Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nâng cao chất lượng học môn toán thông qua việc vận dụng trò chơi cho hoc sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Toán cùng với các môn
học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần quan trọng đào
tạo nên những con người phát triển toàn diện. Toán học là môn khoa học tự
nhiên có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của
các bộ khoa học khác.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên
không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo
khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy
móc, làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì
việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ
không cao. Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp
dạy học môn toán ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của học sinh. Vì vậy, người giáo viên phải gây được hứng thú học tập
cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò
chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội
dung toán học lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông
qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức toán học một cách dễ dàng,
củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê,
hứng thú trong học tập, trong việc làm. Khi giáo viên đưa ra được các trò chơi
toán học một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy - học
môn toán sẽ ngày càng nâng cao.
Nhưng một số ý kiến cho rằng, sử dụng trò chơi học tập trong môn toán sẽ
gây ồn ào, mất trật tự ảnh hưởng đến các hoạt động khác. Mặt khác, một số giáo
viên khi sử dụng phương pháp trò chơi học tập lại chưa biết lựa chọn nội dung bài
dạy để vận dụng phương pháp trò chơi học tập cho hợp lý, hoặc trò chơi đưa ra
không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu bài học nên việc tổ chức trò chơi
học tập chơi chưa đạt hiệu quả cao.
Riêng tôi, tôi thấy phương pháp Trò chơi học tập trong môn toán có nhiều
ưu điểm, không những giúp học sinh tự khám phá, hình thành, hệ thống kiến


thức mà nó còn tạo cho các em có sự thi đua, tính nhanh nhẹn, cởi mở, vui vẻ
khi đến trường, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện ở học sinh Tiểu học.
- Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy đa số học sinh rất muốn được tham gia
Trò chơi học tập trong môn Toán nhưng vẫn còn không ít học sinh thụ động, tự
ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động này. Mặt khác, trong môn Toán
lớp 3 có rất nhiều tiết học cần sử dụng đến phương pháp Trò chơi học tập để
phát hiện kiến thức mới hoặc để củng cố kiến thức đã học.
Với các lý do trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu: “Nâng cao hiệu quả dạy –
học Toán lớp 3A tại Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn thông qua việc vận
dụng một số trò chơi học tập"
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức Toán một cách hiệu quả nhất, hướng
1


thú học tập nhất, làm cho giờ học đạt kết quả cao nhất.
Nâng cao chất lượng học Toán cho học sinh.
Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học được sự chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà
trường, tôi đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu chuyên đề: " Nâng cao hiệu quả dạy
– học Toán lớp 3A tại Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn thông qua việc vận
dụng một số trò chơi học tập"
1. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh lớp 3A Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn – Thanh Hóa.
1. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
a. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học.
Các chuyên đề trò chơi học tập môn Toán.
Chương trình Bồi dưỡng thường xuyên.
Nghiên cứu việc dạy và học Toán lớp 3A của Trường Tiểu học Thị Trấn

Nga Sơn
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Tìm hiểu thực tế dạy và học cuả GV và HS, của bạn bè đồng nghiệp.
- Trao đổi, dự giờ, kiến tập, thảo luận, toạ đàm với đồng nghiệp.
c. Phương pháp thực nghiệm:
- Tiến hành dạy thực nghiệm, đối chứng, trao đổi rút kinh nghiệm, đánh giá hiệu
quả của việc vận dụng đổi mới nội dung - phương pháp dạy học vào lớp 3A Trường
Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn – Thanh Hóa.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa
tuổi, đặc biệt ở lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp Với đặc điểm tâm sinh lý
của lứa tuổi này. Bởi vậy phương pháp Trò chơi học tập được đánh giá cao
trong giảng dạy.
* Trò chơi học tập là gì? Trò chơi không chỉ là một “công cụ” dạy học mà
nó còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Phương
pháp tổ chức trò chơi không chỉ là sự đánh giá trong quá trình dạy và học của
thầy và trò mà nó còn tạo cho ta cảm giác thoải mái, tự tin, có sự sáng tạo, nhanh
trí, có óc tư duy, tưởng tượng của học sinh. Dạy kết hợp với tổ chức trò chơi
chính là việc giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành tốt phẩm chất của con
người mới : Con người xã hội chủ nghĩa.
* Nhà tâm lý học Kun Kel người Anh nói: “Trò chơi học tập là một
phương pháp dạy học giúp các em vui vẻ hẳn lên, thích hoạt động hơn. Khi
bị khép vào luật chơi, các em dần có trật tự, kỷ luật hơn…”
Trò chơi học tập trong môn Toán còn có một vai trò rất lớn trong mỗi tiết
học vì:
+ Nó làm thay đổi không khí lớp học, tập thể có được bầu không khí vui
vẻ, thân ái, thông cảm.
+ Quá trình học tập còn trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn.
2



+ Học sinh tiếp thu bài tự giác, tích cực hơn.
+ Học sinh được hệ thống và củng cố kiến thức.
+ Học sinh thấy nhanh nhẹn cởi mở hơn.
Tổ chức trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học, chơi là một biện pháp
học tập có hiệu quả của học sinh. Thông qua trò chơi, học sinh được tập luyện,
làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị tập thể theo sự phân công với tinh thần
hợp tác. Đó là những việc làm thuộc phương pháp học tập mới mà trường Tiểu
học cần hình thành ở người học.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY- HỌC TOÁN TRONG
TRƯỜNG TIỂU HỌC:
a. Thực trạng của giáo viên.
Đối với Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn là một trường luôn luôn dẫn
đầu về phong trào dạy tốt trong khối tiểu học của Huyện Nga Sơn. Trong các đợt
thi giáo viên giỏi cấp huyện một số giáo viên Trường Tiểu học Thị Trấn đã đạt
thủ khoa, có rất nhiều đồng chí có năng lực vững vàng, phương pháp dạy học
linh hoạt đã lôi cuốn được học sinh vào học tập.
Bên cạnh đó vẫn còn một số tiết dạy giáo viên còn ảnh hưởng của phương
pháp dạy học cũ: nặng nề về thuyết trình giảng giải, chưa lựa chọn các phương
pháp dạy học phù hợp để làm phong phú tiết dạy mà cơ bản chỉ sử dung phương
pháp: Thuyết trình, hỏi đáp, giảng giải. … chưa chú trọng đến việc tổ chức trò
chơi cho học sinh.
- Sử dụng hình thức dạy học đơn điệu chủ yếu là dạy cả lớp. Trong tiết dạy
hằng ngày giáo viên ngại tổ chức trò chơi vì như vậy phải đầu tư thời gian, đồ
dùng, thiết bị hỗ trợ.
- Một số giáo viên trong quá trình dạy học cũng đã tổ chức được các trò
chơi nhưng những trò chơi này còn đơn điệu, tẻ nhạt, hình thức đơn điệu nên
chưa phát huy được sự thi đua, tính nhanh nhẹn, cởi mở, vui vẻ ở học sinh Tiểu
học.

