Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kỹ năng hỗ trợ nhằm nâng cao việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy và học địa lý 12 ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.28 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT LƯƠNG ĐẮC BẰNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ KĨ NĂNG HỖ TRỢ NHẰM NÂNG CAO CÓ HIỆU QUẢ
VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN
TRONG DẠY VÀ HỌC ĐỊA LÍ 12 Ở TRƯỜNG THPT

Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Tổ Sử - Địa - Giáo dục công dân
Sáng kiến kinh nghiệm thuộc môn Địa lý

Năm học: 2015 -2016


PHỤ LỤC
Trang
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………1
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….2
1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………2
1.3.1. Nhiệm vụ đề tài……………………………………………………..2
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………2
PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận…………………………………………………………..3
2.2. Thực trạng dạy học địa lí ở cấp THPT. ………………………………2
2.3. Một số giải pháp cụ thể. ………………………………………………4
2.3.1. Tổ chức hướng dẫn học sinh kĩ năng sử dụng thiết bị………………4


2.3.1.1. Bản đồ, lược đồ……………………………………………………4
2.3.1.2. Biểu đồ……………………………………………………………6
2.3.1.3. Tranh ảnh địa lí……………………………………………………7
2.3.1.4. Bảng số liệu……………………………………………………….9
2.3.1.5. Khai thác kiến thức từ atlat địa lí Việt Nam………………………11
2.3.2. Tổ chức học sinh thu thập, xử lí thông tin…………………………..13
2.3.3.Tổ chức hoạt động của học sinh theo hình thức học tập khác nhau…13
2.3.3.1. Hình thức học tập cá nhân. ………………………………………..14
2.3.3.2. Hình thức học tập theo nhóm. …………………………………….14
2.4. Kết quả đạt được………………………………………………………15
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận………………………………………………………………..17
3.2. Những kiến nghị sau quá trình thực hiện. …………………………….17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Địa lí lớp 12 (NXB Giáo dục): Lê Thông (chủ biên)
2. SGV Địa lí lớp 12 (NXB Giáo dục): Lê Thông (chủ biên)
3. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở Trường THPT (Bộ Giáo dụcĐào tạo.Xuất bản năm 2002). Nhóm tác giả: TS. Nguyễn Thị Minh Phương, Th.S.
Phạm Thu Phương, Phạm Thị Sen, Nguyễn Việt Hùng, TS. Nguyễn Hữu Chí, TS.
Vũ Ngọc Anh, TS. Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Sĩ Quế, Đặng Thúy Anh, Nguyễn
Thị Thanh Mai, TS. Lưu Thu Thủy.
4. Hướng dẫn sử dụng Át lát địa lí Việt Nam ( Đỗ Ngọc Tiến)


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài:
Những năm gần đây, nền kinh tế tri thức đặt ra yêu cầu cấp thiết là nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nhằm từng bước cải tổ và chấn
hưng nền giáo dục Quốc gia, đáp ứng và phù hợp với xu thế hội nhập toàn cầu. .
Thông qua sự đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đổi mới phương pháp,
phương tiện dạy học nhằm đào tạo ra lớp người năng động, linh hoạt có đủ năng

lực, phẩm chất, trí tuệ và hoàn thiện về nhân cách để đảm đương sứ mệnh chủ nhân
tương lai của đất nước – một đất nước đang trong thời kỳ vươn mình ra biển rộng,
hội nhập vào một sân chơi lớn mà ở đó ngoài việc được đối xử bình đẳng, được
tiếp cận với những tiến bộ của nền kinh tế tri thức, ta còn khẳng định vị thế phát
triển nước ta trên trường Quốc tế bằng lối đi riêng với bản sắc riêng của dân tộc
mình.
Tuy nhiên Địa lý là một môn khoa học có phạm trù rộng lớn và có tính thực
nghiệm cao, vừa có tính chất tự nhiên vừa có tính chất xã hội. Nó không chỉ dừng
lại ở việc mô tả các sự việc và hiện tượng địa lý xảy ra trên bề mặt Trái Đất mà còn
tìm cách giải thích, phân tích, so sánh, tổng hợp các yếu tố địa lý cũng như thấy
được mối quan hệ giữa chúng với nhau. Mặt khác nó còn góp phần phát hiện, sử
dụng, khai thác và cải tạo tài nguyên thiên nhiên, môi trường một cách hợp lý
nhằm góp phần tích cực vào xây dựng kinh tế xã hội,quốc phòng và an ninh quốc
gia.
Để phù hợp với đặc trưng bộ môn, đồng thời thực hiện tốt quá trình đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa các hoạt động học của học sinh.
Vậy việc dạy học môn địa lý ở các trường phổ thông muốn đạt được chất lượng
cao thì đi đôi với lý thuyết, việc sử dụng đồ dùng trực quan đặc biệt là kênh hình là
một yếu tố bắt buộc và có tác dụng lớn để phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh trong quá trình học tập, tăng cường kỹ năng địa lý( nhận xét, phân tích,
giải thích,đánh giá, so sánh, tổng hợp… qua các bản đồ, biểu đồ,tranh ảnh…), qua
đó học sinh sẽ tự mình phát hiện kiến thức và khắc sâu nội dung bài học. . Để giúp
học sinh nắm và hiểu bài, người giáo viên phải biết sử dụng, khai thác và hiểu rõ
kênh hình muốn truyền đạt nội dung gì. Đây là một trong những yếu tố gây hứng
thú, lôi cuốn học sinh, giúp các em hiểu bài dễ dàng, ghi nhớ lôgic, không máy
móc, làm cho tư duy các em sau này có thể tự phân tích, giải thích khi không có
giáo viên và ngay trong cuộc sống thực tế.
Qua thực tế giảng dạy môn Địa lý, qua dự giờ của đồng nghiệp, trao đổi chuyên
môn, tôi nhận thấy nhiều em học sinh còn quan niệm môn Địa lý là môn học thuộc
lòng. Chính vì vậy trong những năm qua khi tiến hành cải cách giáo dục chúng ta

