ: Địa lí 12: Bài 19: Thực hành: Vẽ biểu đồ và phân tích sự phân
hóa về thu nhập bình quân theo đầu người giữa các vùng.
Bảng 19 – SGK Trang 80. GV yêu cầu HS đọc bảng số liệu và đọc kĩ lệnh
câu hỏi đặt ra yêu cầu vẽ biểu đồ thể hiện yếu tố địa lí nào để lựa chọn dạng biểu
đồ thích hợp. Cụ thể:
Yêu cầu: Vẽ biểu đồ thể hiện thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa các
vùng nước ta, năm 2004.
HS vận dụng kiến thức của mình và nhận dạng biểu đồ thích hợp với yêu cầu
của đề bài là dạng Biểu đồ cột đơn hoặc biểu đồ thanh ngang:
- Tên biểu đồ: Biểu đồ thể hiện mức thu nhập bình quân đầu người/tháng
giữa các vùng nước ta, năm 2004.
- Trục đứng thể hiện mức thu nhập bình quân đầu người/tháng (đơn vị:
Nghìn đồng, tỉ lệ chia ở trục đứng dựa vào số liệu trong SGK), trục ngang thể
hiện tên vùng (khoảng cách giữa các vùng đặt trên trục là bằng nhau). GV chuẩn
hóa kiến thức, yêu cầu một HS lên bảng vẽ mẫu:

BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI/THÁNG
GIỮA CÁC VÙNG NĂM 2004.

c/ Bảng số liệu:
Khi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ các bảng số liệu thống kê
(hoặc các số liệu riêng lẻ). Cần chú ý học sinh:
10



-

Không bỏ sót số liệu nào.
Phân tích các số liệu tổng quát trước khi đi vào số liệu cụ thể.
Tìm các trị số lớn nhất, nhỏ nhất, trung bình.
Xác lập mối quan hệ giữa các số liệu, so sánh đối chiếu các số liệu
theo cột, theo hàng để rút ra nhận xét.
- Đặt ra các câu hỏi để giải đáp trong khi phân tích, tổng hợp các số liệu
nhằm tìm ra kiến thức mới.
Ví dụ: Địa lí 12: Bài 38: Thực hành: So sánh về cây công nghiệp lâu
năm và chăn nuôi gia súc lớn giữa vùng TDMN Bắc Bộ và Tây Nguyên.
Yêu cầu HS phân tích bảng số liệu 38.2 – SGK trang 175:
Số lượng trâu, bò năm 2005. (ĐV: Nghìn con):
TDMN Bắc Bộ

Tây Nguyên

Trâu

1679,5

71,9



899,8

616,9


- Đọc rõ số liệu.
- So sánh số liệu và rút ra nhận xét:
+ Số lượng trâu ở TDMN Bắc Bộ nhiều hơn ở Tây Nguyên (d/c cụ thể).
+ Số lượng bò ở Tây Nguyên nhiều hơn ở TDMN Bắc Bộ (d/c cụ thể) .
- Câu hỏi đặt ra cho bảng số liệu:
Vì sao ở TDMN Bắc Bộ trâu được nuôi nhiều hơn bò, còn ở Tây
Nguyên thì ngược lại?(chủ yếu là do sự khác nhau về điều kiện khí hậu
của 2 vùng, phù hợp với đặc điểm sinh thái của từng loài vật nuôi để tạo
nên được thế mạnh của mỗi vùng: Trâu là vật nuôi khỏe, ưa ẩm và có khả
năng chịu rét tốt nên được nuôi nhiều ở TDMN Bắc Bộ. Bò là vật nuôi ưa
khí hậu khô, nóng nên được nuôi nhiều ở Tây Nguyên).
2/ Tổ chức hoạt động của học sinh theo những hình thức học tập khác nhau:
Để có thể tích cực hóa hoạt động học tập(TCHHĐHT) của học sinh, ngoài
hình thức tổ chức học tập tập trung theo lớp như hiện nay, nên tổ chức cho học
sinh học tập cá nhân và học tập theo nhóm ngay tại lớp.
a/ Hình thức học tập cá nhân.
Hình thức tự học tập cá nhân là hình thức học tập cơ bản nhất vì nó tạo
điều kiện cho mỗi học sinh trong lớp được tự nghĩ, tự làm việc một cách tích cực
nhằm đạt tới mục tiêu học tập. Việc tiến hành dạy học thông qua tổ chức hoạt
động học tập cá nhân có thể như sau:
11


- Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức (chung cho cả lớp)
và hướng dẫn (gợi ý) học sinh làm việc.
- Làm việc cá nhân (ghi kết quả ra giấy hoặc trả lời ra phiếu học tập)
- Giáo viên chỉ định một vài học sinh báo cáo kết quả, các học sinh khác
theo dõi, góp ý và bổ sung.
- Giáo viên tóm tắt, củng cố và chuẩn xác kiến thức.
b/ Hình thức học tập theo nhóm.

Hiện nay hoạt động nhóm có nhiều ưu điểm nổi bật, giúp học sinh phát
huy tối đa tính chủ động, tích cực trong giờ học. Khi cho học sinh hoạt động
theo nhóm, tùy theo bài mà GV có thể phân ra các nhóm nhỏ, lớn để thu hút HS
giải quyết vấn đề có hiệu quả.
Các bước tiến hành:
+ B1: Hình thành các nhóm làm việc: tổ chức nhóm, chỉ định chỗ làm việc
của các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm.
+ B2: Các nhóm thực hiện công việc: thảo luận, trao đổi ý kiến, đưa ra kết
luận chung, cử đại diện trình bày kết quả của nhóm trước lớp.
+ B3: Tổng hợp kết quả của các nhóm: đại diện các nhóm trình bày, các
nhóm khác nghe và nhận xét, bổ sung nếu còn thiếu.
+ B4: GV tóm tắt ý kiến phản hồi của các nhóm sau đó cùng cả lớp chốt lại
nội dung chủ yếu của bài học. GV nhận xét kết quả làm việc của từng nhóm và
tổng kết lại kiến thức toàn bài.
Ví dụ: Địa lí 12: Bài 9 - Thiên nhiệt đới ẩm gió mùa.
GV yêu cầu HS quan sát vào kênh chữ trong SGK và lược đồ gió mùa mùa
đông, gió mùa mùa hạ ở Đông Nam Á phóng to, rồi chia lớp thành 4 nhóm để
thảo luận nội dung bài học: “Tìm hiểu hoạt động của tính chất gió mùa ở nước
ta”, với thời lượng là 5 phút, cụ thể:
- Nhóm 1 và nhóm 2: Tìm hiểu về gió mùa mùa đông và điền nội dung vào
phiếu học tập.
- Nhóm 3 và nhóm 4: Tìm hiểu về gió mùa mùa hạ và điền nội dung vào
phiếu học tập.
Hs dựa vào SGK và lược đồ để trao đổi, thảo luận và đưa ra các ý kiến của
nhóm mình.

12


Sau khi các nhóm trình bày ý kiến của nhóm mình, GV gọi các nhóm khác

nhận xét, bổ sung và rút ra kiến thức cần nhớ của phần thảo luận qua bảng chuẩn
hóa kiến thức đã soạn sẵn:
Gió
mùa