b. Thực trạng của học sinh.
Nói đến học sinh Trường Tiểu học Thị Trấn là nói đến phong trào học tập
tốt. Trường Tiểu học Thị Trấn đã có bề dày thành tích về học tập. Nhất là việc
học môn Toán, không những nhiều học sinh có tố chất tốt mà các em rất say mê
với môn học này. Đồng hành với các em là thầy cô có năng lực, nhiệt tình trong
dạy học, các bậc phụ huynh quan tâm, tạo điều kiện về vật chất, tinh thần cho
các em học tốt môn Toán.
Bên cạnh những học sinh say mê với môn Toán, vẫn còn một số em đang
còn thờ ơ với việc học toán, các em cho rằng: Học toán là chỉ cần biết thực hiện
đúng các phép tính, giải được các bài toán chứ không cần rèn đến tính nhanh
nhẹn, tư duy lô gic,….
- Một số phụ huynh chưa có phương pháp để hỗ trợ cho các em tiếp thu,
củng cố kiến thức. Mặc dù môn Toán được các phụ huynh rất coi trọng nên đã
bắt các em lúc nào cũng phải làm bài tập hết tài liệu này đến tài liệu khác, thậm
chí học trước chương trình. Vì vậy nói đến học toán là các em thấy sợ, lo lắng,
không muốn học, từ đó chất lượng học Toán của một số học sinh chưa cao.
3


c. Khảo sát kết quả môn Toán của học sinh.
Với nguyên nhân trên lí giải phần nào kết quả khảo sát môn Toán của học
sinh lớp 3A do tôi chủ nhiệm đầu năm học 2016 - 2017 như sau :
Kếtquả
Số HS
33

HS ham học
SL
%
23

69,7

HS chưa có hứng thú học
SL
%
10
30,3

Qua bảng khảo sát trên cho thấy chất lượng học sinh ham học môn Toán
chưa có gì khả quan. Vậy làm thế nào để tăng hứng thú cho học sinh và nâng
cao chất lượng học tâp, bản thân tôi đã trăn trở, lựa chọn một số trò chơi học tập
trong môn Toán để đưa vào giảng dạy.
2. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP.
Đối với học sinh Tiểu học trò chơi có rất nhiều ý nghĩa và ứng dụng. Nó kích
thích sự hứng thú trong quá trình tìm tòi, khám phá, củng cố kiến thức. Trò chơi trong
học tập nếu được chuẩn bị một cách chu đáo, sẽ có tác dụng mở rộng, đào sâu kiến
thức, củng cố kiến thức một cách vững chắc. Hơn thế nữa nếu được sử dụng một cách
hệ thống phong phú và dựa trên một nội dung khoa học, trò chơi trong bộ môn sẽ gây
hứng thú cho học sinh, đưa tới việc ham muốn mở rộng hiểu biết, sưu tầm và đọc
thêm nhiều nguồn tài liệu khác nhau.
Vì vậy, thông qua các tiết dạy thực tế trên lớp, bản thân tôi đã phân loại các
đối tượng học sinh, tìm hiểu xem học sinh thường yếu ở mạch kiến thức nào, để
lựa chọn trò chơi cho phù hợp, giúp các em củng cố kiến thức để hiểu bài một
cách chắc chắn.
Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, người giáo
viên khi tổ chức và thiết kế trò chơi phải đảm bảo những yêu cầu sau:
Biện pháp 1: Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình để lựa chọn trò chơi
phù hợp theo dạng bài:
1.1: Nghiên cứu, tìm hiểu chương trình môn toán lớp 3.
Chương tình toán lớp 3 được xây dựng với thời lượng mỗi tuần 5 tiết với

35 tuần học với 5 mạch kiến thức cụ thể như sau:
1.1.1: Số học.
a. Phép nhân và phép chia trong phạm vi 1000 (tiếp):
Ở lớp 2, HS đã được làm quen với các số trong phạm vi 1000 và phép
cộng, phép trừ trong phạm vi 1000. Lên lớp 3 các em tiếp tục được học phép
nhân, phép chia trong phạm vi này với các nội dung sau:
- Củng cố các bảng nhân với 2, 3, 4 ,5 ( tích không quá 50) và các bảng
chia cho 2, 3, 4, 5 (số bị chia không quá 50). Bổ sung cộng, trừ các số có 3 chữ
có nhớ không quá 1 lần).
- Lập các bảng nhân với 6, 7, 8, 9, 10 (tích không quá 100) và các bảng
chia 6, 7, 8, 9, 10 ( số bị chia không quá 100).
- Hoàn thiện các bảng nhân và chia.
- Nhân, chia ngoài bảng trong phạm vi 1000: nhân số 2, 3 chữ số với số có
1 chữ số có nhớ không quá 1 lần, chia số có 2, 3 chữ số cho số có 1 chữ số (chia
hết và chia có dư).
4


- Thực hành tính: tính nhẩm trong phạm vi các bảnh tính; nhân nhẩm số có
2 chữ số với số có 1 chữ số không nhớ ; chia nhẩm số có 2 chữ số với số có 1
chữ số không có số dư ở từng bước chia. Củng cố về cộng, trừ, nhân, chia trong
phạm vi 1000 theo các mức độ đã xác định.
- Làm quen với các biểu thức số và giá trị biểu thức.
- Giới thiệu thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức số có đến 2 dấu
phép tính, có hoặc không có dấu ngoặc.
- Giải các bài tập dạng:
“Tìm x biết: a: x = b ( với a, b là số trong phạm vi đã học)”.
b. Giới thiệu các số trong phạm vi 100 000. Giới thiệu hàng nghìn,
hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn.
- Đọc, viết, so sánh các số dến 100 000. Các hàng đơn vị, chục, trăm,

nghìn, chục nghìn, trăm nghìn.
- Phép cộng và phép trừ có nhớ không liên tiếp và không quá 2 lần, trong
phạm vi 100 000. Phép nhân số có đến 4 hoặc 5 chữ số với số có 1 chữ số có
nhớ không liên tiếp và không quá 2 lần, tích không quá 100 000. Phép chia số có
đến 5 chữ số có 1 chữ số ( chia hết và chia có dư).
- Giới thiệu bước đầu về chữ số La Mã.
VD: Viết số tương ứng với các chữ số La Mã sau: I ; III ; IX ; V ;XXI.
1.1.2: Đại lượng và đo đại lượng:
a. Độ dài:
- Bổ sung và lập bảng các đợn vị đo độ dài từ mi-li-mét đến ki-lô-mét.
- Nêu mối quan hệ giữa hai đơn vị tiếp liền nhau, giữa mét và ki-lô-mét,
giữa mét và xăng-ti mét, mi-li-mét. Thực hành đo và ước lượng độ dài.
VD: Đo độ dài cái bút chì, mép bàn; đo chiều cao của các bạn trong nhóm.
b. Diện tích:
- Giới thiệu đơn vị đo diện tích: xăng-ti-mét vuông.
- Giới thiệu gam. Đọc, viết, làm tính với các số đo theo đơn vị gam. Giới
thiệu 1kg = 1000g. Thực hành cân.
c. Thời gian:
- Ngày, tháng, năm. Thực hành xem lịch.
- Phút, giờ. Thực hành xem đồng hồ, chính xác đến phút. Tập ước lượng
khoảng thời gian trong phạm vi một phút.
e.. Tiền Việt Nam:
- Giới thiệu tiếp về tiền Việt Nam. Tập đổi tiền với các trường hợp đơn
giản.
1.1. 3: Yếu tố hình học:
Gồm các nội dung:
- Giới thiệu góc vuông và góc không vuông. Giới thiệu thước êke. Vẽ góc
bằng thước thẳng và êke.
- Giới thiệu đỉnh, góc, cạnh của các hình đã học.
- Tính chu vi hình chữ nhật, hình vuông.