đã cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tăng cường tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, bằng cách phải chú ý rèn luyện cho học sinh


kỹ năng sử dụng kênh hình như: Tranh ảnh, biểu đồ, bản đồ, sơ đồ, bảng số liệu…
để giảm tính trừu tượng cho học sinh.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, mong muốn khắc phục những khó khăn tồn
tại trong dạy và học môn Địa lí tại trường nhà, tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm : "Một số kĩ năng hỗ trợ nhằm nâng cao có hiệu quả việc sử dụng

phương tiện trực quan trong dạy và học địa lí 12 ở trường THPT " nhằm
giúp cho học sinh có thể đạt được kết quả ngày cao, đáp ứng được mục đích mà
người học đề ra.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Hướng dẫn học sinh có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu, kết hợp sử dụng sách giáo
khoa, thiết bị dạy học nhằm hình thành kĩ năng học tốt môn Địa lí.
Giúp học sinh nâng cao năng lực sử dụng như: quan sát, phân tích ,tổng hợp,
so sánh...kiến thức từ bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu có sẵn. Giúp giáo viên nâng
cao năng lực lựa chọn phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá phù hợp
hơn.
Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng phương tiện trực quan đã có ở lớp
dưới, từ khâu bước đầu tìm hiểu, làm quen đến khâu trình bày, phân tích, giải thích
và rút ra những kiến thức mới , góp phần phát triển năng lực tư duy, sáng tạo và
biết cách làm bài đạt kết quả cao của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
1.3.1. Nhiệm vụ của đề tài
Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sử dụng các phương tiện trực quan
trong vấn đề khai thác tự nhiên và phát triển các ngành kinh tế nước ta của học
sinh lớp 12 Trường THPT Lương Đắc Bằng.
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

- Phương pháp quan sát: Qua dự giờ thao giảng ở tổ chuyên môn.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp so sánh.
-Phương pháp khảo sát, thống kê, tổng kết rút kinh nghiệm.
- Phương pháp thực tiễn


PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lý luận:
- Môn Địa lí trong nhà trường có khả năng bồi dưỡng cho học sinh một
khối lượng kiến thức phong phú về địa lí tự nhiên, địa lí kinh tế - xã hội và những
kĩ năng, kĩ xảo cần thiết trong cuộc sống, đặc biệt là kĩ năng bản đồ mà không một
môn học nào đề cập tới. Vì vậy, để giúp học sinh hiểu, nắm vững các kĩ năng và
kiến thức địa lí trong dạy học Địa lí giáo viên cần đặc biệt coi trọng các vấn đề sau:
+ Hình thành cho học sinh hệ thống các biểu tượng, khái niệm địa lí, các
mối quan hệ địa lí, nhất là mối quan hệ nhân quả.
+ Phát triển cho học sinh tư duy địa lí đó là tư duy liên hệ tổng hợp xét đoán
dựa trên bản đồ.
+ Tận dụng triệt để các thiết bị dạy học Địa lí như tranh ảnh, bản đồ, biểu
đồ, bảng thống kê, băng đĩa hình, trong đó quan trọng nhất là bản đồ. Qua bản đồ,
học sinh dễ dàng có được các biểu tượng trong không gian đồng thời phát triển tư
duy địa lí.
+ Tăng cường hướng dẫn học sinh quan sát, thu thập thông tin, vận dụng
kiến thức, kĩ năng địa lí để giải quyết vấn đề có liên quan trong cuộc sống.
2.2. Thực trạng dạy học địa lí ở cấp THPT:
Từ trước đến nay, trong dạy học Địa lí, giáo viên chủ yếu sử dụng các
phương pháp dạy học như phương pháp dùng lời, phương pháp sử dụng các
phương tiện trực quan (mô hình, bản đồ, tranh ảnh, các loại biểu bảng…).Có thể
nói một số không ít giáo viên có tâm huyết với nghề nghiệp, có hiểu biết sâu sắc về
bộ môn đã sử dụng các phương pháp này khá tốt, khêu gợi được suy nghĩ, tìm tòi,

