Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng khám phá khoa học cho trẻ 4 5 tuổi ở trường mầm non nga yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.82 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC

TRANG
1

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả đạt được.
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị
* Tài liệu tham khảo

2
3
3
3
3
3
4
5
18


19
19
20
21

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết: Một chương trình giáo dục Mầm non tốt là một
chương trình lấy trẻ làm trung tâm. Có nghĩa là nó được xây dựng dựa trên
những hứng thú, nhu cầu kinh nghiệm và khả năng của trẻ. Chương trình này sẽ
tạo cơ hội cho trẻ phát triển toàn diện. Không chỉ chú trọng tới sự phát triển trí
tuệ mà còn nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển thể chất, khả năng giao tiếp xã hội
của trẻ. Một chương trình giáo dục mầm non tốt là một chương trình không chỉ
quan tâm tới trẻ được học cái gì mà còn chú trọng trẻ học như thế nào? Tức là
cho trẻ trải nghiệm học tập tích cực để phát triển đam mê học hỏi của trẻ và khả
năng tự học.
Vâng! Đối với trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi, sự tăng trưởng và hoàn thiện về trọng
lượng của não bộ, các dây thần kinh và sự phát triển và hoàn thiện không ngừng
khả năng vận động, tâm lý và nhân cách. Cũng trong những năm đầu tiên của
cuộc sống, trẻ 4-5 tuổi đã trải qua các giai đoạn phát triển từ trực quan hành
động đến tư duy logic. Kinh nghiệm sống của trẻ được tích lũy nhanh chóng,
phạm vi các biểu tượng được mở rộng. Đây là “ thời kỳ nhạy cảm” để cho trẻ tiếp
xúc, khám phá thiên nhiên và cuộc sống xã hội.
Khi nói đến trẻ Mầm non khám phá khoa học mọi người đều rất ngạc nhiên
và tự hỏi: “ trẻ mầm non khám phá khoa học bằng cách nào?”. Ở lứa tuổi trẻ
mầm non trí não đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện nên rất cần có
phương pháp giáo dục khoa học. Với trẻ khám phá khoa học luôn là một hành

trình khám phá hấp dẫn thú vị. Trẻ thường đặt ra những câu hỏi ngô nghê hết
sức đáng yêu về thế giới xung quanh đầy bí ẩn. Trẻ muốn hiểu, muốn biết những
điều mới lạ. Nên đây là “ giai đoạn vàng” để khai mở tiềm năng, phát triển trí
tuệ và sáng tạo cho trẻ.
Thực tế giảng dạy cho thấy một số hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 45 tuổi còn tẻ nhạt. Phương tiện cho trẻ khám phá chưa phong phú. Thấu hiểu
được nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh là vô tận và cần thiết. Đây là một
bước tiến quan trọng với mục tiêu phát triển tiềm năng trí tuệ. Cùng với môi
trường học tập tốt, dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ giúp trẻ có được những
giờ khám phá khoa học thú vị.
Dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của Ban giám hiệu, bản thân tôi trực tiếp
đứng lớp 4 - 5 tuổi, tôi luôn trăn trở mong muốn mang đến cho trẻ những điều
mới lạ hấp dẫn. Trẻ không “học suông”, học lý thuyết mà học thông qua các
hoạt động thực nghiệm trực quan sinh động đầy hứng thú. Điều này sẽ giúp trẻ
khơi mở tính tò mò vốn có sẵn. Phát huy tiềm năng thế mạnh cùng với những
đam mê sáng tạo, hứng khởi học tập. Vì thế trẻ khám phá khoa học giúp trẻ phát
triển về thể chất và các kỹ năng lao động. Có thể nói khám phá khoa học là một
phương pháp quan trọng chủ yếu để trẻ phát triển toàn diện. Vì vậy tôi đã chọn

2


đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng khám phá khoa học cho trẻ 45 tuổi ở trường Mầm non Nga Yên” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình khám phá khoa học cho trẻ mấu giáo 4-5 tuổi từ đó
tìm ra biện pháp gây hứng thú cho trẻ khi khám phá thế giới xung quanh, nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Trẻ Mẫu giáo 4-5 tuổi tại trường Mầm non Nga Yên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.

- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp tuyên truyền.
- Phương pháp thống kê toán học.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Những nhà khoa học Phương tây nhận thức rõ về những học thuyết quan
điểm của Drivr (1983) và Osborne cùng Freyberg( 1985) đã khuyến khích trẻ
khám phá thử nghiệm những gì liên quan đến “ khoa học dành cho trẻ nhỏ”. Tuy
nhiên vẫn chưa phải là chỉ báo về tiềm năng của trẻ trong việc lĩnh hội những
khám phá khoa học của chúng. Ở một khía cạnh khác Metz(1995) lại cho rằng
điều đó phù hợp với những gì chúng ta biết về trẻ nhỏ nhằm hỗ trợ những nỗ lực
của trẻ khi xây dựng lý thuyết thông qua việc xác thực phù hợp
Tiến sĩ Trần Ngọc Trâm đã thực hiện đề tài : “Thiết kế các hoạt động cho
trẻ mầm non” từ tháng 5 năm 2008 đến tháng 10 năm 2013 nhằm làm sáng tỏ
khung lí thuyết và cơ sở thực tiễn của việc thiết kế và tổ chức các hoạt động
khám phá khoa học cho trẻ mẫu giaó. Theo đề tài về mặt lí thuyết tiến sĩ đã làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động khám phá khoa học của trẻ
mẫu giáo như sự phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo, các quá trình khám phá
khoa học thích hợp với trẻ nhỏ, mục tiêu của tổ chức hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ mẫu giáo, tầm quan trọng của hoạt động khám phá khoa học cho trẻ
nhỏ. Tổng quan chuẩn giáo dục khoa học cho trẻ mẫu giáo của một số nước,
cách tiếp cận quá trình trong dạy khoa học cho trẻ nhỏ, và vai trò của giáo viên
trong tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc cho trẻ khám phá khoa học qua
nghiên cứu tìm hiểu trên sách báo, trên mạng và tài liệu của Tiến sĩ Phan Thị
Thu Hiền về “chương trình giáo dục mầm non”.
Từ cơ sở trên, chúng ta phải nâng cao chất lượng cho trẻ khám phá khoa
học theo đúng độ tuổi phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Qua đó giáo