- Giới thiệu compa. Giới thiệu tâm và bánh kính, đường kính của hình tròn.
Vẽ đường tròn bằng compa.
- Thực hành vẽ hình tròn.
5


- Tính diện tích hình chữ nhật và diện tích hình vuông.
1.1.4. Yếu tố thống kê :
Sự khác biệt của chương trình toán lớp 3 so với lớp 2 đó là HS đã bước đầu
được làm quen với toán thống kê:
- Giới thiệu bảng số liệu đơn giản.
- Tập sắp xếp lại các số liệu của bảng theo mục đích, yêu cầu cho trước.
1.1.5. Giải bài toán:
Từ lớp 1 và lớp 2, các em đã được làm quen với các bài toán đơn giản có 1
bước tính, bước đầu hình thành cách giải bài toán có lời văn. Lên lớp 3, các bài
toán được nâng lên với yêu cầu về mức độ phức tạp cao hơn, phù hợp với sự
phát triển chung về trình độ toán học của HS. Cụ thể như sau:
- Giải các bài toán có đến 2 bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn
giản.
- Giải bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học.
Nhận xét: Đặc điểm cấu trúc chương trình toán lớp 3 vẫn dựa trên quan
điểm quán triệt tinh thần của nội dung chương trình toán tiểu học với những
mạch kiến thức xuyên suốt bậc học từ lớp 1 lên lớp 5.
Các nội dung được sắp xếp theo nguyên tắc đồng tâm hợp lí, thu gọn việc
dạy số học theo các vòng số từ các số trong phạm vi 10, 100 ở lớp 1; phạm vi
1000 ở lớp 2 đến phạm vi 10000 và 100000 ở lớp 3; làm cơ sở cho lớp 4 và lớp
5, đảm bảo tính hệ thống kiến thức.
Cấu trúc chương trình toán lớp 3 là sự mở rộng và phát triển lên từ lớp 1 và
lớp 2, đảm bảo sự liên tục và phù hợp đặc điểm tâm lý lứa tuổi và chuẩn kiến
thức kĩ năng của HS tiểu học.

Các nội dung chương trình được trình bày theo một hệ thống và có mối liên
hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đảm bảo tính thực hành luyện tập và ứng dụng vào
thực tế.
1.2: Lựa chọn các trò chơi phù hợp theo dạng bài.
Trên cơ sở chương trình và các mạch kiến thức trong chương trình toán
3, tôi đã lựa chọn các trò chơi phù hợp cho từng dạng bài.
- Các trò chơi củng cố nội dung đọc, viết, câu tạo cộng trừ, so sánh số dến
100000.
+ Trò chơi 1: Xếp hàng thứ tự
+ Trò chơi 2: Kế bạn.
- Các trò chơi củng cố bảng nhân và bảng chia.
+ Trò chơi 1: Bác đưa thư
+ Trò chơi 2: Giàng cờ chiến thắng
+ Trò chơi 3: Ong đi tìm nhụy.
- Các trò chơi củng cố về các đại lượng.
+ Trò chơi: Thi quay kim đồng hồ.
- Trò chơi về tính giá trị biểu thức
+ Trò chơi: Bác mặt nạ thông thái
- Trò chơi củng cố về nội dung hình học.
+ Trò chơi: Ghép hình
- Trò chơi rèn kĩ năng giải toán.
6


+ Trò chơi: Tìm đội vô địch.
- Tiền Việt Nam.
+ Trò chơi: Đi siêu thị.
Đây là các trò chơi theo các dạng bài và chỉ mang tính chất minh họa.
Trong quá trình dạy học, tùy vào từng bài dạy cụ thể mà giáo viên có thể thay
đổi dữ liệu đề phát triển các trò chơi này thành các trò chơi mới hay hơn, phù

hợp hơn với mạch kiến thức cần cung cấp.
Biện pháp 2: Nắm vững cách thức xây dựng và thiết kế trò chơi học
tập.
2.1: Giáo viên nắm vững cách xây dựng và thiết kế trò chơi:
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các qui tắc gắn với
kiến thức, kĩ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học,
giúp các em khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân, thông qua các trò chơi học
sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào các tình huống của trò chơi. Do
đó, học sinh được thực hành luyện tập các kĩ năng môn Toán được đưa vào trò
chơi.
Để các trò chơi góp phần mang hiệu quả cao trong giờ học, khi xây dựng
và thiết kế trò chơi tôi phải chú trọng đến các yếu tố sau:
- Phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học.
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
- Trò chơi phải phù hợp với tâm lý học sinh lớp 3, phù hợp với khả năng
người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
- Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh.
Ví dụ: Tiết: Bảng chia 7.
Sử dụng trò chơi: Ong đi tìm nhụy.
Mục tiêu: Giúp học sinh thuộc bảng chia 7 và rèn tính tập thể.
Chuẩn bị :
+ 2 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số như
sau, mặt sau gắn nam châm.
5

7

8
9

4

+ 10 chú Ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm
35 : 7

42 : 7

63 : 7

+ Phấn màu
49 : 7
56 : 7
Cách chơi:
+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em
+ Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng một bông hoa và 5 chú ong,
ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi.
“ Có 1 bông hoa, trên những cánh hoa là các kết quả của phép tính, còn
những chú Ong thì chở các phép tính đi tìm kết quả của mình. Nhưng các chú
7


Ong không biết phải tìm như thế nào, các chú muốn nhờ các con giúp, các con
có giúp được không ?”
- 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh "bắt đầu" thì lần lượt từng bạn
lên nối các phép tính với các số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu
tiên, trao phấn cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép
tính. Trong vòng 1 phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng.
* Lưu ý : Sau khi học sinh chơi xong, giáo viên kiểm tra hỏi thêm một số
câu hỏi sau để khắc sâu bài học :
+ Tại sao chú Ong 42 : 7 không tìm được đường về nhà ? (Vì trên cánh

hoa không có kết quả của phép tính 42:7.
+ Phép tính " 42 : 7 " có kết quả bằng bao nhiêu ? (6)
+ Muốn chú Ong này tìm được đường về thì phải thay đổi số trên cánh hoa
như thế nào ? (Thay số 4 trên cánh hoa bằng số 6)
Kết quả: - Sau khi chơi trò chơi này học sinh nhớ được bảng chia 7. Hỏi
đến phép tính nào trong bảng chia 7 là học sinh nêu được kết quả chứa không
phải thuộc vẹt.
- Trò chơi này có thể áp dụng cho các tiết học về bảng nhân, bảng chia.