tự lực của học sinh. Tuy nhiên, cũng không ít giáo viên còn ít quan tâm tới việc
phát huy tính tích cực học tập của học sinh khi sử dụng các phương pháp dạy học
nói trên. Có thể nhận thấy những nét chung của giáo viên sử dụng phương pháp
trong dạy học môn địa lí như sau:
Phương pháp dùng lời cho đến nay vẫn được coi là một trong những phương
pháp chính để chỉ đạo học sinh lĩnh hội kiến thức và kĩ năng địa lí, đặc biệt là khâu
nắm kiến thức mới. Phương pháp vấn đáp cũng là một trong những phương pháp
dùng lời được sử dụng phổ biến hiện nay, trong đó thiên về vấn đáp tái hiện và vấn
đáp giải thích minh họa.Việc sử dụng các phương pháp dùng lời như vậy thực chất
là giáo viên giảng- học sinh nghe, giáo viên ghi bảng- học sinh chép vào vở, giáo
viên chỉ bản đồ- học sinh nhìn theo, giáo viên hỏi- học sinh trả lời.Giáo viên chủ
động truyền đạt một cách rõ ràng, mạch lạc nội dung bài đã được chuẩn bị sẵn, trò
thụ động tiếp thu và ghi nhớ những nội dung mà giáo viên truyền đạt, kết hợp trả
lời câu hỏi giáo viên nêu ra.
Phương pháp trực quan: hiện nay đại đa số giáo viên địa lí sử dụng các
phương tiện trực quan theo cách của phân tích minh họa, ít chú ý đến vai trò là


nguồn kiến thức của chúng và chưa chú ý đúng mức đến việc cho học sinh tự làm
việc với các phương tiện này. Chính vì vậy, rất nhiều học sinh không biết đọc bản
đồ, không biết khai thác các bảng số liệu, tranh ảnh địa lý, hình vẽ ngay cả sơ đồ,
biểu đồ…, nói chung kĩ năng địa lí của học sinh còn yếu.
Trong những năm qua, cùng với việc triển khai cải cách giáo dục, phương
pháp dạy học Địa lí tuy đã có một số cải tiến, chú ý tới việc phát huy tính tích cực
của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức bằng cách tăng cường hệ thống câu
hỏi có yêu cầu phát triển tư duy, nhưng đó chỉ là những câu hỏi do giáo viên nêu ra
và giáo viên dẫn dắt đến đâu thì giải quyết đến đó chứ bản thân học sinh chưa có
nhu cầu nhận thức, chưa chủ động tìm tòi, suy nghĩ và giải quyết những vấn đề đặt
ra trong bài học.
Nguyên nhân của những tồn tại trên đó là chưa có sự triển khai đồng bộ trong các

khâu: Bồi dưỡng giáo viên, đổi mới cách viết sách giáo khoa, sách giáo viên, cơ sở
vật chất kỹ thuật, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá…trong đó chế độ thi cử còn
chia ra các môn “chính phụ” là những trở ngại lớn. Nhiều giáo viên chưa tâm huyết
với nghề nghiệp, chưa đầu tư nhiều vào chuyên môn vì quan niệm môn Địa lí là
môn phụ.
2.3. Một số giải pháp cụ thể hướng dẫn học sinh học tập Địa lí thông qua
phương tiên trực quan:
2.3.1 Tổ chức và hướng dẫn học sinh kĩ năng sử dụng các thiết bị:
Thiết bị và phương tiện dạy học có một ý nghĩa trong môn Địa lý bởicác sự
vật, hiện tượng địa lý trải ra ở khắp nơi trong không gian rộng lớn của Trái Đất,
học sinh không thể quan sát trực tiếp được, phải thông qua các thiết bị và phương
tiện dạy học. Mặt khác mỗi sự vật, hiện tượng địa lý lại đa dạng và phức tạp, nhờ
vào thiết bị và phương tiện dạy học mới trở nên gần gũi, cụ thể hơn đối với nhận
thức của học sinh.
Thiết bị và phương tiện dạy học phong phú, hiện đại, thực sự là công cụ cho
học sinh trong việc nghiên cứu khám phá kiến thức một cách nhanh chóng và có
hiệu quả nhất. Do vậy, giáo viên cần tổ chức hướng dẫn học sinh tiến hành các hoạt
động học tập nhằm khai thác và lĩnh hội kiến thức với phương tiện dạy học Địa lí
sau:
2.3.1.1. Bản đồ, lược đồ:

Đối với việc dạy học Địa lí, bản đồ là nguồn kiến thức quan trọng và được
coi như quyển sách thứ hai của học sinh. Tổ chức cho học sinh làm việc với bản đồ
giáo viên cần lưu ý hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trên bản đồ theo các
bước sau:
Đọc tên bản đồ để biết đối tượng địa lí thể hiện trên bản đồ là gì?
Như bản đồ địa hình thì đối tượng thể hiện trên bản đồ chủ yếu là địa hình
( các dạng địa hình và sự phân bố của chúng); Bản đồ khí hậu thì đối tượng thể
hiện chủ yếu của bản đồ sẽ là các yếu tố khí hậu ( Nhiệt độ, khí áp, gió, mưa...)



hoặc bản đồ công nghiệp thì đối tượng thể hiện chủ yếu sẽ là các trung tâm và các
ngành công nghiệp.
Đọc bảng chú giải để biết cách người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ
như thế nào? Bằng các kí hiệu gì? Bằng các màu gì? Bởi các kí hiệu qui ước trên
bản đồ là những biểu trưng của các đối tượng, hiện tượng địa lí trong hiện thực
khách quan. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết thông qua những kí
hiệu đó mà rút ra nhận xét về tính chất, đặc điểm của các đối tượng địa lí được thể
hiện trên bản đồ.
Dựa vào các kí hiệu, màu sắc trên bản đồ để xác định vị trí của các đối
tượng địa lí.
Ví dụ1:
Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ lược đồ “ Các nước Đông Nam
Á” trong SGK Địa lí Lớp 12 trang 14.(Bài 2: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ.), trang
31 ( Bài 6 - Đất nước nhiều đồi núi), trang 37 ( Bài 8 – Thiên nhiên chịu ảnh
hưởng sâu sắc của biển) , hay ở trang 43 ( Bài - Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa)
….
Qua các lược đồ ở SGK này để học sinh nắm rõ đặc điểm nổi bật của cấu
trúc, sự phân hóa địa hình Việt Nam, địa hình vùng biển, phạm vi thềm lục địa,
dòng hải lưu, các dạng địa hình ven biển…Hay hiểu được các đặc điểm cơ bản của
khí hậu Việt Nam, nguyên nhân hình thành nên đặc điểm khí hậu.

