Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Dạy học nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn Hóa học ở trường trung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.17 KB, 13 trang )

I. Đặt vấn đề.
Trong báo cáo chính trị của đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X đã
khẳng định: “ Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học….”.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước chúng ta
đang tiến hành một cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực với mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới đó, đổi mới
giáo dục là một trong những vấn đề trọng tâm của sự đổi mới.
Sự đổi mới của giáo dục nhằm tạo ra những con người toàn diện có phẩm
chất đạo đức, có sức khỏe, có tri thức và năng động sáng tạo để đáp ứng nhu cầu
của xã hội hiện nay.
Từ thực tế dạy học ở trường trung học phổ thông Lê Lai- là một trường thuộc
huyện miền núi. Trường này có tỷ lệ học sinh yếu kém rất cao thậm chí có lớp
số học sinh này nhiều hơn số học sinh đạt yêu cầu. Trong đó môn hóa học là một
trong những môn có nhiều học sinh yếu kém. Theo khảo sát hàng năm của nhà
trường thì số lượng học sinh bỏ học đa phần là những học sinh yếu kém. Vì vậy
việc tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp giúp đỡ những đối tượng học
sinh này để các em đạt yêu cầu và có kết quả cao hơn trong học tập nói chung và
môn hóa học nói riêng là một việc làm rất cần thiết.
Là một giáo viên dạy môn hóa học ở trường trung học phổ thông Lê Lai, tôi
luôn trăn trở về vấn đề này. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài để triển khai trong
suốt năm học vừa qua và còn được áp dụng trong những năm học tới nhằm góp
phần nâng cao chất lượng bộ môn và cũng là góp phần nâng cao chất lượng
chung cho nhà trường.
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận
Giải pháp phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn có mục đích
nhằm giúp cho học sinh xác định nội dung kiến thức đã tìm hiểu một cách chính


xác mà trong giờ học vì một lí do nào đó học sinh chưa nắm bắt được. Học sinh
khi đã tiếp thu, vận dụng được kiến thức bài học sẽ hình thành sự hứng thú, say
mê với môn học từ đó xác định cho mình kế hoạch học tập, phương pháp tự học,
tự nghiên cứu, có tính độc lập cao trong tư duy nhận thức sẽ thúc đẩy học sinh
học tập tiến bộ …Trên cơ sở đó giáo viên đề xuất thêm một số kiến nghị sư
phạm nhằm thực hiện tốt hơn nữa nội dung giáo dục toàn diện học sinh và
hướng nghiệp cho học sinh .
Phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém là giáo viên phải bổ sung được
những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức có trong
sách giáo khoa Hoá học) để giải quyết, để giành lại kiến thức mà các em chưa
lĩnh hội hết trong tiết dạy chính trên lớp. Từ đó học sinh có thể hòa nhập theo
kịp với các bạn trong tiết học đang diễn ra trên lớp .
1
Muốn làm tốt hoạt động này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính
xác và đánh giá được mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết
dạy để chuẩn bị lên kế hoạch phụ đạo, thiết kế nội dụng tiết phụ đạo sao cho có
hiệu quả nhất, muốn vậy thì cần phải biết rõ căn cứ, hiểu và kết hợp giải quyết
được các vấn đề sau:
- Tìm hiểu tại sao học sinh sợ, chán, học yếu kém học môn Hoá học và tìm
cách giải tỏa tâm lí này ở một số em.
- Hướng dẫn học sinh tự đánh giá hiểu biết của bản thân về môn học và tự
rèn luyện ý thức học tập.
- Giáo viên xác định được khối lượng kiến thức đối với từng bài học cụ thể
cho đối tượng học sinh yếu kém, để đề ra nội dung, hình thức và phương pháp
dạy thích hợp nhất.
Như vậy cần ở học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy nghĩ và hành
động, tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ, cân nhắc kĩ lưỡng những
thông tin nhận được để “vá lại lỗ hổng kiến thức” và phản hồi lại kiến thức một
cách chính xác, khoa học nhất. Muốn vậy giáo viên là người rất quan trọng cần
phải có các hướng dẫn cụ thể để giúp học sinh .