Hình ảnh học sinh đang thể hiện trò chơi: Ong đi tìm nhụy
2.2: Giáo viên nắm vững cấu trúc của Trò chơi học tập:
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các qui tắc gắn với
kiến thức, kĩ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học,
giúp các em khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân, thông qua các trò chơi học
sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào các tình huống của trò chơi. Do
đó, học sinh được thực hành luyện tập các kĩ năng môn Toán được đưa vào trò
chơi.
8


Để các trò chơi góp phần mang hiệu quả cao trong giờ học, khi xây dựng
và thiết kế trò chơi tôi thường tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học.
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
- Trò chơi phải phù hợp với tâm lý học sinh lớp 3, phù hợp với khả năng
người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
- Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh.
Thông thường cấu trúc của một trò chơi học tập Toán lớp 2 tôi đã thiết kế
như sau:

- Tên trò chơi:
- Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến
thức, kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ qui định hoạt động chơi được thiết
kế trong trò chơi.
- Đồ dùng đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi
học tập.
- Nêu luật chơi: Chỉ rõ nguyên tắc của hoạt động chơi qui định đối Với
người chơi, qui định thắng thua của trò chơi.
- Số người tham gia: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.
- Nêu cách chơi: Để người chơi nắm và thực hiện tốt.
- Cách tổ chức trò chơi : (Thời gian tiến hành từ 5 – 7 phút)
Bước 1: Giới thiệu trò chơi.
+ Nêu tên trò chơi.
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ quy
định chơi.
Bước 2: Chơi thử
+ Thông qua chơi thử để nhấn mạnh luật chơi.
Bước 3: Chơi thật
Bước 4: Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể
nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
Bước 5: Thưởng - phạt : Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi
chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của
học sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản,
vui (như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò,...)
Ví dụ: Tiết: Tiền Việt Nam
Sử dụng trò chơi: Đi siêu thị.
Mục tiêu: Trò chơi này củng cố cho học sinh nhận biết và sử dụng một số
loại giấy bạc trong phạm vi 100.000 đồng (1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng,
10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng), rèn kỹ năng cộng, trừ
các số có đơn vị "đồng" và thực hành trả tiền và nhận lại tiền thừa trong khi

mua và bán.
Chuẩn bị:
+ 1 số tờ giấy bạc loại 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng,
10.000 đồng)
+ 1 số đồ vật : bảng, bút, giấy kiểm tra, hồ dán, cặp tóc, tranh , tẩy,....
9


+ 1 số tờ bìa ghi giá 1.000 đồng; 3.000 đồng; 6.000 đồng; 7.000 dồng;
55.000 đồng; 15.000 đồng.
+ Tất cả bày lên bàn giáo viên
Cách chơi :
+ Gọi 2 em chơi : - 1 em đúng người bán hàng
- 1 em đúng người mua hàng
+ Phát tiền cho cả 2 em
+ Người mua hàng có thể mua bất kỳ mặt hàng nào ( có thể mua một số sản
phẩm) và trả tiền theo đúng giá ghi trên sản phẩm. Người mua và người bán
hàng sẽ phải suy nghĩ đưa bao nhiêu tiền và trả lại bao nhiêu tiền.
Ví dụ : Mua bảng giá 1.500 đồng
Người mua đưa : 2.000 đồng
Người bán phải suy nghĩ và trả lại : 500 đồng
- Sau mỗi 1 lần chơi 2 em đóng vai mua bán xong thì cho các bạn nhận xét,
nếu đúng thì được chơi lần 2 và được thưởng một vài nhãn vở. Nếu sai thì về
chỗ để bạn khác lên chơi.
* Tổng kết : Khen những em nghĩ ra cách trả tiền để người bán phải suy
nghĩ trả lại khó và em biết tính để trả lại cho đúng là những "nhà kinh doanh
giỏi".
Trò chơi này áp dụng trong bài : Tiền Việt Nam - Tiết 125)

Hình ảnh học sinh đang thể hiện trò chơi: Đi siêu thị

10


2.3: Giáo viên phân tích cách tổ chức trò chơi :
Trò chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Có thể nói nó
quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống của các em. Chính vì vậy các em
luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để được vui chơi.
Khi chơi các em rất chủ động và tự giác, mặt khác các em biểu lộ tình cảm rất rõ
ràng như: Vui mừng khi giành chiến thắng, buồn bã khi thất bại. Vui mừng khi
thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân các em thấy có lỗi khi không làm
tốt nhiệm vụ của mình. Vì tập thể mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu hết
khả năng để mang lại chiến thắng cho tổ, cho nhóm của mình. Trò chơi trong
môn Toán lớp 3 không những giúp các em củng cố kiến thức mà còn tạo cho các
em không khí thoải mái sau khi học xong bài, rèn tính nhanh nhẹn, hoạt bát, cởi
mở và tự tin khi giao tiếp. Đây chính là đặc tính rất cao của trò chơi trong môn
Toán.
Vì vây, khi tổ chức trò chơi, tôi không bao giờ đòi hỏi quá cao ở nội dung
trò chơi mà chỉ cần trò chơi mang được một nội dung hoặc một kỹ năng cơ bản
của bài học là được.
Khi tổ chức các trò chơi phải sắp xếp các tình huống chơi sao cho tất cả
mọi học sinh của nhóm (hoặc lớp) đều được tham gia.
Ví dụ: Trò chơi: Rồng cuốn lên mây
Mục đích :
- Kiểm tra kỹ năng tính nhẩm của học sinh. Ví dụ: củng cố các bảng nhân,
chia...
- Chuẩn bị :
- Một tờ giấy viết sẵn các phép tính nhân, chia trong các bảng nhân chia các
em đã được học
- Cách chơi : Một em được chủ định làm đầu rồng lên bảng
+ Em cất tiếng hát :