- Tên lược đồ : “ Các nước Đông Nam Á”.
+ Nhìn vào ta có thể chỉ cho học sinh xác định được vị trí địa lí và hiểu
được tính toàn vẹn của phạm vi lãnh thổ nước ta.


+ Xác định được ý nghĩa của vị trí địa lí với đặc điểm tự nhiên, sự phát triển
kinh tế -xã hội và vị thế của nước ta trên thế giới.
+ Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ là những yếu tố góp phần hình thành nên

đặc điểm chung của tự nhiên và có ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động
kinh tế nước ta.
2.3.1.2. Biểu đồ:

Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phân tích biểu đồ theo các bước:
- Đọc tiêu đề phía trên hoặc phía dưới biểu đồ, xem biểu đồ thể hiện, hiện
tượng gì ?(khí hậu, cơ cấu kinh tế, phát triển dân số...).
- Tìm hiểu xem các đại lượng thể hiện trên biểu đồ là gì?(nhiệt độ, lượng
mưa, các ngành kinh tế, dân số...) trên lãnh thổ nào và thời gian nào, được thể hiện
trên biểu đồ như thế nào? (theo đường, cột, hình quạt...) và trị số các đại lượng
được tính bằng gì?(mm, %, triệu người...).
- Dựa vào các số liệu thống kê đã được trực quan hóa trên biểu đồ, đối
chiếu, so sánh chúng với nhau và rút ra nhận xét về các đối tượng và hiện
tượng địa lí được thể hiện.
Ví dụ 2 :
Khi dạy Bài 11: Thiên nhiên phân hóa đa dạng
Thì ở bài tập 1 trang 50 –SGK yêu cầu nhận xét và so sánh chế độ nhiệt, mưa
của Hà Nội và TP Hồ Chí Minh

Biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
- Các đại lượng được thể hiện trên biểu đồ là nhiệt độ và lượng mưa của
Hà Nội và TP Hồ Chí Minh qua các tháng trong năm. Nhiệt độ được thể hiện
bằng đường đồ thị, lượng mưa được thể hiện bằng hình cột. Trị số của nhiệt độ
được tính bằng (oC), lượng mưa được tính bằng ( mm).


Qua biểu đồ hướng dẫn cho HS biết được chế độ nhiệt, biên độ nhiệt, chế độ
mưa và sự biến đổi nhiệt độ theo vĩ độ của 2 địa điểm, tại sao có sự khác nhau đó.
Hay khi dạy bài 16 – Đặc điểm dân số và phân bố dân cư nước ta
Qua bảng số liệu cho HS thấy được đặc điểm của dân số nước ta đông, còn tăng

nhanh, giai đoạn nào tăng nhanh nhất, trung bình tăng hàng năm là bao nhiêu. Với
dân số tăng nhanh như vậy đã gây nên hậu quả như thế nào về: tài nguyên môi
trường, phát triển kinh tế, chất lượng cuộc sống…

2.3.1.3. Tranh ảnh địa lí.

Việc khai thác kiến thức từ tranh ảnh địa lí được tiến hành theo các bước:
- Nêu lên các bức tranh (hoặc ảnh) nhằm xác định xem bức tranh hay, bức
ảnh đó thể hiện cái gì? (đối tượng địa lí nào?), ở đâu?.
- Chỉ ra những đặc điểm, thuộc tính của các đối tượng địa lí được thể hiện
trên bức tranh (hoặc ảnh).
Tuy nhiên, tranh ảnh chỉ có tác dụng giúp học sinh khai thác được một số
đặc điểm và thuộc tính nhất định về đối tượng. Vì vậy, giáo viên cần gợi ý cho học
sinh dựa vào kiến thức địa lí đã học, kết hợp với bản đồ, biểu đồ, các tư liệu địa lí
khác để giải thích đặc điểm, thuộc tính cũng như sự phân bố (vị trí) của đối tượng
địa lí được thể hiện trên bức tranh (hoặc ảnh) đó.
Ví dụ 3 : Khi dạy bài 6:” Đất nước nhiều đồi núi” trang 29-SGK, bài “Vấn
đề phát triển thương mại, du lịch” trang 137- SGK, hay bài “ Vấn đề khai thác thế
mạnh ở Trung du và miền núi Bắc Bộ” trang 145- SGK.