Hướng
gió

Gió
mùa
mùa
Đông

Đông
bắc

Tây
nam
Gió
mùa
mùa
Hạ

Nguồn gốc

Áp cao Xibia

Phạm vi
hoạt
động


Thời
gian
hoạt
động

Tính
chất

Tháng 11 Lạnh
Mùa đông
Miền Bắc đến
khô,
lạnh ở miền
tháng 4
lạnh ẩm Bắc

Đầu mùa: Áp cao
bắc Ấn Độ
Dương

Tháng 5 Nóng
– tháng 7 ẩm

Mưa cho
Tây
Nguyên và
Nam Bộ,
khô nóng
cho Trung

Bộ

Tháng 6
- tháng
10

Mưa cả
nước

Cả nước
Đông
nam

Cuối mùa: Áp
cao cận chí tuyến
nam TBD

Ảnh hưởng
đến khí
hậu

Nóng
ẩm

- GV đánh giá cho điểm từng nhóm hoặc để HS tự đánh giá cho điểm các
nhóm dưới sự dẫn dắt của GV.
- Sau phần thảo luận GV có thể đưa thêm câu hỏi khó để HS suy nghĩ trả
lời nhằm khuyến khích các em tập trung, gợi óc liên tưởng, mở rộng kiến thức
cho HS: “Tại sao khi di chuyển xuống phía Nam thì gió mùa Đông Bắc bị suy
yếu? Lúc đó khí hậu ở miền Nam diễn biến như thế nào?”

HS tiếp tục thảo luận nhóm rồi cử một đại diện của nhóm đứng lên trả lời ,
GV nhận xét, bổ sung kiến thức cho HS, rồi cho điểm từng nhóm để tạo hứng
thú xây dựng bài cho các em.
IV/ Kết quả đạt được:
Sau khi tiến hành áp dụng những giải pháp giúp học sinh lớp 12 yêu thích
và học tốt môn Địa lí, tôi thấy đã đạt được những kết quả tích cực sau:
1/ Đối với giáo viên:
Với nhiều cách áp dụng hình thức dạy học giúp học sinh lớp 12 yêu thích
và học tốt môn Địa lí, tôi có thể sử dụng nó vào nhiều bước trong hoạt động dạy
học như: Kiểm tra bài, củng cố kiến thức, hệ thống hoá kiến thức cơ bản, tìm tòi
13


nghiên cứu phát hiện kiến thức mới… Thông qua các hình thức này, các bài dạy
của tôi đã thú vị hơn trước, sôi nổi hơn trước và lòng yêu nghề ham học hỏi
nhiều hơn, tránh được lối dạy học đọc, chép góp phần tạo thêm sự phong phú và
đa dạng hoá các hình thức dạy học trên lớp. Vì vậy việc dạy học trở nên thoải
mái nhẹ nhàng, chất lượng dạy học nâng cao.
2/ Đối với học sinh:
Các biện pháp đổi mới nhằm giúp học sinh lớp 12 yêu thích và học tốt
bộ môn Địa lí là hình thức cụ thể hoá thông tin, nó giúp các em nhìn thấy rõ các
mối quan hệ địa lí, nhất là những mối quan hệ nhân quả hay các mối quan hệ
phức tạp nhiều chiều mà nếu giải thích bằng lời thì rất khó diễn đạt. Vì thế sang
học kì II, sau khi áp dụng dạy học bằng các biện pháp trong đề tài này ở các lớp
12, tôi nhận thấy học sinh đã có nhiều tiến bộ rõ rệt so với học kì I, cụ thể:
- Ý thức học tập của học sinh tiến bộ rõ rệt, học sinh chăm học, chịu khó
nghe giảng hơn trước đây.
- Khả năng quan sát sự vật hiện tượng của học sinh tốt hơn. Các em đã chịu
khó quan sát những hiện tượng xảy ra xung quanh: Các loại đất ở địa phương;
nơi phân bố các điểm công nghiệp, các khu công nghiệp, các điểm du lịch…dựa

vào kiến thức đã học để tự mình lý giải nguyên nhân tạo nên chúng.
- Cách ghi vở, vẽ hình rõ ràng, sạch đẹp, ngắn gọn và đầy đủ kiến thức hơn
trước. Ngoài những kiến thức giáo viên đã ghi trên bảng, các em đã biết chọn
lựa ghi những kiến thức mà giáo viên nhấn mạnh trong lúc dạy để bài học đầy
đủ hơn, phong phú hơn.
TỔNG HỢP KẾT QUẢ XẾP LOẠI HỌC LỰC CỦA HỌC SINH KHỐI
12, MÔN ĐỊA LÍ , NĂM HỌC 2015 – 2016:
Lớp

Sĩ số

Học kì I

Học kì II

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Giỏi

Khá

TB

Yếu


12

270

17

139

101

13

36

180

54

0

Tỉ lệ

100%

6,3%

51,5
%


37,4
%

4,8%

13,3
%

66,7
%

20%

0%

Như vậy, so với cách dạy trước đây thì kết quả học tập nâng cao rõ rệt. Tỉ lệ
học sinh khá, giỏi nhiều hơn, lớp học sôi nổi hơn, các em đã biết đặt ra nhiều
câu hỏi nhằm tìm hiểu vấn đề sâu hơn, rõ hơn.