" Rồng cuốn lên mây
Rồng cuốn lên mây
Ai mà tính giỏi về đây với mình"
+ Sau đó em hỏi :
"Người tính giỏi có nhà hay không ?"
- Một em học sinh bất kỳ trả lời :
"Có tôi ! Có tôi !"
- Em làm đầu rồng ra phép tính đó, ví dụ : " 6 × 5 bằng bao nhiêu ?"
- Em tính giỏi trả lời (nếu trả lời đúng thì được đi tiếp theo em đầu rồng).
Cứ như thế em làm đầu rồng cứ ra câu hỏi và cuốn đàn lên mây.
Lưu ý : Ở trò chơi này nên chọn em làm đầu rồng (là em Trưởng trò) phải
nhanh nhẹn, hoạt bát.
Biện pháp 3: Thiết kế, xây dựng một số trò chơi học tập theo từng
dạng bài :
Qua thực tế giảng dạy ở các năm học trước, tôi nhận thấy việc áp dụng các
trò chơi vào tiết dạy học thực tế chỉ là hình thức, hoặc ở các tiết thao giảng giáo
viên mới tổ chức cho học sinh thực hiện một số trò chơi. Chính vì vậy khi học
sinh được thực hiện các trò chơi học sinh e ngại, chưa mạnh dạn, tự tin khi thực
11


hiện. Do đó quá trình diễn ra trò chơi thường tẻ nhạt, đơn điệu nên chưa mang
lại hiệu quả trong học Toán.
Sau thời gian nghiên cứu tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp về phương pháp
giảng dạy kết hợp với việc giảng dạy trên lớp, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, bản thân giáo viên phải xác định đây là một phương pháp có
nhiều hiệu quả cao đối với việc tạo sự kích thích và tạo sự hưng phấn tham gia
vào việc học Toán, do vậy giáo viên cần phải duy trì thường xuyên đối với mỗi
giờ giảng lên lớp.
Thứ hai, giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ và kỹ nội dung, hình thức và cách

tổ chức trò chơi kèm theo các dụng cụ cần thiết và biết dự đoán trước mọi tình
huống có thể xảy ra để không bị bất ngờ và có khả năng tùy cơ ứng biến. Giáo
viên cần tạo một ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho học sinh. Ấn tượng ban đầu tốt
(hòa nhã, thân thiện,...) sẽ giúp giáo viên dễ thành công trong các tiết dạy tiếp
theo.
Thứ ba, phải biết làm chủ thời gian, kiểm soát được tiến trình hoạt động,
nếu không trò chơi sẽ phản tác dụng.
Thư tư, trò chơi được chọn tốt, phù hợp với lứa tuổi, tâm lí của học sinh,
phù hợp với nội dung giảng dạy sẽ gây nhận thức khó quên nơi học sinh. Quan
trọng là giáo viên phải nắm rõ ý nghĩa và mục tiêu của trò chơi để khai thác hết
các khía cạnh của nó, như vậy hiệu quả sẽ rất lớn. Trong lớp sẽ có học sinh chưa
quen với các trò chơi học tập, giáo viên cần giúp đỡ và từ từ đưa học sinh vào
cuộc. Với những học sinh cảm thấy còn e ngại lúc đầu, giáo viên kiên nhẫn hỗ
trợ thì học sinh sẽ tham gia rất tốt và hoàn thành vai trò của học sinh. Qua đó,
giáo viên có thể giúp học sinh sự tự tin và tăng động cơ học tập.
Thứ năm, trò chơi học tập là rất cần thiết để tạo bầu không khí thân thiện,
nhờ đó mà học sinh dễ dàng lĩnh hội, củng cố kiến thức và nhớ kiến thức một
cách chủ động nhất.
Chính vì thể tôi đã lựa chọn một số trò chơi để vận dụng vào dạy Toán lớp
3A ở trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn như sau:
3.1: Các trò chơi củng cố nội dung đọc, viết , cấu tạo, cộng trừ, so sánh
số đến 100000
Trò chơi 1: Xếp hàng thứ tự
Mục tiêu: Trò chơi này giúp học sinh củng cố cách so sánh và sắp xếp các
số theo thứ tự từ bé đến lớn và ngược lại .
Thời gian chơi : 3 đến 5 phút
Chuẩn bị:
Giáo viên: 2 lá cờ hiệu (Cờ giấy nhỏ, 2 lá cờ màu khác nhau)
Học sinh – mỗi đội 5 mảnh bìa ( Có kích thước 10 x 15 cm) trong mỗi
mảnh bìa có ghi các số .

Ví dụ : Tiết 1: Đọc, viết và so sánh các số có 3 chữ số bài tập số 5.
Khi tổ chức trò chơi giáo viên có thể chuẩn bị nội dung ghi trong bìa : 537;
162; 573; 830; 241; 519; 425.
Chọn đội chơi: Mỗi đội 5 em; các em tự đặt tên cho đội mình (Ví dụ: tên
gọi tương ứng với màu sắc của cờ hiệu như đội Xanh, đội Đỏ …)
12


Cách chơi: Hai đội trưởng lên nhận bìa của tổ và phát bìa cho mỗi bạn ở
đội mình. Giáo viên yêu cầu hai đội quan sát, tự so sánh các số vừa nhận trong
nhóm với nhau (trong 1, 2 phút )
Quy ước: Khi cô giáo hô hiệu lệnh và giơ 2 lá cờ trên 2 tay về hai phía
(sang ngang) yêu cầu các em nghe, giơ biển lên cao và xếp mỗi đội một hàng
ngang, bắt đầu từ cô giáo. Khi cô đưa 2 lá cờ song song về phía trước các em tập
hợp hàng dọc.
* Giáo viên bắt đầu hô các cách khác nhau như : “ Tập hợp theo thứ tự từ
bé đến lớn ” hoặc “ Tập hợp theo thứ tự từ lớn đến bé ” sau hai ba lần thi thay
đổi các biển giữa hai đội rồi tiếp tục chơi .
* Ban thư ký ghi kết quả . Mỗi lần xếp hàng đúng thứ tự, nhanh, không ồn
ào, xô lấn, làm lộn xộn, thưởng 5 bông hoa . Xếp chậm, không thẳng hàng, mất
trật tự trừ 2 bông hoa . Đội nào xếp sai không được hoa. Sau 5 phút kết thúc trò
chơi đội nào nhiều hoa sẽ thắng cuộc .
Trò chơi có thể sử dụng ở các tiết :
- So sánh các số trong phạm vi 10 000 ( Bài tập số 2 trang 101 ).
- So sánh các số trong phạm vi 100 000 (Bài tập số 4 trang 147 ).
+ Sau khi hoàn thành một chương. Với cách này sẽ giúp cho học sinh hệ
thống lại kiến thức một cách sinh động và hiệu quả.
Trò chơi 2: Kết bạn
Mục tiêu: Trò chơi này rèn luyện, củng cố kỹ năng tính nhẩm nhanh các
phép tính cộng, trừ hoặc nhân, chia (số tròn chục, tròn trăm) và luyện tác phong

nhanh nhẹn, tinh mắt .
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 18 tấm bìa hình chữ nhật kích thước 10 x
15 cm; có dây đeo. Mỗi tấm đều ghi một phép tính hoặc kết quả tương ứng .
Nội dung ghi trong tấm bìa ghi như sau :
300 + 400
500 + 40
100 +20+4
700
700 - 300