Bên cạnh việc bồi dưỡng học sinh khá giỏi thì việc Phụ đạo cho học sinh
yếu kém là một hoạt động bình thường và không thể thiếu được trong bất kỳ
trường THPT nào. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người
thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn bè
có thể nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản
thân. Trong đơn vị trường học việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh
yếu kém là việc làm thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua
hoặc để đối phó với một đợt thi hoặc kiểm tra.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được trình bày một số nguyên nhân
ảnh hưởng đến chất lượng dạy học còn yếu kém và một số biện pháp để nâng
cao chất lượng dạy học môn Hoá học ở trường THPT hiện nay.
2. Nghiên cứu thực trạng.
2.1. Đặc điểm tình hình nhà trường
a. Thuận lợi
- Nhà trường có đủ số lượng giáo viên : 100% đạt chuẩn trở lên, trong đó
có 15% đạt trên chuẩn.
- Đa phần giáo viên còn rất trẻ, nhiệt tình, tâm huyết, năng động, luôn
quan tâm giúp đỡ học sinh.
- Tập thể sư phạm đồng thuận, tạo được bầu không khí đoàn kết, yêu
thương giúp đỡ nhau, đây là một sức mạnh tổng hợp giúp tập thể giáo viên trong
trường yên tâm công tác và càng bám trường bám lớp.
- Nhà trường nhận được sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền địa phương
và một bộ phận phụ huynh học sinh.
Đặc thù môn học gần gũi, có thể vận dụng giải thích các vấn đề trong thực
tế cuộc sống.
b. Khó khăn.
2
Trường nằm trong địa bàn của một huyện miền núi, mặc dù có đường Hồ
Chí Minh đi qua nhưng kinh tế của địa phương chậm phát triển. 100% là nông
nghiệp. Trình độ dân trí thấp. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học

tập của con em họ.
- Chất lượng đầu vào của học sinh thấp, Những năm gần đây số lượng học
sinh không đủ chỉ tiêu.
- Việc giáo dục hạnh kiểm học sinh gặp nhiều khó khăn do thiếu sự quan
tâm, phối hợp của gia đình học sinh, mặt khác công tác này cũng chịu nhiều ảnh
hưởng từ bên ngoài xã hội.
2.2 Xác định đối tượng học sinh yếu kém.
Căn cứ 1: Điểm bộ môn hóa học của năm học, tham khảo thêm một số
môn có liên quan như toán hay lý.
Căn cứ 2: Điểm khảo sát chất lượng đầu năm học.
Căn cứ 3: Không thể dựa hoàn toàn vào điểm bộ môn của năm học qua
mà phải kết hợp với những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con điểm
hiện tại như điểm miệng, 15 phút hay một tiết
2.3. Phân loại học sinh yếu kém môn Hoá học
Căn cứ vào những khía cạnh trên, đặc biệt là những biểu hiện của quá trình
học tập trên lớp. Học sinh yếu kém môn Hoá học có thể chia thành những nhóm
sau:
Nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung nhưng có khả năng tiếp thu bài.
Nhóm 2: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học.
2.4. Nguyên nhân chất lượng học tập của học sinh yếu kém môn hóa
học ở trường THPT LÊ LAI.
2.4.1. Về Phía học sinh
Học sinh là người học, người lĩnh hội các tri thức thì nguyên nhân học
sinh yếu kém có thể kể đến là do cá nhân học sinh trong đó có thể đến những
nguyên nhân sau:
- Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy đa phần học sinh yếu
kém là học sinh cá biệt. Đó là những học sinh không chuyên tâm vào việc học
thể hiện như: vào lớp thì không chú ý nghe giảng, thậm chí không ghi bài về nhà
thì không xem lại bài, không chuẩn bị bài, hay vắng học vô lý do…
- Có một bộ phận không ít học sinh thì không xác định được mục đích của việc