Qua các hình ảnh này cần nhấn mạnh đến đặc điểm nổi bật của địa hình
nước ta phần lớn là đồi núi, nhưng chủ yếu là đồi núi thấp và mỗi vùng có sự khác
nhau, ảnh hưởng của thiên nhiên đồi núi đối với dân sinh và phát triển kinh tế, biết
được các loại tài nguyên chính ở nước ta đặc biệt hiểu và trình bày được tình hình
phát triển và các trung tâm du lịch quan trọng.
2.3.1.4. Bảng số liệu:

Khi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ các bảng số liệu thống kê

(hoặc các số liệu riêng lẻ). Cần chú ý học sinh:
- Không bỏ sót số liệu nào.
- Phân tích các số liệu tổng quát trước khi đi vào số liệu cụ thể.
- Tìm các trị số lớn nhất, nhỏ nhất, trung bình.
- Xác lập mối quan hệ giữa các số liệu, so sánh đối chiếu các số liệu theo
cột, theo hàng để rút ra nhận xét.
- Đặt ra các câu hỏi để giải đáp trong khi phân tích, tổng hợp các số liệu
nhằm tìm ra kiến thức mới.
Ví dụ 4:
Bảng số liệu về lượng mưa, lượng bốc hơi và cân bằng ẩm của ba địa điểm
( trang 44-SGK 12)


Địa điểm

Lượng mưa (mm)

Lượng
(mm)
989
1000
1686

bốc

hơi Cân bằng ẩm (mm)

Hà Nội
1676
+ 687

Huế
2868
+1868
TP Hồ Chí 1931
+245
Minh
Hãy nhận xét về lượng mưa, lượng bốc hơi và cân bằng ẩm của các địa điểm trên.
+ Lượng mưa có sự thay đổi từ bắc vào nam: Huế có lượng mưa lớn nhất, tiếp đến
TPHCM, HN mưa ít nhất
+ Lượng bốc hơi càng vào nam càng tăng mạnh
+ Cân bằng ẩm có sự thay đổi từ bắc vào nam: Cao nhất ở Huế, tiếp đến HN,
TPHCM cân bằng ẩm thấp nhất
- Giải thích
+ Huế có lượng mưa cao nhất mà chủ yếu mưa vào thu đông do
• Dãy núi Bạch Mã chắn các luồng gió thổi theo hướng Đông Bắc và bão từ
Biển Đông vào
• Hoạt động của dải hội tụ nội chí tuyến
• Lượng cân bằng ẩm cao nhất do mưa nhiều, lượng bốc hơi ít
+ TPHCM có lượng mưa khá cao do
• Chiụ ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa tây nam từ biển thổi vào
• Hoạt động của dải hội tụ nội chí tuyến mạnh hơn
• Tuy nhiên do nhiệt độ cao, mùa khô kéo dài nên bốc hơi mạnh vì thế cân
bằng ẩm thấp hơn HN
+ Hà Nội lượng mưa ít do có mùa đông lạnh, ít mưa, lượng bốc hơi thấp nên cân
bằng ẩm cao hơn TPHCM
Ví dụ 5:
Sự đa dạng thành phần loài và sự suy giảm số lượng loài thực vật, động vật
ở nước ( SGK -12 trang 59).
Số lượng loài
Thực vật

Thú
Chim Bò sát lưỡng Cá

Số lượng loài đã biết
14500
300
830
400
2550
Số lượng loài bị mất dần
500
96
57
62
90
Trong đó số lượng loài có
100
62
29
nguy cơ tuyệt chủng
Nhận xét sự đa dang thành phần loài và sự suy giảm số lượng loài thực vật,
động vật ở nước ta.
-Số lượng loài sinh vật đa dạng gồm thực vật, thú, chim, bò sát, cá. Tổng số tới
18580. Trong đó thực vật nhiều nhất?,cá ? chim? Bò sát? Thú?
-Số loài bị mất dần ? ,trong đó thực vật nhiều nhất?,thú? cá ? Bò sát? chim ?
-Số loài có nguy cơ tuyệt chủng? ,trong đó thực vật nhiều nhất?,thú? chim ?


Như vậy số lượng loài sinh vật có nguy cơ giảm sút nhanh chóng,...dẫn tới mất cân
bằng sinh thái.Chúng ta cần phải có biên pháp bảo vệ.

Nguyên nhân: -Đánh bắt quá mức,diện tích rừng bị thu hẹp,ô nhiễm môi trường
nước.
Trên cơ sở từng bước hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ bản đồ,
tranh ảnh địa lí, giáo viên có thể vận dụng các bước này một cách linh hoạt khi
hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ các phương tiện dạy học địa lí như quả
địa cầu, mô hình.
2.3.1.5. Khai thác kiến thức từ Átlát địa lý Việt Nam
Khi khai thác Át lát, học sinh không chỉ dựa trên các kiến thức có thể khai thác
trực tiếp từ các bản đồ, mà cần bổ sung bằng các kiến thức rút ra từ SGK, để có thể cập
nhật kiến thức, và phân tích sâu hơn, tổng hơp tốt hơn.Vậy để đọc và phân tích Atlát tốt
cần phải:

- Nắm được các phương pháp thể hiện bản đồ sử dụng trong At lát.
- Nắm được các kí hiệu trong bảng chú giải bản đồ.
- Nắm được mục đích yêu cầu khi dọc Át lát để tìm kiếm và rút ra các
thông tin cần thiết, nhanh.
- Biết huy động kết hợp các kiến thức đã học trong SGK vào việc cắt nghĩa
sự phát triển và phân bố của các hiện tượng địa lý cần tìm hiểu qua Át lát.
- Biết đọc Át lát theo một trình tự khoa học.
Ví dụ 6:
Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam, hãy nhận xét về sự thay đổi cơ cấu lao động
đang làm việc phân theo khu vực kinh tế của nước ta giai đoạn 1995 – 2007
* Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức: Xu hướng thay đổi cơ cấu lao
động, tương quan về cơ cấu lao động phân theo khu vực kinh tế, nhận xét về tốc độ
chuyển dịch.
* Củng cố của giáo viên:
- Cơ cấu lao động có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực: Giảm tỉ lệ lao động
khu vực nông – lâm – thủy sản, tăng tỉ lệ lao động khu vực công nghiệp – xây
dựng và dịch vụ.
- Sự thay đổi cơ cấu lao động trong giai đoạn 1995 – 2007 như sau:

Nông – lâm – thủy sản giảm từ 71,2% xuống còn 53,9% trong tổng số lao động
đang làm việc của cả nước.
Công nghiệp – xây dựng tăng từ 11,4% lên 20% ; dịch vụ tăng từ 17,4% lên
26,1%.
Tuy nhiên, sự thay đổi cơ cấu diễn ra còn chậm nên tỉ lệ lao động nông – lâm –
thủy sản vẫn còn chiếm tỉ lệ cao và tỉ lệ lao động công nghiệp – xây dựng, dịch vụ
thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.


Dựa vào Atlat Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy trình bày và giải thích
đặc điểm phân bố dân cư ở vùng Đông Nam Bộ.
* Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định vị trí, các tỉnh , thành phố vùng Đông
Nam Bộ, khái quát một số nét về tự nhiên. Sau đó cho học sinh xây dựng bài, trả
lời.
* Giáo viên củng cố :
- Khái quát:
Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành (Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu,
Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh), địa hình bằng phẳng, độ cao
trung bình dưới 200m.
- Đặc điểm phân bố dân cư:
+ Đông Nam Bộ là vùng có mật độ dân số cao, cao hơn mức trung bình cả nước,
mật độ phổ biến từ 2001 – 500 người/km2.
Nguyên nhân: Do đây là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi (vị trí địa lí, địa
hình, tài nguyên đất, sinh vật, khoáng sản,...), là vùng kinh tế phát triển nhất cả
nước.
+ Trong vùng sự phân bố dân cư cũng không đều:


Khu vực phía nam của vùng có mật độ dân số cao nhất: trên 500 người/km 2,
đặc biệt có bộ phận cao đến trên 2000 người/km2 (TP Hồ Chí Minh, Biên Hòa,...).

Nguyên nhân: Đây là khu vực có mức độ tập trung sản xuất công nghiệp, dịch vụ
cao, cơ sở hạ tầng phát triển,...
Khu vực phía bắc của vùng có mật độ thấp hơn, từ 50 – 500 người/km 2, nơi
thấp nhất chỉ đạt từ 50 – 100 người/km 2 (Tây Ninh, Bình Phước,...). Nguyên nhân:
Đây là khu vực hoạt động kinh tế nông – lâm là chủ yếu, các ngành công nghiệp và
dịch vụ còn hạn chế.
2.3.2. Tổ chức hướng dẫn học sinh thu thập, xử lí thông tin trong SGK và
trình bày lại.
Sách giáo khoa Địa lí mới được biên soạn theo tinh thần cung cấp các
tình huống, các thông tin đã được lựa chọn kĩ để giáo viên có thể tổ chức hướng
dẫn học sinh thu thập, phân tích và xử lí thông tin. Vì vậy, trong quá trình dạy học
ở trên lớp, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thu thập, xử lí thông tin trong sách
giáo khoa Địa lí.
Ví dụ 6: Bài 42 Vấn đề phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng ở Biển Đông
và các đảo, quần đảo.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thu thập thông tin qua bài viết, tranh
ảnh, lược đồ để trả lời các câu hỏi trong bài và rút ra các kết luận về:
- Đánh giá được tổng quan về các nguồn lợi biển, đảo của nước ta
- Hiểu được vai trò của hệ thống đảo trong chiến lược phát triển kinh tế biển
và bảo vệ chủ quyền vùng biển, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của nước
ta.
- Tìm hiểu vấn đề khai thác tổng hợp các loại tài nguyên vùng biển và hải
đảo. Từ đó có ý thức cần thiết phải bảo vệ chủ quyền, môi trường biển và đảo.
- Cho HS tìm hiểu và trả lời tại sao nói thế kỉ XXI là thế kỉ của đại dương?
Thông qua hoạt động thu thập, xử lí thông tin để khai thác lĩnh hội kiến thức
học sinh sẽ có được phương pháp học tập, biết cách thu thập và xử lí thông tin từ
các nguồn tài liệu khác, từ đó hình thành năng lực tự học.
2.3.3. Tổ chức hoạt động của học sinh theo những hình thức học tập khác nhau.
Để có thể tích cực hóa hoạt động học tập(TCHHĐHT) của học sinh, ngoài
hình thức tổ chức học tập tập trung theo lớp, nên tổ chức cho học sinh học tập cá

nhân và học tập theo nhóm ngay tại lớp.
2.3.3.1. Hình thức học tập cá nhân.