540 - 40

300+60+7

400

700 - 400

540 - 500

800+10+5

300

540

500

40


124

367
815
Thời gian: từ 3 đến 5 phút.
Cách chơi: Học sinh xung phong lên rút thẻ của mình, sau đó tất cả đội tập
hợp thành vòng tròn, các em đeo thẻ trước ngực, mỗi em tự quan sát số thẻ của
mình đứng trước và sau số thẻ của bạn nào trong nhóm mình. Tự tính nhẩm kết
quả hoặc phép tính tương ứng với kết quả hoặc phép tính ghi trên thẻ của mình.
* Yêu cầu cả đội nhảy lò cò, vừa hát vừa vỗ tay cùng cả lớp: “ nhảy lò cò
cho cái giò nó khoẻ, nhảy khe khẽ cho nó khoẻ cái chân ”. Khi giáo viên hô “
Tìm bạn ! tìm bạn ! ” các em phải nhanh chóng tìm và chạy về với bạn đeo thẻ
có kết quả hoặc phép tính tương ứng với thẻ của mình. Những ai tìm đúng, tìm
nhanh bạn mình nhất thì được thưởng 2 bông hoa. Bạn nào tìm sai thì phải tự
13


nhẩm lại để tìm đúng bạn mình. Sau một lượt giáo viên đổi thẻ lẫn lộn, sau đó
cho các em tiếp tục chơi hoặc nhóm khác chơi .
Trò chơi có thể áp dụng cho tiết :
- Luyện tập ( bài số 2 trang 103 sgk )
- Luyện tập (bài số 3 trang 148 sgk)
- Ôn tập bốn phép tính trong phạm vi 100 000 .
Kết quả:
- Rèn luyện, củng cố kỹ năng tính nhẩm nhanh các phép tính cộng, trừ hoặc
nhân, chia (số tròn chục, tròn trăm).
- Luyện tác phong nhanh nhẹn, tinh mắt.
- Tạo không khí học tập sôi nổi và các em gần gũi, tự tin khi giao tiếp.
3.2: Các trò chơi củng cố các bảng nhân, bảng chia
Trò chơi 1: Bác đưa thư

Mục tiêu: Tổ chức trò chơi này giúp học sinh thuộc lòng các bảng nhân,
bảng chia. Kết hợp với các thói quen này "cảm ơn” khi người khác giúp một
việc gì.
Chuẩn bị : + Một số thẻ, mỗi thẻ có ghi 1 số là kết quả của các phép nhân
hay là số bị chia của các bảng chia để làm số nhà.
Ví dụ : 8, 16, 24, 32, 40, .... 80…..
+ Một số phong bì có ghi phép nhân trong bảng nhân đang học.
* Ví dụ : 1 × 8, × 1, 2 × 8, 8 × 2, ...
+ Một tấm các đeo ở ngực ghi "Nhân viên bưu điện".
Cách chơi :
+ Gọi 1 số em lên bảng chơi, giáo viên phát cho mỗi em 1 thẻ để làm số
nhà. Một em đúng vai "Bác đưa thư" ngực đeo thẻ "Nhân viên bưu điện" tay
cầm tập phong bì.
+ Một số em đứng trên bảng, lần lượt từng em một nêu:
Bác đưa thư ơi
Cháu có thư không ?
Đưa giúp cháu với
Số nhà .............. 24
Khi đọc đến câu cuối cùng "số nhà .............. 24" thì đồng thời em đó giơ
số nhà 24 của mình lên cho cả lớp xem. Lúc này nhiệm vụ của "Bác đưa thư"
phải tính nhẩm cho nhanh để chọn đúng lá thư có ghi phép tính có kết quả là số
tương ứng giao cho chủ nhà (ở trường hợp này phải chọn phong bì "8 × 3" hoặc
"3 × 8" giao cho chủ nhà. Chủ nhà nhận thư và nói lời "cảm ơn". Cứ như vậy
các bạn chơi lại nói và "Bác đưa thư" lại tiếp tục đưa thư cho các nhà.
Nếu "Bác đưa thư" nhẩm sai, đưa không đúng địa chỉ nhận thư thì không
được đúng vai đưa thư nữa mà trở về chỗ để các bạn khác lên thay.
Nếu các lần thư đều đúng thì sau 3 lần được cô giáo tuyên dương và đổi
chỗ cho bạn khác chơi. Trò chơi này áp dụng dạy các bảng nhân, bảng chia.
Trò chơi 2: Giành cờ chiến thắng
Mục tiêu: Trò chơi này được sử dụng để củng cố khái niệm giảm đi một số

lần và gấp lên một số lần, bảng nhân, bảng chia, qua đó luyện cách xử lý linh
hoạt cho học sinh.
14


Chuẩn bị : Giáo viên chuẩn bị một số phiếu học tập, có thể có nội dung
như sau:
- Phiếu 1 :
Thêm 20
gấp 9 lần
Bớt 14
Gấp 5 lần
giảm 6 lần
- Phiếu 2 :
Gấp 4 lần

giảm 8 lần

Bớt 14

gấp 7 lần
thêm 4

- Phiếu 3 :
Gấp4 lần
Bớt 27

Giảm 6 lần

giảm 9 lần

gấp 3 lần

Cách chơi: Giáo viên phát cho mỗi bàn một phiếu. Em ngồi đầu dãy làm
phép tính đầu tiên rồi viết kết quả vào hình tròn sau đó chuyển ngay phiếu cho
bạn thứ 2 trong dãy để tính tiếp. Cứ như vậy cho đến học sinh cuối cùng của
dãy.
Nếu nhóm nào về đích trước ( làm nhanh và đúng nhất) thì thắng cuộc,
giành được cờ chiến thắng, nhận được phần thưởng là bút chì, thước kẻ, ....
Trong trường hợp các đội cùng làm xong một lúc thỡ đội nào có kết quả
đúng, trình bày đẹp, trật tự khi chơi sẽ thắng cuộc.
Trò chơi có thể sử dụng trong các tiết
Luyện tập (bài số 1 trang 38 SGK )
Luyện tập chung ( bài số 4 trang 77 SGK .)
Với việc tổ chức chuyển bài tập thành trò chơi trong giờ học, những giờ
học Toán tưởng chừng khô khan và căng thẳng nhưng tôi thấy học sinh của
mình rất hứng thú, say mê và yêu thích môn học hơn .
3.3: Các trò chơi củng cố về các đại lượng:
Trò chơi: Thi quay kim đồng hồ
Mục tiêu: Trò chơi này củng cố kỹ năng xem đồng hồ, củng cố nhận biết
các đơn vị thời gian (giờ phút) và rốn luyện tác phong nhanh nhẹn, tinh mắt, nhanh
tay.
Chuẩn bị : 4 mô hình đồng hồ
Cách chơi::
+ Chia lớp thành 4 đội (4 tổ theo lớp học)
+ Lần thứ nhất : Gọi 4 em lên bảng (4 em đại diện cho 4 đội), phát cho mỗi
em 1 mụ hình đồng hồ, chuẩn bị quay kim đồng hồ theo hiệu lệnh của giáo viên.
Khi nghe giáo viên hô to 1 giờ nào đó, 4 em này ngay lập tức phải quay kim đến
đúng giờ đó. Em nào quay chậm nhất hoặc sai lệch sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.
15