3


viên biết mình phải làm gì? làm như thế nào để đem lại hiệu quả cao giúp trẻ
phát triển toàn diện .
2.2. Thực trạng
2.2.1. Thuận lợi:
Nhận thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc tạo môi trường cho trẻ
khám phá thế giới xung quanh. Nên Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm,
chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, các ban nghành đoàn thể. Xây dựng được các
phòng học đạt chuẩn tạo điều kiện cho trẻ hoạt động thoải mái, an toàn. Khuôn
viên nhà trường xanh- sạch- đẹp. Ban giám hiệu nhà trường lãnh đạo toàn diện,
chú trọng công tác nâng cao chất lượng giáo dục và đảm bảo an toàn cho trẻ nên
môi trường giáo dục của toàn trường đã ổn định.
Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi bồi dưỡng chuyên môn, nâng
cao năng lực giảng dạy cho đội ngũ giáo viên.
Bản thân tôi luôn yêu nghề, mến trẻ, ham học hỏi, nâng cao chuyên môn,
tìm tòi và tự làm một số đồ dùng để chơi, sưu tầm tranh ảnh sách báo để phục vụ
các hoạt động học và hoạt động vui chơi của trẻ.
Trẻ trong lớp cùng một độ tuổi nên nhận thức của trẻ khá đồng đều. Phụ
huynh luôn quan tâm, chăm sóc, giáo dục trẻ giúp tôi có những điều kiện thuận
lợi để thực hiện đề tài này.
2.2.2. Khó khăn:
Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi trên thì tôi cũng gặp không ít khó khăn.
Cơ sở vật chất còn hạn chế đồ dùng phục vụ các hoạt động còn nghèo nàn,
thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ khám phá.
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động ở bên ngoài lớp học chưa đa dạng phong
phú.
Đầu năm số trẻ đến lớp đa phần còn nhút nhát, bị động trong học tập, khả
năng tiếp thu chậm, vốn hiểu biết về môi trường xã hội còn hạn chế.

Trong những năm gần đây, phụ huynh đã quan tâm tới chất lượng chăm
sóc, giáo dục của con em mình khi tới lớp, tuy nhiên, cũng có một số phụ huynh
chưa coi trọng bậc học mầm non.
2.2.3. Kết quả của thực trạng.
Trước khi thực hiện đề tài, tôi đã tổ chức giờ hoạt động cho trẻ khám phá
khoa học, tôi thấy vốn biểu tượng về thế giới xung quanh còn hạn chế. Mặt
khác, khả năng quan sát, phán đoán, so sánh, phân loại của trẻ còn gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy, kết quả thực trạng đầu năm cho thấy:
Tổng
số trẻ
đến
lớp

Số cháu tích cực
hoạt động

Có kỹ năng quan
sát, phán đoán

Đạt
T

K

Có kỹ năng so
sánh, phân loại

Đạt
TB




T

K

Có ý thức chăm
sóc, bảo vệ MTXQ

Đạt
TB



T

K

Đạt
TB



T

K

TB




4


41

24

10

5

2

15

15

8

3

15

13

8

5


Tỷ lệ % 59

24

12

5

36,5 36,5 19,5 7,5 36,5 32 19,5 12

17

10

10

4

42

24

24

10

2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
Đứng trước thực trạng trên, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ tìm nhiều biện
pháp để hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả cao, từ đó tăng dần khả năng
quan sát, phán đoán, so sánh và phân loại cho trẻ, làm phong phú biểu tượng về

Thế giới xung quanh trong mỗi trẻ, góp phần cho trẻ phát triển một cách toàn
diện, dựa vào vốn kiến thức đã học và các biện pháp chuyên môn.
2.3.1. Tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, nhận thức, kỹ năng cho bản thân
Trẻ Mầm non được ví như “trang giấy trắng” gia đình, cô giáo, những
người lớn xung quanh trẻ viết lên điều gì thì trẻ sẽ tiếp nhận điều ấy. Bản thân
tôi hiểu được điều này nên tự nhận thức được rằng: Cô giáo có vai trò quan
trọng trong việc dẫn dắt trẻ bước những bước đi đầu tiên. Trẻ sẽ rất nhớ những
kiến thức đầu tiên mà trẻ được khám phá mà cô giáo là người truyền đạt cho trẻ.
Thế giới xung quanh có muôn vàn những điều mới lạ mà trẻ cần được
khám phá. Vì vậy cô giáo cần phải có những kiến thức cơ bản, chính xác về các
vấn đề. Khi cho trẻ tìm hiểu, khám phá, giáo viên phải lựa chọn các kiến thức
sao cho phù hợp với nhận thức của trẻ. Chính vì thế từ đầu năm tôi đã nghiên
cứu kế hoạch cụ thể trên cơ sở hướng dẫn của ngành, học các chuyên đề do
phòng phòng giáo dục tổ chức cũng như sự hướng dẫn của ban giám hiệu nhà
trường.
Học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp, sách báo, tập san, không ngừng
nâng cao ý thức học tập, trau dồi kiến thức về khám phá khoa học, phát huy ưu
điểm và bổ sung những mặt còn hạn chế của bản thân.
Tôi thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư soạn bài, làm đồ
dùng đồ chơi tự tạo để các hoạt động trở nên sôi nổi, hấp dẫn, thu hút sự chú ý
của trẻ.
* Kết quả: Trong quá trình nâng cao nhận thức, kỹ năng cho bản thân tôi
đã tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm như: Xác định được những kiến thức
cơ bản cần truyền đạt cho trẻ mỗi chủ đề, tích luỹ được nhiều hình thức tổ chức
cho trẻ khám phá khoa học về môi trường quanh trẻ với phương châm “Học mà
chơi, chơi mà học”, tránh gò bó áp đặt giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách tự
nhiên.
2.3.2. Sử dụng các sản phẩm tạo hình, xây dựng cơ sở vật chất, làm đồ
dùng, đồ chơi tự tạo.
Đây là một biện pháp đơn giản, gần gũi và dễ hiểu đối với trẻ. Giúp trẻ

được trực tiếp tạo sản phẩm. Hình thành và củng cố những biểu tượng cơ bản về
đối tượng cho trẻ. Việc tôi sử dụng các nguyên vật liệu từ thiên nhiên, phế thải
khiến trẻ hào hứng tham gia hoạt động đồng thời phát huy tính sáng tạo của trẻ.

5


Đồ dùng của cô và trẻ phải đầy đủ, đẹp, hấp dẫn nhằm kích thích hứng thú,
tò mò, lòng ham hiểu biết của trẻ, tôi thường sử dụng những đồ dùng bằng vật
thật hoặc hình ảnh đẹp cho hoạt động của trẻ thêm sinh động.
- Với phụ huynh, tôi vận động phụ huynh mua thêm truyện, tranh, đồ chơi
về các con vật, rau, củ, quả, cây…. sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, đồng
giao về các con vật, rau, củ,quả, hoa làm phong phú vốn hiểu biết của trẻ về thế
giới xung quanh trẻ.
- Với chính bản thân mình tôi luôn tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở
địa phương như: vải vụn, lá khô, vỏ trai, vỏ trứng, hến, sò, làm tranh ảnh và hình
dạng các con vật, cây cối, hoa quả phục vụ cho hoạt động.
VD: Bằng nửa quả bóng + bìa cát tông bằng kỹ năng tạo hình tôi đã làm
thành con rùa thật ngộ nghĩnh để làm vật mẫu khi cho trẻ làm quen với các con
vật sống dưới nước. Hay từ 2 vỏ hộp sữa chua tôi sử dụng thêm xốp để làm
chân, đuôi và tạo thành con lợn thật đẹp sử dụng khi cho trẻ làm quen về các con
vật sống trong gia đình.