14


C/ KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
I/ Kết luận:
Mỗi một môn học trong nhà trường là một mảng của đời sống được đúc
rút, tích luỹ qua nhiều thế hệ. Người giáo viên có nhiệm vụ truyền đạt những tri
thức ấy tới thế hệ trẻ, bồi dưỡng cho các em nguồn kiến thức cơ bản, giáo dục
cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, biết trân trọng những gì cuộc sống
đã ban tặng cho con người. Từ đó phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo những tri
thức mới phục vụ cho cuộc sống và góp phần xây dựng tổ quốc giàu đẹp hơn.

Ngày nay trước những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật, công
nghệ thông tin. Trên thế giới chúng ta đang nỗ lực không ngừng để đổi mới
nhiều mặt giáo dục, nhưng phải hiểu rằng không có phương pháp giảng dạy nào
là tuyệt đối. Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy
Địa lí nói riêng là một yêu cầu cần thiết và cấp bách, nhưng quan trọng hơn là
việc áp dụng phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học đó như thế nào
để đạt kết quả cao trong dạy và học. Vì vậy, tùy vào từng đối tượng học sinh mà
người giáo viên cần phải vận dụng linh hoạt, có hiệu quả các phương pháp đặc
trưng của bộ môn, để thực hiện quá trình dạy học đạt kết quả cao.
Qua kinh nghiệm bản thân tôi thấy rằng áp dụng phương pháp dạy học
mới ở trường tôi đôi lúc vẫn còn khó khăn nhưng không phải là không làm
được, chỉ cần người giáo viên đủ lòng nhiệt tình, trách nhiệm và mạnh dạn tiến
hành từng bước, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp thì sẽ đạt được kết quả.
Tôi viết đề tài này cũng không ngoài mục đích nêu lại kinh nghiệm mà bản thân
tôi đã trải nghiệm qua thực tế giảng dạy để đồng nghiệp tham khảo. Hy vọng
rằng với chính lòng nhiệt huyết yêu nghề của tôi cũng như của đội ngũ giáo viên
trong trường sẽ đem lại nhiều cách dạy mới, hiệu quả hơn, để phục vụ tốt hơn
nữa cho sự nghiệp giáo dục mà chúng ta đã chọn./.
II/ Kiến nghị:
- Nhà trường nên mua bổ sung kịp thời những tài liệu nâng cao mới nhằm
giúp giáo viên cập nhật những nội dung mới để đưa vào giảng dạy.
- Sang năm học 2016 – 2017, tôi rất mong nhà trường thành lập được ít nhất
một lớp khối C để nhiều em có hứng thú và năng khiếu học Địa lí cũng như các
môn xã hội khác được theo học.
- Cấp trên nên động viên, khen thưởng kịp thời đối với những học sinh có
thành tích cao để các em tự hào và quyết tâm hơn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1/ Sách giáo khoa Địa lí 12 (NXB Giáo dục Việt Nam).
2/ Sách giáo viên Địa lí 12 (NXB Giáo dục Việt Nam).
3/ Tài liệu: Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Địa lí 12 (NXB Đại
học sư phạm Hà Nội).
4/ Tài liệu: Phương pháp dạy học Địa lí theo hướng tích cực (NXB Đại
học sư phạm Hà Nội).
5/ Tài liệu: Hướng dẫn sử dụng phần mềm MAP.INFO vào giảng dạy Địa
lí THPT (NXB Đại học sư phạm Hà Nội).
-------------------------------------------------------------

16


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ.

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2016.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Vũ Thị Đan Phượng

17




×