+ Lần thứ hai : Các đội lại thay người chơi khác
+ Cứ chơi như vậy 8 - 10 lần. Đội nào càng nhiều thành viên nhất đội đó là
đội thắng cuộc.
* Lưu ý : Để các em chơi nhanh, vui và thử phản ứng nhanh giáo viên cần
chuẩn bị sẵn 1 số giờ viết ra giấy (không phải nghĩ lâu) để khi hô cho nhanh
* Ví dụ : 7 giờ 5 phút, 11 giờ 50 phút, 9 giờ kém 10 phút, 4 giờ kém 5 phút,
8 giờ 7 phút, 12 giờ 34 phút, 4 giờ kém 13 phút...
Trò chơi này áp dụng cho các bài liên quan đến xem giờ ( Tiết 13, 14 Bài
xem đồng hồ - Thực hành xem đồng hồ)
Với trò chơi này, khi triển khai áp dụng vào tiết học, tôi thấy không khí lớp
học sôi động hẳn lên, học sinh ham học hơn và đặc biệt các em tỏ ra nhanh
nhẹn, linh hoạt và tự nhiên khi giao tiếp mua và bán.
3.4:Trò chơi củng cố về tính giá trị của biểu thức:
Trò chơi : Bác mặt nạ Thông thái
Mục tiêu: Trò chơi này giúp học sinh củng cố lại thứ tự thực hiện phép
tính trong biểu thức, rèn luyện kỹ năng quan sát, khả năng diễn đạt thành thạo,
tự tin
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 4 biển hình mặt nạ, một bên có hình mặt
cười một bên có hình mặt mếu, 4 bảng con. Chọn 3 đội chơi, mỗi đội chơi
khoảng 3 em. Chọn ban thư ký, ban giám khảo, các em còn lại là cổ động viên .
Cách chơi:
- Giáo viên lần lượt xuất hiện từng bảng con. Trên mỗi bảng con có ghi
cách thực hiện 1 biểu thức .
Ví dụ :
96 : 4 x 2
96 : 4 x 2
12 + 38 : 2
12 + 38 : 2
= 96 : 8

= 24 x 2
= 50 : 2
= 12 + 19
=
12
= 48
= 25
= 31
Mỗi lần giáo viên xuất hiện một bảng con, các đội quan sát nội dung.
Khi giáo viên có tín hiệu, nếu đội nào thấy thực hiện đúng thì giơ mặt cười nếu
thấy là thực hiện sai thì giơ mặt mếu. Giáo viên có thể nêu câu hỏi chất vấn
thêm để các em nhớ lại thứ tự thực hiện phép tính trong một biểu thức như: Vì
sao đội con cho là đúng ? Hoặc căn cứ vào đâu mà đội con cho là sai?
- Giáo viên cũng đưa ra đáp án bằng cách quay mặt nạ .
- Ban thư ký tổng hợp kết quả sau một cuộc chơi: Mỗi lần trả lời đúng,
quay mặt nạ đúng thỡ được 2 bông hoa, nếu quay mặt nạ đúng xong chưa trả lời
được cừu hỏi phụ của giáo viên thì bị trừ đi 1 bông hoa. Đội nào nhiều hoa nhất
đội đó sẽ thắng cuộc được thưởng bút chì hoặc vở viết .
Trò chơi được sử dụng ở các bài tính giá trị của biểu thức ( tiếp theo ) bài
số 2 trang 80, có thể sử dụng ở tiết luyện tập chung bài số 4 trang 83,….
3.5: Trò chơi củng cố về nội dung hình học:
Trò chơi : Ghép hình
Mục tiêu: Trò chơi này rèn kỹ năng nhận diện hình, ghép hình, đồng thời
phát triển năng lực tư duy, trí tưởng tượng , tính cẩn thận cho học sinh
Chuẩn bị : Giáo viên chuẩn bị một số hình tam giác vuông cân. Phát cho
mỗi nhóm 4 hình tam giác vuông.
16


Hình vẽ :


Cách chơi: Chơi thi đua giữa các nhóm. Khi giáo viên hô bắt đầu thì các
nhóm thi đua ghép hình như hình cho sẵn. Nhóm nào ghép đúng và xong trước
sẽ thắng cuộc.
Trò chơi này được sử dụng ở tiết
- Luyện tập ( bài số 4 trang 4 SGK )
- Luyện tập ( bài số 4 trang 11)
- Luyện tập ( bài số 5 trang 20 )
- Luyện tập ( bài số 4 trang 62,
- Bài số 4 trang 71)
- Tính giá trị của biểu thức (tiếp theo) ( bài số 4 trang 80 )
- Luyện tập ( bài số 4 trang 82 SGK)
- Luyện tập chung (Bài 5 trang 106)
- Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ( bài số 3 trang 128 SGK ).
3.6: Trò chơi rèn luyện kỹ năng giải Toán:
Trò chơi: Tìm đội vô địch
Mục tiêu: Sử dụng trò chơi này rèn luyện kỹ năng giải các bài toán có hai
phép tính đơn giản, các bài toán có liên quan đến việc rút về đơn vị .
Chuẩn bị: Giáo viên chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử ra 3 bạn đại diện lên
chơi. Các bạn còn lại làm cổ động viên.
Cô viết sẵn tóm tắt lên giấy kẻ ô ly gồm đủ 2 dạng. Phô tô làm 2 bản cho
mỗi đội, đặt úp xuống theo hàng ngang (để học sinh không nhìn thấy bài trước
khi tính giờ )
Đề 1 :
4385 m
Đội 1
87 m
Đội 2
?m
Đề 2


5565 kg gạo
Xe thứ nhất
Xe thứ hai

1965 kg

? kg gạo
17


Cách chơi: Khi cô giáo hô: (5 phút bắt đầu ) thì tất cả 2 học sinh của 2 đội
lật tờ giấy lên, đọc kỹ và giải quyết nhanh chóng yêu cầu đặt ra. Ai xong thì nộp
bài cho cô giáo rồi về chỗ ngồi, cô đánh dấu những bài nộp trước thời gian quy
định. Hết giờ, nếu bài của đội nào viết tiếp là phạm quy. Mỗi bài giải đúng
thưởng 5 bông hoa. Mỗi bài nộp trước thời gian, đúng thưởng them 1 bông hoa.
Đội nào có tổng nhiều hoa hơn là thắng cuộc .
Trò chơi được sử dụng trong tiết: Thực hành giải toán, ôn tập về giải toán
(tiếp theo ) trang 176 SGK ….