Hình ảnh: Con rùa làm từ quả bóng và con lợn từ vỏ hộp sữa chua
Tôi luôn động viên, khích lệ hướng trẻ cùng tham gia hoạt động làm đồ
dùng đồ chơi. Điều này góp phần không nhỏ giúp trẻ ghi nhớ, khắc sâu những
biểu tượng cơ bản về những đồ vật, đồ dùng mà trẻ sẽ được khám phá.

6



Hình ảnh: Trẻ cùng cô làm đồ dùng đồ chơi
Với những đồ dùng đồ chơi được nhà trường phát và tự làm, khi tôi sử
dụng vào các hoạt động, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú với giờ học, trẻ biết
nhiều, quan sát rất tốt, tìm nhanh các vật mẫu cô đưa ra, so sánh và phân loại các
nhóm con vật, đồ vật, cây, củ, quả cũng rất nhanh, rõ ràng.
* Kết quả:
- Qua việc áp dụng giải pháp này vào thực tiễn. Lớp tôi đã sắm được 10 bộ
tranh các chủ đề lớn trong năm và đầy đủ các loại lô tô có liên quan đến các chủ
đề, lớp tôi có 41 bộ tranh lô tô về các nhóm con vật, 2 bộ sa bàn. Tất cả đề được
tôi tự làm, và hướng dẫn trẻ cùng làm bằng các nguyên vật liệu phế thải sẵn có ở
địa phương.
- Sau khi áp dụng thực hiện giải pháp này, trong mỗi chủ đề lớp học của tôi
có thêm nhiều đồ dùng, đồ chơi sinh động, hấp dẫn làm bằng nhiều nguyên vật
liệu khác nhau, 41/41 = 100% các cháu trong lớp tích cực tham gia vào các hoạt
động sưu tầm các nguyên vật liệu thiên nhiên, phế thải và tham gia vào quá trình
làm đồ dùng, đồ chơi cùng cô. Số trẻ chú ý quan sát vật mẫu và có cảm nhận tốt
hơn về đối tượng được khám phá tăng lên.
2.3.3. Sử dụng các phương tiện trực quan
Việc sử dụng đồ thật, vật thật tùy theo từng chủ đề mà tôi linh hoạt sử dụng
vật thật. Trẻ quan sát, tìm tòi, khám phá và hoạt động với vật thật, tạo hình ảnh
trọn vẹn về những gì xung quanh trẻ, từ đó gây được hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Thế giới thực vât: khi cho trẻ tìm hiểu về các loại rau, tôi sẽ chuẩn bị
những loại rau, củ, quả thật gần gũi có sẵn ở địa phương cho trẻ quan sát. Tôi
cho trẻ được trực tiếp nhìn, sờ tay, nếm, ngửi để trẻ cảm nhận rau, củ, quả thật.
Điều này có tác động nhanh đến nhận thức của trẻ. Trẻ sẽ nhớ nhanh, nhớ lâu tên
gọi, các đặc điểm cơ bản của củ, quả, rau. Khi về nhà nếu như mẹ có mua rau su
hào, cà rốt hay rau bắp cải thì trẻ có thể tự giới thiệu với mọi người trong gia đình
về tên gọi và đặc điểm của rau củ mà trẻ được quan sát. Trẻ sẽ được ông bà bố mẹ
khen ngợi và trẻ cảm thấy thích thú và rất hãnh diện.


7


Hình ảnh: Trẻ quan sát các loại rau xanh ở vườn trường
Ví dụ: Khi tìm hiểu cây hoa hồng, tôi sẽ cho trẻ nhận biết hoa hồng bằng
việc cho trẻ sờ cánh hoa hồng để cảm nhận cánh hoa mịn và nhẵn, mép lá có
răng cưa, cho trẻ ngửi hoa để thấy mùi thơm của hoa hồng.
Tôi nhận thấy từ việc trẻ được quan sát kỹ, có đầy đủ các đặc điểm của đối
tượng trẻ so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh.
Tôi còn sử dụng tranh ảnh, băng đĩa, sách, máy vi tính có nội dung phù
hợp, hình ảnh sắc nét, màu sắc rõ ràng. Với hình thức này tôi nhận thấy trẻ rất
nhạy bén, nhanh nhạy. Hứng thú học tập và ghi nhớ có chủ định.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát tranh gà mái đang ấp trứng và đặt ra các câu
hỏi mở nhằm phát huy tính tích cực như: “Trên màn hình là hình ảnh gi”? “Điều
gì sẽ xảy ra khi gà mẹ ấp ủ những quả trứng”?
Ví dụ: Chủ đề “Bản thân” tôi thiết kế phần mềm để chơi trò chơi như: “Tìm
đồ dùng phù hợp với bé” hay trò chơi: “ Bé cần gì để lớn nhanh”.
Kết quả: Các biện pháp này vừa giúp trẻ khám phá được những điều bổ ích
vừa rèn luyện khả năng nhanh tay nhanh mắt. Giúp trẻ phát triển trí thông minh.
2.3.4 Tổ chức tích hợp các môn học giúp trẻ khám phá khoa học:
Để trẻ luôn hứng thú với mỗi hoạt động khám phá khoa học, tôi luôn thay
đổi các phương pháp tích hợp, lồng ghép các môn học khác vào các hoạt động
để trẻ đỡ nhàm chán và làm giàu vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ.
Việc tích hợp nội dung của lĩnh vực này với các môn học khác giúp trẻ tiếp
thu được những kiến thức đa dạng, phong phú về thế giới khách quan, giúp trẻ
được rèn luyện và rèn luyện các năng lực nhận thức, những xúc cảm và tình cảm
tích cực góp phần quan trọng vào việc giáo dục toàn diện cho trẻ
* Tích hợp môn văn học khi cho trẻ khám phá khoa học
Văn học là một nội dung được tích hợp tương đối phổ biến trong quá trình

cho trẻ khám phá khoa học. Trong tổ chức tôi có thể sử dụng thơ, chuyện, câu đố,
8