Dạy học theo định hướng TCHHĐHT của học sinh đòi hỏi có sự cố gắng về
trí tuệ và nghị lực cao của mỗi học sinh trong quá trình tự lực giành lấy kiến thức
mới. Do đó, hình thức tự học tập cá nhân là hình thức học tập cơ bản nhất vì nó tạo
điều kiện cho mỗi học sinh trong lớp được tự nghĩ, tự làm việc một cách tích cực
nhằm đạt tới mục tiêu học tập. Học sinh phải vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để


khai thác và lĩnh hội kiến thức mới. Đồng thời hình thức này cũng tạo điều kiện để
học sinh bộc lộ khả năng tự học của mỗi người.
Việc tiến hành dạy học thông qua tổ chức hoạt động học tập cá nhân có thể
như sau:
- Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức (chung cho cả lớp) và
hướng dẫn (gợi ý) học sinh làm việc.
- Làm việc cá nhân (ghi kết quả ra giấy hoặc trả lời ra phiếu học tập)
- Giáo viên chỉ định một vài học sinh báo cáo kết quả, các học sinh khác
theo dõi, góp ý và bổ sung.
- Giáo viên tóm tắt, củng cố và chuẩn xác kiến thức.
2.3.3.2. Hình thức học tập theo nhóm.

Trong học tập, không phải bất kì nhiệm vụ học tập nào cũng có thể hoàn
thành bởi những hoạt động thuần túy cá nhân, có những bài tập, những câu hỏi,
những vấn đề đặt ra khó và phức tạp, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các cá nhân
mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, bên cạnh hình thức học tập cá nhân cần
phải tổ chức cho học sinh học tập hợp tác trong các nhóm nhỏ.
Tùy theo số lượng học sinh trong mỗi lớp mà giáo viên chia thành bao nhiêu
nhóm, thông thường mỗi nhóm có từ 4 - 6 học sinh, tùy mục đích và yêu cầu vấn
đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định(gồm có Nam

lẫn Nữ, cả học sinh khá, trung bình, yếu, kém trong cùng một nhóm). Các nhóm có
thể duy trì ổn định trong cả tiết hoặc thay đổi trong từng hoạt động, từng phần của
tiết học, các nhóm được giao cùng nhiệm vụ hoặc giao những nhiệm vụ khác nhau.
*Các bước tiến hành tổ chức học tập theo nhóm có thể như sau:
1. Làm việc chung cả lớp:Giáo viên nêu vấn đề xác định nhiệm vụ .
Hướng dẫn , gợi ý (cách làm việc theo nhóm, các vấn đề cần lưu ý khi trả
lời câu hỏi, hoàn thành các bài tập,...).
2. Làm việc theo nhóm (phiếu học tập).
* Phân công trong nhóm (cử nhóm trưởng, thư ký của nhóm), phân công
việc cho từng thành viên trong nhóm.
* Trao đổi, thảo luận trong nhóm và cùng nhau hoàn thiện nhiệm vụ của
nhóm.
* Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm(không nhất thiết là nhóm
trưởng hay thư ký, mà có thể là một thành viên của nhóm đại diện trình bày kết quả
làm việc của nhóm).
* Giáo viên tổng kết và chuẩn xác kiển thức.
* Sau cùng giáo viên nên có nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các
nhóm để kịp thời động viên khuyến khích các nhóm làm việc tốt và rút kinh
nghiệm cho các nhóm làm việc chưa tốt.
Ví dụ 7: Khi dạy các bài 8- Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển,


Bài 16 – Đặc điểm dân số và phân bố dân cư nước ta, Bài 17 – Lao động và việc
làm, Bài 31 – Vấn đề phát triển thương mại, du lịch, Bài 42 – Vấn đề phát triển
kinh tế, an ninh quốc phòng ở Biển Đông và các đảo, quần đảo, Bài 43 – Các vùng
kinh tế trọng điểm .
Trong các bài học này tôi đã áp dụng các hoạt động: cho cả lớp tìm hiểu ở vấn đề
chung, từng nhóm tìm hiểu các vấn đề khác nhau trong nội dung bài học,còn cá
nhân thì trình bày những câu hỏi khó đòi hỏi tư duy và có kiến thức sâu rộng.
Để tổ chức các hoạt động học tập của học sinh được thuận lợi và đỡ mất thời