Hình ảnh học sinh rất thoải mái khi giành chiến thắng
2.4. HIỆU QUẢ:
Ngay từ đầu năm học 2016-2017, tôi đã áp dụng : “Các trò chơi học tập”
nêu trên vào việc giảng dạy môn Toán lớp 3A kết quả là:
Học sinh:
So với năm trước, tôi nhận thấy các em HS có hứng thú, say mê và ham
thích học môn Toán hơn. Sau mỗi bài học, học sinh nắm vững kiến thức, vận
dụng linh hoạt vào các bài học. Học sinh mạnh dạn trong giao tiếp. Học sinh sử
dụng thời gian chơi để cùng nhau ôn bài, tự tìm hiểu kiến thức qua các tài liệu
tham khảo.

Giáo viên:
- Nhờ việc biết đưa các trò chời vào trong công tác giảng dạy, nên các giờ
dạy Toán đã trở nên sôi nổi, tạo được hứng thú cho học sinh, các em hăng hái
xây dựng bài, tìm tòi và phát hiện kiến thức, điều đó là cho chất lượng giờ dạy
được nâng cao.
- Các tiết dạy Toán mà tôi thao giảng, kiến tập được đồng nghiệp đánh giá
cao, được đồng nghiệp học tập và nhân điển hình.
- GV và HS có sự phối hợp nhịp nhàng, giữa dạy học và học tập. Từ đó các
em hứng thú hơn và nắm bắt kiến thức một cách chắc chắn.
18


Kết quả khảo sát tại thời điểm tháng 4- 2017:
Kếtquả
Số HS
33

HS ham học
SL
%
32
96,9

HS chưa có hứng thú học
SL
%
1
3,1

Nhìn vào bảng số liệu trên chứng tỏ rằng, chất lượng giảng dạy phân Toán

của lớp tôi giảng dạy đã có chuyển biển tốt so với chất lượng đầu năm học, là do
tôi đã biết vận dụng hợp lý các trò chơi học tập trong giảng dạy môn Toán, đồng
thời tôi cũng đã biết vận dụng và phối hợp nhịp nhàng với các phương pháp và
hình thức dạy học khác.
3- KẾT LUẬN
3.1. Kết luận:
Trên đây là một phương pháp mà tôi đã áp dụng vào thực tế dạy học trên
lớp 3A và thu được kết quả khả quan. Một giờ dạy như trên không khó về kiến
thức song cái khó ở đây là cách tổ chức, thời gian chuẩn bị cho một giờ dạy. Qua
áp dụng phương pháp vào dạy học trong lớp hầu như em nào cũng tham gia, tự
giác xung phong, lớp học sôi nổi, học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Nay
kết quả chỉ là bước đầu song chưa phải là cách dạy hay nhất nhưng tôi cũng
mạnh dạn đưa ra trình bày để bạn bè đồng nghiệp tham khảo. Bên cạnh những
cái được thì không tránh những sai sót rất mong sự góp ý chân thành của bạn bè
đồng nghiệp, sự nhận xét bổ sung của tập thể hội đồng khoa học các cấp để sáng
kiến của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Qua việc nghiên cứu : “Nâng cao hiệu quả dạy – học Toán lớp 3A tại
Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn thông qua việc vận dụng một số trò chơi
học tập" tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
1. Giáo viên và học sinh cần xác định rõ mục đích của mỗi trò chơi trong
mỗi tiết học, từ đó có hướng đi đúng đắn cho việc làm tiếp theo của mình.
2. Giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo về đồ dùng học tập để phục vụ trò
chơi, đồ dùng cần đảm bảo tính khoa học, chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ em, giáo viên cần có sự chuẩn bị về không gian, thời gian, thời
điểm diễn ra trò chơi, không lạm dụng trò chơi biến cả tiết học thành tiết chơi
hoặc tổ chức quá nhiều trò chơi trong tiết học tạo cho học sinh sự thái quá; giáo
viên cần chuẩn bị về hình thức tổ chức, có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ,
dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện. Giáo viên cần xác
định về số lượng học sinh tham gia sao cho đủ cả các đối tượng đều được hoạt
động.

3. Biết vận dụng trò chơi học tập một cách hợp lí, tạo được hứng thú và
niềm say mê yêu thích môn học cho học sinh.
3.2. Kiến nghị, đề xuất.
Từ những kết luận trên, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
- Người giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung kiến thức yêu cầu của mỗi
bài dạy, từ đó lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh của lớp
mình. Phải có kiến thức chắc về kiến thức Toán học.
19


Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của ban giám hiệu, Tổ chuyên môn,
và của các đồng nghiệp để có được các phương pháp dạy Toán ngày càng hiệu
quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Sơn , ngày 15 /4/ 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi viết không lấy nội dung của
người khác.
NGƯỜI VIẾT

Mai Thị Huệ

20


MỤC LỤC
NỘI DUNG

1- MỞ ĐẦU

TRANG
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
a. Phương pháp nghiên cứu lí luận
2
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
2
c. Phương pháp thực nghiệm
2
2- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
2.1. Cơ sở lí luận
2
2.2. Thực trạng của việc dạy - học toán trong trường tiểu học
3
2.3. Một số giải pháp
4
Biện pháp1:Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình để lựa chọn trò
5
chơi phù hợp theo dạng bài.
Biện pháp 2: Nắm vững cách xây dựng và thiết kế trò chơi học tập

7
Biện pháp 3: Thiết kế, xây dựng một số trò chơi học tập theo từng
11
dạng bài.
2.4. Hiệu quả
18
3- KẾT LUẬN
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Kiến nghị - đề xuất
19

21


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY - HỌC TOÁN LỚP 3A
TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN NGA SƠN - THANH HÓA
THÔNG QUA VIỆC VẬN DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI HỌC TẬP

Người thực hiện
: Mai Thị Huệ
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác

: Trường Tiểu học Thị Trấn
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Toán

`

THANH HOÁ NĂM 2017

22


DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP PHÒNG GD VÀ ĐT, CẤP SỞ GD VÀ ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP
LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Huệ
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn

TT

1
2

3

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 3 giải toán liên quan đến rút
về đơn vị
Sử dụng một số trò chơi có hiệu

quả trong dạy học Địa lý lớp 5
Nâng cao hiệu quả dạy - học toán
lớp 3A tại trường tiểu học Thị
Trấn Nga Sơn - Thanh Hóa thông
qua việc vận dụng một số trò
chơi học tập

Cấp đánh giá
xếp loại
( phòng, sở,
tỉnh)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Phòng giáo dục
huyện Nga Sơn

B

2011 - 2012

Sở Giáo dục &
Đào tạo tỉnh

Thanh Hóa

C

2012 - 2013

Phòng giáo dục
huyện Nga Sơn

A

2016 - 2017

23



×