ca dao tục ngữ về các đối tượng cho trẻ làm quen để nhằm gây hứng thú và tập
trung sự chú ý của trẻ.
- Lồng ghép câu đố.
Việc lồng ghép các câu đố sẽ tạo cho trẻ hứng thú tò mò, muốn khám phá
xem đó là cái gì, phát huy ở trẻ khả năng phán đoán tình huống.
VD: Trong hoạt động làm quen với các con vật sống trong gia đình, tôi cho
trẻ thi “đố vui”. Hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố của đội bạn. Như
trong đề tài cho trẻ làm quen với con gà, con vịt có câu
“Có cánh mà chẳng bay xa
Đẻ trứng cục tác, cục ta một hồi
Ấp trứng khi nở trứng rồi
Suốt ngày “ Cục cục” kiếm mồi nuôi con”
(Con gà mái)
" Con gì hai cánh
Mà lại biết bơi
Ngày xuống ao chơi
Đêm về đẻ trứng’’
(Con vịt )
Như vậy trẻ được giải câu đố rất vui vẻ, hào hứng, kích thích tư duy làm
giàu vốn hiểu biết của trẻ về các con vật sống trong gia đình, cụ thể là gia cầm:
là con vật sống trong gia đình, có 2 chân, có 2 cánh và đẻ trứng …
Ngoài ra khi trẻ đố và giải đố, sẽ làm phong phú vốn từ và diễn đạt ngôn
ngữ mạch lạc. Trẻ sẽ nhạy bén hơn và năng động hơn.
- Lồng ghép các câu chuyện :
Tôi thường xen kẽ các câu chuyện vào đầu hoạt động học để tạo sự tập
trung chú ý của trẻ và hình thành cho trẻ những hiểu biết ban đầu về vấn đề cô

cho trẻ tìm hiểu, giúp trẻ phát triển kỹ năng quan sát, ghi nhớ có chủ định và khả
năng phán đoán.
Ví dụ : Khi cho trẻ tìm hiểu một số loại hoa. Tôi tạo hứng thú cho trẻ, khơi
gợi tính tò mò của trẻ bằng một câu chuyện do tôi sáng tạo. Đó là câu chuyện:
“Loài hoa nào đẹp nhất”: Vào một buổi sáng mùa xuân ấm áp, ánh mặt trời tỏa
những ánh nắng lung linh. Những chú chim hót véo von trên cành cây. Những
giọt sương long lanh còn đọng lại trên những cánh hoa. Cảnh vật như bừng lên
sức sống. Chị Hoa hồng vươn mình cất tiếng nói :
- Ta là loài hoa đẹp nhất. Không có ta khu vườn sẽ thật tẻ nhạt. Hoa cúc
đang nằm lim dim nghe Hoa hồng nói thế bức xúc lắm lên tiếng :
- Chị hoa hồng ơi chị thử nhìn tôi xem, màu vàng rực rỡ của tôi dưới ánh
nắng mặt trời trông mới tuyệt vời làm sao ?
Hoa hồng cũng không muốn thua nên tranh cãi :
- Màu hoa đỏ tươi của tôi ai ai cũng phải ngưỡng mộ.
9


Cả hoa hồng và hoa cúc chẳng hoa nào chịu nhường hoa nào. Hoa nào cũng
muốn mình là loài hoa đẹp nhất. Lúc ấy Hoa Violet mới nhẹ nhàng lên tiếng :
- Em thấy cả hai chị xứng đáng là loài hoa đẹp nhất. Chỉ có mình em là
chẳng có được màu đỏ kiêu sa như chị hoa hồng và cũng không được vàng rực
rỡ như chị hoa cúc…Thế rồi Violet vừa nói vừa khóc nức nở. Cả hoa hồng và
hoa cúc chưa biết an ủi hoa Violet thế nào thì có tiếng hát véo von của cô chủ
nhỏ. Cô chủ reo lên :
- Ôi những bông hoa violet tím dịu dàng mới đẹp làm sao. Vườn hoa nhà mình
hoa nào cũng thật xinh đẹp. Các loại hoa kết hợp với nhau sẽ thành một bình hoa
thật tuyệt vời.
Lúc đấy hoa Cúc và hoa Hồng nhìn nhau thẹn thùng. Cả hai cùng mỉm cười
với hoa Violet. Từ đấy trở đi không bao giờ chúng chanh giành nhau xem hoa
nào đẹp nhất. Bởi chúng hiểu rằng hoa nào cũng có vẻ đẹp riêng. Và sẽ đẹp hơn

nếu các loại hoa hòa thuận bên nhau bổ sung cho nhau để tô điểm thêm cho cuộc
sống.
- Khi trẻ nghe xong câu chuyện trẻ biết thêm đặc điểm màu sắc các loại
hoa. Qua câu chuyện trẻ cũng rút ra bài học cho mình đó là bạn bè học cùng lớp
phải biết yêu thương nhường nhịn nhau, giúp đỡ nhau, đoàn kết cùng tiến bộ.
- Lồng ghép thơ, đồng dao, ca dao.
Để tránh sự nhàm chán và tăng thêm hứng thú, hiểu biết của trẻ, trong tiết
dạy, khi chuyển tiếp giữa các phần trong hoạt động, tôi đã sử dụng các bài thơ,
câu ca dao, bài đồng dao có nội dung phù hợp.
Ví dụ : Khi cho trẻ làm quen với một số đồ dùng trong gia đình, tìm hiểu
về cái bát. Tôi cho trẻ đọc bài thơ : Cái bát xinh xinh
Mẹ cha công tác
Nhà máy Bát Tràng
Mang về cho bé
Cái bát xinh xinh.
…………………
Khi trẻ vừa được tìm hiểu, quan sát trực tiếp cái bát vừa được đọc thơ để
củng cố ghi nhớ hình ảnh về cái bát. Điều đó sẽ giúp trẻ khám phá hứng thú hơn
và tích cực hơn.

10


Hình ảnh : Chiếc bát để trẻ quan sát
VD: Khi cho trẻ làm quen với các con vật sống dưới nước, tôi cho trẻ đọc
bài đồng dao: Con cua mà có hai càng
Con cua mà có hai càng
Đầu, tai không có bò ngang cả đời
Con cá mà có cái đuôi
Cái đuôi ve vẩy nó bơi rất tài

Con rùa mà có cái mai
Cái cổ thụt ngắn, thụt dài vào ra…
Sau khi trẻ đọc bài đồng dao, cô cùng trẻ đàm thoại về nội dung bài đồng
dao làm nổi bật đặc điểm của con cua, con cá, con rùa. Kết hợp cho trẻ quan sát
mẫu để trẻ khắc sâu thêm đặc điểm của chúng và so sánh sự giống và khác nhau
của các con vật dễ dàng hơn.
* Tích hợp môn tạo hình khi cho trẻ khám phá khoa học:
Tôi luôn sử dụng các hoạt động tạo hình như một phương pháp củng cố
biểu tượng của trẻ về các sự vật, hiện tượng xung quanh. Để kích thích hứng
thú, tạo sự quan tâm chú ý của trẻ tôi thường lồng ghép hoạt động tạo hình vào
cuối các hoạt động học, sinh hoạt chiều và trong hoạt động góc khi đã cho trẻ
làm quen với các đối tượng.
Khi tổ chức một hoạt động trong chủ đề phương tiện giao thông, tôi cho trẻ
tự làm một sản phẩm như: Tranh vẽ về phương tiện giao thông đường bộ, Nặn
cột đèn tín hiệu giao thông. Qua các hoạt động trẻ tự làm dưới sự giám sát của
cô, tôi nhận thấy trẻ chủ động hơn, tự tin sáng tạo hơn. Trẻ thích thú với các sản
phẩm của mình.