gian, nếu có điều kiện nên sử dụng phiếu học tập. Phiếu học tập là những tờ giấy
rời, trên đó xác định nhiệm vụ nhận thức (Các câu hỏi, bài tập…) mà học sinh phải
hoàn thành nhiệm vụ đó trong một thời gian ngắn.
2.4. Kết quả đạt được:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, tôi
nhận thấy rằng kết quả học tập bộ môn của học sinh cao hơn rất nhiều so với
những năm học trước. Thực tế qua các tiết dạy, tôi thấy: học sinh nắm bài chắc
hơn, hiểu bài sâu hơn, học sinh có kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh… kỹ năng
tư duy lôgic các đối tượng địa lý rất tốt đồng thời phát huy được tính tích cực sáng
tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, bỏ được thói quen học thụ động, ghi nhớ.
Song điều tôi tâm đắc nhất là khi các em nắm được kỹ năng khai thác kiến thức từ
kênh hình và kênh chữ thì các tiết học trở nên sôi nổi không còn trầm lắng, tẻ
nhạt như thường ngày. Nhất là giúp cho các em có điều kiện để nêu suy nghĩ của
mình, giúp các em tự tin, hiểu biết lẫn nhau cũng từ đó xây dựng được mối quan hệ
giữa thầy và trò trong giờ học.
Hơn thế nữa việc rèn luyện cho các em kỹ năng khai thác kiến thức trên
tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ…hay trong học tập, còn rèn được cho các em trí thông
minh, sáng tạo, giúp các em ôn luyện, củng cố khắc sâu kiến thức đã học một cách
ngẫu nhiên, tự giác, không mang tính áp đặt, thụ động. Bên cạnh đó ngoài việc tự
học các em còn biết trao đổi thảo luận với bạn trong nhóm, trên lớp, đề xuất ý kiến.
Với phương pháp và cách làm trên, tôi thấy có sự chuyển biến tích cực về chất
lượng học tập của học sinh trường tôi, nhất là đối với học sinh theo học Khối C.
Học sinh tích cực, chủ động hơn trong học tập và ôn luyện thi, tự học và nghiên
cứu thêm, chịu khó tìm hiểu kiến thức để hoàn thiện nội dung và phương pháp làm
bài, xác định đề và kĩ năng làm bài ngày càng chuẩn hơn với yêu cầu của đề bài.
Kết quả thực tế là đã góp phần tạo nên chất lượng học sinh trong các kì thi khá
cao đặc biệt là qua các kì thi đại học 3 năm trở lại đây mặc dù tôi không trực tiếp
đứng dạy lớp chọn khối C nhưng tôi đã áp dụng vào các lớp đại trà mà tôi dạy thì
các em thi đại học và tốt nghiệp đạt 9,0 và 9,5 điểm, mỗi năm được 3 đến 4 học
sinh. Đây là điều rất đáng mừng, tôi sẽ tiếp tục ứng dụng các phương pháp này

trong các năm học tiếp theo.


Bảng tổng hợp điểm và tỷ lệ điểm của HS ớ các lớp
Điểm Số
Tỷ lệ %
lượng
Lớp TN Lớp ĐC Lớp TN Lớp ĐC
1
2
3
4
5
6
7
8
9
9,5
Tổng

0
0
0
0
3
16
12
9
1
2

43

0
0
4
3
8
14
10
5
0
1
45

0.0
0.0
0.0
0.0
6.9
37.3
27.9
20 .9
2.3
4.7
100

0.0
0.0
8.9
6.7

17.7
31.2
22.2
11.1
0.0
2.2
100

- Thi tốt nghiệp trong các năm học vừa qua của bộ môn Địa lí của Nhà trường :
+ Học sinh đạt điểm 8 - 10 là 19,5%
+ Học sinh đạt điểm khá, giỏi trên 70%
+ Học sinh đạt trung bình trở lên trên 97%
+ Không có học sinh bị điểm kém.
- Thi Đại học, Cao đẳng có nhiều em đạt điểm 8,5 trở lên, góp phần đóng góp vào
thành tích của nhà trường có nhiều em thi đạt tổng điểm 3 môn Khối C trên 24
điểm, năm học 2014 -2015 tôi cũng có 3 học sinh đạt 25,5 điểm trở lên và 3 em
này có 2 em 9,0 điểm và 1 em đạt 9,5 điểm.

PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy Địa lí nói
riêng là một yêu cầu cần thiết và cấp bách, nhưng quan trọng hơn là việc áp dụng
phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học đó như thế nào để đạt kết quả
cao trong dạy và học. Vì vậy, đối với từng đối tượng học sinh mà người giáo viên
cần phải vận dụng linh hoạt, có hiệu quả các phương pháp đặc trưng của bộ môn,
để thực hiện quá trình dạy học đạt kết quả cao.


Qua kinh nghiệm bản thân tôi thấy rằng áp dụng phương pháp dạy học đổi
mới đôi lúc vẫn còn khó khăn nhưng không phải là không làm được, chỉ cần người

giáo viên đủ lòng nhiệt tình, trách nhiệm và mạnh dạn tiến hành từng bước, từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Vì vậy, tôi viết đề tài này cũng không ngoài mục đích nêu lại kinh nghiệm
mà bản thân tôi đã trải nghiệm qua thực tế giảng dạy để đồng nghiệp tham khảo.
Hy vọng rằng với chính lòng nhiệt huyết yêu nghề của tôi cũng như của đội ngũ
giáo viên sẽ đem lại nhiều cách dạy mới, hiệu quả hơn, để phục vụ tốt hơn nữa cho
sự nghiệp giáo dục mà chúng ta đã chọn.
3.2. Những kiến nghị sau quá trình thực hiện.
Để giúp giáo viên có được những giờ dạy sôi nổi và đạt kết quả cao học
sinh học tập tích cực, phát huy được năng lực và khả năng tư duy tốt của mình
trong học tập tôi đề nghị nhà trường trang bị thêm cho bộ môn các loại thiết bị đồ
dùng dạy học như bản đồ, lược đồ, tranh ảnh địa lý, băng hình…có thể là một
phòng học cho bộ môn để học sinh có nhiều tiết học trên máy, băng đĩa mà lĩnh hội
kiến thức từ đó có thể vận dụng kiến thức đã học vào thực tế.Nhà trường nên đầu
tư hơn về cơ sở vật chất để học sinh có được những tiết thực địa, tham quan, ngoại
khóa để học sinh được hiểu biết sâu và rộng hơn từ đó thêm yêu thích bộ môn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi đã thực tế áp dụng trong quá trình
giảng dạy, tôi muốn bày tỏ cùng các bạn đồng nghiệp và rất mong nhận được sự
góp ý quý báu của các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoằng Hóa, Ngày 01tháng 6 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Phượng




×