11


VD: Khi thực hiện chủ đề Thế giới động vật tôi cho trẻ làm quen với các
con vật sống trong gia đình, sau khi trẻ đã được làm quen với một số con vật gần
gũi trong gia đình như: chó, mèo, gà, vịt…Tôi chia trẻ thành 3 đội, mỗi đội sẽ sử
dụng các nguyên vật liệu như: sách báo cũ, lá cây, đất nặn, các loại hột hạt (hạt
đậu, hạt dưa, hạt gạo, hạt vừng…) để tạo thành những bức tranh thật đẹp về
cảnh gia đình, có các con vật gần gũi trong gia đình mà trẻ yêu quý. Hay bức
tranh về những con vật sống trong rừng. Sau đó mỗi đội sẽ cử ra một bạn thuyết
trình về ý tưởng bức tranh của đội mình.


Hình ảnh: Trẻ đang giới thiệu về bức tranh chủ đề động vật
mà trẻ cùng cô tự làm.
Thông qua hoạt động tạo hình trẻ được trải nghiệm, khắc sâu thêm về môi
trường sống, tên gọi và các đặc điểm riêng của các con vật gần gũi trong gia
đình, những con vật sống trong rừng. Không những thế còn phát triển cho trẻ kỹ
năng quan sát, phán đoán, so sánh, phân loại các con vật và giáo dục trẻ yêu quý
bảo vệ các loài động vật.
* Kết quả:
Khi cho trẻ khám phá khoa học tùy theo nội dung chủ đề tôi tích hợp môn
tạo hình cho trẻ vừa đem lại hứng thú khám phá cho trẻ vừa tăng kỹ năng tạo
hình cho trẻ. Thực tế cho thấy khi trẻ khám phá tốt nội dung cô truyền đạt thì
cũng đồng thời những bài tạo hình trẻ tự tay làm ra cũng trở nên đẹp mắt và sinh
động hơn.
* Tích hợp môn toán khi cho trẻ khám phá khoa học:
Trong hoạt động học tôi thường lồng ghép những kiến thức sơ đẳng về
toán, giúp trẻ hứng thú hoạt động và củng cố thêm kiến thức về toán cho trẻ.
- Lồng ghép số lượng và đếm: Tôi luôn tận dụng các cơ hội để cho trẻ
thực hiện kỹ năng đếm, so sánh các nhóm có số lượng khác nhau và làm quen
với chữ số biểu thị số lượng.
VD1: Khi cho trẻ làm quen với con Cua, tôi cho trẻ đếm số chân của con
Cua.
12


Hay: Khi cho trẻ làm quen với các loại côn trùng, tìm hiểu về quá trình
phát triển của con Bướm, tôi cho trẻ chia thành 2 đội, đi trong đường hẹp và lên
gắn các số tương ứng với hình ảnh thể hiện từng giai đoạn phát triển của chúng.
1: Hình ảnh trứng sâu =>2: Hình ảnh sâu non =>3: Hình ảnh sâu trưởng
thành =>4: Hình ảnh nhộng nằm trong kén =>5: Hình ảnh con Bướm.
- Lồng ghép hình dạng:

Tôi luôn kết hợp củng cố các hình cơ bản khi khảo sát các đồ vật xung quanh,
giúp trẻ dễ dàng khắc sâu đặc điểm của các đồ vật mà trẻ đã được làm quen.
Ví dụ: chủ đề Gia đình: khi cho trẻ khám phá một số đồ dùng trong gia
đình. Tôi sẽ cho trẻ tìm những đồ dùng trong gia đình có dạng hình tròn, đồ
dùng có dạng hình vuông, đồ dùng có dạng hình tam giác…
Điều đó tạo cho trẻ khả năng nhận biết tất cả hình dạng đồ vật mà trẻ khám
phá.
- Lồng ghép kích thước, khối lượng, phép đo:
Làm quen với kích thước, khối lượng đặc biệt có hiệu quả khi trẻ so sánh
các đối tượng với nhau, tôi luôn gợi ý để trẻ có thể phát hiện thấy sự khác nhau
về kích thước và trọng lượng của các đối tượng. Những trường hợp có thể xác
định bằng mắt thường hoặc bằng cách nhấc thủ công thì có thể khẳng định ngay.
Còn những trường hợp sự chênh lệch không đáng kể thì có thể cho trẻ sử dụng
các cách đo khác nhau hoặc thông qua trò chơi nếu kích thước quá lớn.
VD: Trong chủ đề “ Gia đình” với đề tài: làm quen với một số đồ dùng
trong gia đình. Như là quen với cái nồi cơm điện và cái phích trẻ so sánh giữa
hai đồ dùng này với nhau. Nồi cơm điện và cái phích khác nhau là nồi cơm điện
có hình dáng to hơn, ngắn hơn cái phích, dùng để cắm cơm. Còn cái phích có
hinh dáng nhỏ hơn, cao hơn, dùng để đựng nước. Điểm giống nhau giữa nồi
cơm điện và cái phích là đều là những đồ dùng quen thuộc trong gia đình. Hay
cách khác tôi cho trẻ lấy thước đo chiều cao, rộng của hai đối tượng. Hoặc cho
trẻ nâng lên, xách hai đối tượng nồi cơm điện và cái phích xem cái nào nặng hơn
và nhẹ hơn.
- Lồng ghép xếp tương ứng 1-1:
Nội dung này có thể củng cố 1 cách hiệu quả khi cho trẻ tìm hiểu về cơ thể
bé và những đồ dùng của bé tương ứng với cơ thể của bé ở chủ đề Bản thân
Ví dụ: Đầu -> Cần mũ, Tay -> Cần Bao tay. Chân -> Cần Dép
* Tích hợp với âm nhạc.
Trong quá trình cho trẻ khám phá khoa học, các bản nhạc và các bài hát
luôn được tôi kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tôi tổ chức rất nhiều hoạt động

cho trẻ có thể tổ chức trên nền nhạc êm, nhẹ nhàng vừa có tác dụng kích thích
hứng thú hoạt động của trẻ, vừa có tác dụng làm thước đo thời gian cho một trò
chơi, một cuộc thi vào cuối các hoạt động và các chủ đề, một trong các hoạt
động thu hút được sự tham gia tích cực và sôi động của trẻ đó là thi hát các bài
hát về các đối tượng mà trẻ được làm quen.
VD: Khi cho trẻ làm quen với các loại phương tiện giao thông tôi sẽ cho trẻ
chia làm 2 đội và hát về hai loại phương tiện khác nhau:
13


+ Đội nam: hát các bài về phương tiện giao thông đường bộ
+ Đội nữ: hát các bài về phương tiện giao thông đường thủy.
Lớp tôi phụ trách là lớp mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi nên sau mỗi chủ đề luôn
luôn cùng trẻ tự sáng tác một số bài hát có nội dung phù hợp với chủ đề gây
hứng thú cho trẻ. Sáng tác lời mới cho các làn điệu dân ca, mang lại nội dung
bài hát gần gũi với trẻ. Giúp trẻ dễ nhớ và khắc sâu đối với trẻ.
VD: Dựa theo làn điệu bài Đi cấy - dân ca Thanh Hoá tôi cùng các cháu
đã sáng tác lời mới “ Gia đình yêu thương”
“Gia đình mình thật là vui, gia đình mình thật là vui. Bao nhiêu ngọt bùi sẻ
chia bên nhau. Mong sao con lớn thật ngoan, lớn thật là ngoan. Ba mẹ chăm sóc
các con từng ngày, lớn khôn từng ngày để ngày mai con. Dựng xây đất nước cho
quê nhà đẹp tươi”.
VD: Ở chủ đề “Thế giới thực vật- Tết nguyên đán” tôi sáng tác bài Vè về
mùa xuân:
Ve vẻ vè ve
Nghe vè xuân tới.
Bé mặc áo mới.
Cầm chùm bong bay.
Má đỏ hây hây.
Vui mừng tết đến.

Xuân về hết rét.
Đào nở hồng tươi.
Dưới ánh mặt trời.
Tỏa hương thơm ngát.
Bố dọn lá rơi.
Mùa đông đi rồi.
Đón mùa xuân tới.
Trồng thêm cây mới.
Tạo môi trường xanh.
Không khí trong lành
Mọi người mạnh khỏe.

14


*Tích hợp với phát triển thể chất.
Trong quá trình khám phá khoa học, việc tích hợp với các vận động cơ bản
và các trò chơi vận động được tôi tiến hành tương đối thường xuyên, dưới tất cả
các hình thức và đặc biệt là trong hoạt động học.
Trong chủ đề Thế giới động vật, tôi luôn tổ chức các trò chơi động, trò chơi
tĩnh đan xen nhau để tạo hứng thú, làm cho hoạt động thêm vui tươi, trẻ thêm
phần hoạt bát, nhanh nhẹn và tích cực tham gia các hoạt động.
VD: Khi cho trẻ khám phá các con vật sống dưới nước, tôi chuẩn bị một
bức tranh về sông nước có rong, thuyền buồm… và chuẩn bị lô tô các con vật:
cá, tôm, cua, ốc, trai… và các con vật sống ở môi trường khác như: chó, mèo,
khỉ… Tôi chia trẻ thành 3 đội và cho trẻ bật liên tục qua 5 vòng hay đi zích zăc
qua 5 hộp lên chọn và dán lô tô để hoàn thiện bức tranh về cảnh sông nước có
các con vật thường sống ở dưới nước.
Qua trò chơi này giúp trẻ khắc sâu thêm về môi trường sống của các con
vật, trẻ có thể phân biệt được nhóm con vật sống dưới nước với nhóm các con

vật sống trên cạn, trong rừng, trong gia đình…
*Tích hợp với chữ cái và chữ viết.
Biểu tượng chữ cái và chữ viết: tôi luôn củng cố cho trẻ trong khi cho trẻ
xem tranh, tiếp xúc với các sự vật trong tự nhiên và trong xã hội.
VD1: Trong chủ đề “Thế giới thực vật” khi cho trẻ quan sát tranh, ảnh và
vật thật, tôi đều ghi tên cụ thể đồ vật và treo vào đối tượng quan sát.
Làm như vậy khi trẻ quan sát tranh và tiếp xúc với vật thật thì trẻ được tri
giác cả tên gọi của chúng.
Chữ cái còn có thể tích hợp một cách hiệu quả vào các trò chơi của trẻ như
trò chơi gắn chữ cái tương ứng với chữ cái chỉ tên các con vật, đồ vật.
VD: Chữ B – Bông hoa. Chữ H – Hoa hồng. Chữ C – Hoa cúc
* Kết quả: Sau khi tổ chức tích hợp các môn học giúp trẻ khám phá khoa
học - cô và trẻ đã thu được kết quả như sau:
- Bản thân Tôi có thêm kinh nghiệm tích hợp sao cho nội dung bài dạy
thêm phong phú mà lại kích thích được sự hứng thú của trẻ.
- 41/41 = 100% Trẻ trong lớp tỏ ra hứng thú, hoạt bát, nhanh nhẹn và chủ
động hơn khi tham gia các hoạt động khám phá khoa học.
- 38/41= 92 % Khả năng quan sát, phân tích, so sánh, hoạt động độc lập và
hoạt động sáng tạo của trẻ tiến bộ rõ rệt, trẻ có nhiều kinh nghiệm hơn về thế
giới xung quanh, ngôn ngữ của trẻ phát triển phát triển mạnh nên trẻ mạnh dạn,
tự tin hơn trong giao tiếp.
- 41/41= 100% Trẻ yêu thiên nhiên, con người, mọi vật xung quanh mình
và có cảm nhận tốt hơn về các đối tượng cần khám phá.


2.3.5. Xây dựng góc khám phá khoa học - làm giàu vốn biểu tượng về
thế giới xumg quanh cho trẻ.
Tôi luôn trăn trở và tìm biện pháp làm thế nào để làm giàu vốn biểu tượng
về thế giới xung quanh một cách tốt nhất cho trẻ và tôi đã xây dựng góc khám
phá khoa hoc:

VD: Chủ đề thế giới thực vật: Để cho trẻ thấy được sự kỳ diệu từ những
thay đổi của thế giới xung quanh, tôi làm thí nghiệm “ Sự nảy mầm của cây”
Tôi sẽ cùng trẻ gieo hạt rau xuống đất vườn ở sân trường và cùng chăm sóc.
Hàng ngày tôi cho trẻ ra vườn tưới nước và quan sát. Trẻ sẽ được tự mình ngày
ngày nhìn thấy sự lớn lên của cây rau. Điều này sẽ tác động trực tiếp lên óc quan
sát của trẻ và khả năng tư duy của trẻ.

Hình ảnh: Trẻ quan sát sự nảy mầm và lớn lên của cây rau đay.
* kết quả:
- Sau khi xây dựng được góc khám phá khoa học, 41/41 = 100% Trẻ đã
thực sự gần gũi hơn với thiên nhiên, biết yêu quí, chăm sóc và bảo vệ cây xanh,
biết ăn đa dạng bốn chất dinh dưỡng.
2.3.6. Tổ chức thực hành thí nghiệm để kích thích sự phát triển tư duy của
trẻ trong hoạt động khám phá khoa học.
Thí nghiệm là việc tổ chức cho trẻ hành động tác động vào đối tượng, làm
thay đổi đối tượng nhằm kiểm nghiệm một tính chất nào đó của sự vật hoặc tạo
dựng lại một hiện tượng có trong tự nhiên.


Trong quá trình thực hiện thí nghiệm trẻ có cơ hội được thực hành, trải
nghiệm và thể hiện thao tác tư duy như: So sánh, phân tích, tổng hợp....
Hiểu được điều đó tôi luôn chú trọng thường xuyên tổ chức cho trẻ được
tiến hành thực hiện các thí nghiệm đơn giản. Giúp trẻ rèn luyện và phát triển tư
duy. Việc sử dụng các thí nghiệm đơn giản của tôi đã kích thích ở trẻ tính tò mò,
ham hiểu biết, khám phá và tạo cơ hội cho trẻ suy nghĩ độc lập để tự mình tìm ra
lời giải, thu thập, lĩnh hội tri thức kiểm nghiệm, kỹ năng mà không bị phụ thuộc
theo điều khiển của cô giáo.
Những thí nghiệm đơn giản mà tôi tổ chức rộng rãi ở trong các hoạt động
hằng ngày như: Hoạt động học có chủ định, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc,
góc thiên nhiên, góc xây dựng....Trong đó góc khám phá khoa học là hoạt động

phù hợp nhất để tôi tiến hành thí nghiệm cho trẻ.
Ví dụ: Thí nghiệm: Sự biến đổi kỳ diệu của nước.
- Mục đích thí nghiệm:
+ Phát triển khả năng phán đoán, suy luận của trẻ thông qua hành động pha
nước màu cho chất lỏng.
+ Nhận biết được sự thay đổi màu của nước và các màu khi pha trộn với
nhau trong nước.
+ Biết pha trộn một số màu cơ bản cần thiết.
+ Giúp trẻ hình thành thói quen khám phá đồng thời phát triển sự khéo léo
cho đôi tay của trẻ.
+ Tạo niềm thích thú và thực hiện công việc đến cùng.
- Điều kiện thí nghiệm:
Chuẩn bị : Lo nhựa trong suốt, một số màu cơ bản, đũa để ngoáy nước và
thìa để xúc bột màu.
- Quá trình thí nghiệm:
+ Cho trẻ đổ một ít nước sạch vào lọ nhựa sau đó để trẻ quan sát màu của
chất lỏng và các loại bột màu. Cho trẻ đoán kết quả khi hòa bột màu vào cốc
nước, sau đó cho trẻ thử nghiệm bằng hành động, quan sát và đưa ra nhận xét.
+ Tôi thảo luận với trẻ: Nếu để màu tự tan trong nước thì sẽ rất lâu “Muốn
cho màu tan nhanh thì phải làm thế nào”?. Cho trẻ dùng đũa ngoáy cốc nước để
màu tan đều. Yêu cầu trẻ so sánh sự khác biệt về màu sắc trong các cốc nước.
+ Cho trẻ thực hiện pha trộn hai màu khác nhau và phán đoán xem điều gì
xảy ra. Để trẻ quan sát hiện tượng biến đổi màu của nước (Đỏ + vàng = Cam,
Đỏ+ trắng = hồng, Xanh sẫm + Vàng = Xanh lá cây) biến đổi.
Đây thực sự là sự trải nghiệm mới mẻ đối với trẻ. Trẻ thực sự thích thú khi
trải nghiệm những điều mới lạ như vậy. Đây là môi trường hoạt động rất tốt giúp
trẻ phát triển khả năng quan sát, phân tích và phán đoán, qua đó còn giáo dục ý
thức chăm sóc, bảo vệ.



Hình ảnh: Trẻ quan sát sự biến đổi kỳ diệu của nước
Kết quả: Từ những thực hành thí nghiệm đơn giản mà tôi thực hiện cùng
trẻ tôi nhận thấy trẻ thực sự hứng thú và say mê khám phá. Nhìn những đôi mắt
to tròn đầy ngạc nhiên và thích thú của trẻ tôi cảm thấy thực sự rất vui vì biết
mình đã góp phần nhỏ bé vào việc phá triển óc sáng tạo và khả năng tư duy cho
trẻ. Tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về trẻ của lớp mình 41/41=
100% trẻ hứng thú tham gia hoạt động một cách tích cực.
2.3.7. Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy trẻ cao nhất.
Trẻ mầm non dễ nhớ lại nhanh quên, nếu không được luyện tập thường
xuyên thì sau ngày nghỉ sẽ quên lời cô dạy. Vì vậy tôi thường xuyên trao đổi với
phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ để phụ huynh hiểu được tính cách và khả năng
của trẻ khi đến lớp. Từ đó cùng với cô giáo lập kế hoạch giáo dục trẻ một cách
tốt nhất.
Trong lớp học của tôi có 41 cháu, mỗi cháu một tính cách, hiểu biết và sở
thích khác nhau.
VD: cháu Long rất thích đọc và giải câu đố, Cháu Phương Vy, cháu Nhật
Ly: rất hay hỏi về các sự vật, hiện tượng lạ xung quanh trẻ.
Tôi luôn động viên các cháu không chỉ biết bảo vệ môi trường xung quanh
mà còn giúp đỡ bố mẹ các công việc nhỏ như: quét nhà, cho gà ăn thóc…
Tôi luôn trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển truyện, tranh phù
hợp với từng chủ đề trong năm học và phù hợp với lứa tuổi để bổ sung thêm vốn
hiểu biết về khám phá khoa học cho trẻ phong phú, đa dạng hơn.
Tôi luôn kết hợp với phụ huynh sáng tác thơ ca, hò, vè, câu đố để bộ sưu
tập của tôi thêm phong phú, giúp tôi có điều kiện thuận lợi khi thực hiện các chủ
đề trong năm học.


Ví dụ: Phụ huynh lớp tôi đã sáng tác một bài hát dựa theo nhạc bài “ Đố
bạn” nội dung của bài hát đó là:
“ Đố bạn biết lớp học này của ai? Tôi trả lời đó là lớp của tôi. Lớp học đó

rất gần gũi yêu thương, lớp học đó nơi học bao điều hay.”
Ví dụ: Chủ đề “ Quê hương- Đất nước- Bác Hồ” Phụ huynh đã sáng tác bài:
Về thăm quê em ( Dựa heo bài: Lý cây bông)
“ Con mong cô bác về thăm nhà con ở làng quê. Sớm hôm xum vầy vui vẻ
gia đình con. Mẹ cha sớm hôm ân cần, nuôi dạy bảo chúng con. Cùng nhau
chăm sóc cho cây trồng, con vật khỏe lớn nhanh, cùng nhau giữ cho quê mình,
môi trường sạch mát hơn”.
Điều đó trẻ thực sự thích thú. Trẻ hát rất hay và thuộc bài hát rất nhanh.
* Kết quả: Công tác phối kết hợp với Phụ huynh đã đạt được một số kết
quả đáng kể:
- 41/41 cháu = 100% Phụ huynh đã giúp trẻ được tiếp xúc nhiều với thiên
nhiên, cây cỏ, động thực vật, được bố mẹ thường xuyên cung cấp và củng cố
thêm những kiến thức mà tôi đã dạy nên khả năng tiếp thu của trẻ và vốn hiểu
biết về thế giới xung quanh ngày càng phong phú.
- Phụ huynh đã sưu tầm được rất nhiều tranh ảnh, các loại sách báo cũ,
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, đồ dùng phế thải đảm bảo an toàn để làm
đồ dùng, đồ chơi phù hợp với nội dung, chủ đề trong năm học.
2.4. Kết quả đạt được
* Đối với bản thân:
Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy tôi nhận thấy
mình được trau dồi kiến thức, kỹ năng, nghệ thuật dạy trẻ.
Tôi tích lũy thêm cho bản thân những thủ thuật gây hứng thú cho trẻ khám
phá khoa học. Tùy mỗi chủ đề tôi sẽ đưa ra những hình thức khám phá phù hợp
với trẻ tạo cho trẻ niềm hứng khởi thực sự khi khám phá những điều mới lạ đã
đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy
*Đối với học sinh:
- Trẻ thông minh, nhanh nhẹn, tích cực, chủ động trong mọi hoạt động tìm
tòi và khám phá thế giới xung quanh. Trẻ biết suy nghĩ và đặt ra nhiều câu hỏi
suy luận cho cô và trẻ khác cùng trả lời.
- Trẻ có kỹ năng so sánh phân loại tốt, hiểu biết rộng về tự nhiên và xã hội.

* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc gây hứng thú trong
hoạt động khám phá khoa học. Vì thế phụ huynh đã tích cực phối hợp với giáo
viên để các hoạt động khám phá khoa học của trẻ đạt hiệu quả cao. Trẻ sẽ thực
sự được biết, được hiểu khi cô giáo cung cấp kiến thức vững chắc và được bố
mẹ người thân trong gia đình củng cố thêm ở nhà. Đây chính là vấn đề cần được
mở rộng và nâng cao trên mọi lĩnh vực.


* Kết quả khảo sát cuối năm học:

Tổng
số trẻ
đến
lớp

41

Số cháu tích cực Có kỹ năng quan
hoạt động
sát, phán đoán
Đạt

Có kỹ năng so
sánh, phân loại

Đạt

T


K

TB

30

8

3

Tỷ lệ % 73 19,5 7,5



Có ý thức chăm
sóc, bảo vệ
MTXQ

Đạt

T

K

TB

0

31


7

2

0

76

17

5



Đạt

T

K

T CĐ
B

1

23

10

6


2

56

24 15

2



T

K

TB

25

10

6

0

24

15

0


5 61

Qua bảng khảo sát, điều đáng mừng là số cháu tích cực tham gia các hoạt
động đã tăng, trẻ có kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại và thân thiện với môi
trường, có ý thức chăm sóc bảo vệ môi trường xung quanh cũng nhiều hơn. Vì
vậy trong các chủ đề tiếp theo của năm học 2016-2017, tôi đã áp dụng triệt để
phương pháp dạy học tích hợp các môn học khi cho trẻ khám phá khoa học và
tích hợp thêm đầy đủ nội dung của các lĩnh vực giáo dục khác ở một mức độ
phù hợp và tôi rất vui mừng trước kết quả khảo sát cuối năm học so với đầu năm
học mà trẻ đã đạt được.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua kết quả và quá trình thực hiện, tôi đã rút ra được những bài học kinh
nghiệm bổ ích cho mình.
- Khi lập kế hoạch thực hiện một chủ đề, một đề tài nào đó, giáo viên cần
suy nghĩ xem có thể tích hợp vào đó những nội dung gì cho phù hợp. Cần lưu ý
rằng các nội dung mà chúng ta tích hợp không được lấn át nội dung của chủ đề
và đề tài chính mà chúng ta đang tiến hành, lại càng không nên tích hợp một
cách thiếu liên kết hay máy móc.
- Khi cho trẻ khám phá khoa học, có thể tích hợp nội dung của các lĩnh vực
giáo dục khác ở trường mầm non, luôn có sự sáng tạo trong mỗi hoạt động, luôn
có sự đổi mới trong phương pháp dạy trẻ.
- Là người giáo viên phải biết xác định các điều kiện thực tiễn của lớp, của
trường, của địa phương, của trẻ, của phụ huynh để có cơ sở xây dựng kế hoạch
cho trẻ khám phá khoa học một cách sát thực.
- Giáo viên cần năng động, sáng tạo để duy trì và phát triển các hoạt động
của trẻ, tạo điều kiện tốt để nâng cao kỹ năng quan sát, tư duy so sánh, phân loại
và có hành vi ứng xử thân thiện hơn với môi trường.



Chính vì thế giáo dục Mầm non có vai trò quan trọng chính, trách nhiệm
của giáo viên Mầm non vô cùng lớn lao với mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ thành
những con người mới sáng tạo.
3.2. Kiến nghị
- Đối với Phòng Giáo Dục: Tổ chức nhiều hơn nữa công tác bồi dưỡng
chuyên môn về các hoạt động khám phá khoa học qua hội thảo, chuyên đề để
giáo viên có nhiều cơ hội học tập, rút kinh nghiệm trong giảng dạy.
- Tổ chức hội thi sưu tầm đồng dao, ca dao, lời bài hát, làm đồ dùng đồ chơi
cấp huyện. Từ đó phục vụ cho các hoạt động giáo dục nói chung và hoạt động
khám phá cho trẻ nói riêng.
- Đối với nhà trường: Cần mở rộng diện tích vườn thiên nhiên của bé để
trồng bổ sung cây xanh. Bên cạnh đó trồng cây phân khu vực riêng biệt các loại
cây như cây hoa, cây thuốc nam, cây rau, cây ăn quả, cây cảnh để giúp trẻ khám
phá, chăm sóc các cây được tốt hơn.
Trên đây là một số biện pháp, kinh nghiệm mà tôi đã thực nghiệm “ Một số
biện pháp nâng cao chất lượng khám phá khoa học cho trẻ 4 - 5 tuổi ở trường
mầm non Nga Yên”. Từ đó tôi áp dụng những kinh nghiệm để dạy trẻ nâng cao
các kỹ năng quan sát, phán đoán, so sánh, phân loại và thân thiện với môi trường
xung quanh. Trong quá trình đưa ra đề tài nghiên cứu, tôi vẫn còn một số hạn
chế nên rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý ban hội đồng khoa học các
cấp cùng các đồng nghiệp để những giờ dạy khám phá khoa học nói riêng và
công tác Chăm sóc - Nuôi dưỡng - Giáo dục trẻ nói chung của tôi trong những
năm học tiếp theo đạt kết quả cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦATHỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Mai Thị Liên


Nga Yên, ngày 10 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép của người khác.
Người viết SKKN

Trịnh Thị Hòa


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia.
2. Một số vấn đề quản lý giáo dục Mầm non - Nhà xuất bản Đại học quốc
gia - Hà Nội.
3. Chương trình Giáo dục mầm non - Phan Thị Thu Hiền
4. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Mầm non
5. Tài liệu của Tiến sĩ Trần Thị Ngọc Trâm - Thiết kế các hoạt động khám
phá khoa học cho trẻ Mẫu giáo.



×