học mà coi đi học là để đi chơi, đến lớp để nói chuyện , chọc phá bạn bè, hay
xin ra ngoài, hay bỏ giờ để đi chơi game hay đi la cà ngoài quán.
- Đa phần học sinh chưa có phương pháp học tập hiệu quả mà còn học một cách
thụ động không chịu tự tìm tòi suy nghĩ mà chỉ đợi lên lớp nghe giáo viên giảng
sau đó chép lại rồi về nhà học vẹt đôi khi không hiểu gì về bản chất.
- Học sinh không có thời gian cho việc tự học: là một vùng nông thôn nghèo đa
số người dân sống bằng nghề trồng mía , sắn, rồi đi làm thuê … Đời sống kinh
tế khó khăn không có điều kiện để chăm lo việc học hành cho con cái. Một số
gia đình thì cả bố mẹ đi làm ăn xa con để cho ông bà nên không quản lý được
việc đến trường của con. Mặt khác là một trường miền núi học sinh của trường
3
thuộc 10 xã lân cận trong đó có nhiều xã thuộc vùng 135 hoặc vùng cao vùng xa
như Vân Am Phúc Thịnh, Nguyệt Ấn, Phùng Giáo các em đi học xa đường đi
lại khó khăn nên nhiều khi các em đi học về đến nhà là mệt rồi nên chỉ lăn ra
ngủ mà không học bài cũ được.
- Học sinh bị hỏng kiến thức từ lớp dưới: đây là một thực tế không thể phủ nhận
được đặc biệt là với môn hóa học.Ở cấp 2 các em được học từ lớp 8 đây là một
môn học mới với nhiều khái niệm trìu tượng mơ hồ yêu cầu học sinh phải nhớ
nhiều nên khi len cấp 3 các em còn chưa quen với môn học này vì vậy bị hỗng
kiến thức nhiều. Kiến thức cũ không nhớ dẫn đến tiếp thu kiến thức mới gặp
nhiều khó khăn Vì vậy đã yếu lại càng yếu.
2.4.2. Về phía giáo viên:
Học sinh học yếu không phải nguyên nhân hoàn toàn là ở học sinh mà
một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên.Thầy hay thì trò mới giỏi.
Ngày nay để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi người giáo
viên phải không ngưng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy
nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp loại
giỏi thì sẽ giảng dạy giỏi mà ở đây đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn
phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng
nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác tôi thấy vẫn còn một bộ phận giáo

viên chưa thật sự tâm huyết với nghề, chưa chú ý quan tâm đến từng đối tượng
học sinh chưa tìm tòi phương pháp dạy học mới để kích thích tính tích cực tự
giác chủ động của học sinh. Một bộ phận giáo viên chỉ quan tâm đến đối tượng
học sinh khá giỏi mà quên mất đối tượng học sinh yếu kém Hay là có quan tâm
đến học sinh yếu kém nhưng chưa kiên trì nhẫn nại nên việc nâng cao chất
lượng học sinh yếu kém còn hạn chế.
2.4.3. Về phía cha mẹ học sinh:
Chất lượng học tập của học sinh, thái độ học tập cúa học sinh, tỷ lệ học
sinh đi học chuyên cần thấp cho thấy nhận thức và thái độ của phụ huynh trong
việc hợp tác với nhà trường là chưa cao. Qua đó cho thấy một bộ phận pụ huynh
chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác
cho nhà trường, cho thầy cô.
- Việc phụ huynh đi làm ăn xa lâu lâu mới về nên việc phối hợp giáo dục là
rất hạn chế, một số gia đình không hạnh phúc cũng ảnh hưởng đến việc học tập
của học sinh.
- Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm cũng
làm cho học sinh không chú tâm vào việc học.
- Một số gia đình quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng ở chúng nên học sinh
lười học xin nghỉ làm việc riêng như đi chơi hay đi du lịch … cha mẹ cũng đồng
ý cho phép nghỉ học như vậy vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười
học, mất dần căn bản…dần trở nên yếu kém.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém mà bản
thân tôi nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những nguyên
4
nhân đó, bản thân tôi đưa ra một số biện pháp để phụ đạo học sinh yếu kém như
sau:
3. Một số biện pháp dạy học sinh yếu kém
3.1. Biện pháp chung
3.1.1 Giáo viên phân loại đối tượng học sinh.
Qua kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm và một số tiết dạy đầu năm giáo

viên phải dần nhanh chóng phân loại học sinh yếu kém đâu là học sinh mất căn
bản kiến thức, đâu là những học sinh lười học từ đó đưa ra biện pháp giảng dạy
phù hợp.
Trong quá trình thiết kế bài dạy giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra
nhằm giúp các đối tượng yếu kém này được củng cố và luyện tập. Dành cho
những đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện
cho các em tham gia trình bày trước lớp từng bước giúp các em tự tin hơn và tìm
được vị trí của mình trong tập thể.
Ngoài ra giáo viên có thể tổ chức dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém từ 1
đến 2 buổi trên tuần nhưng phải được sự đồng ý của nhà trường.
3.1.2 Xây dựng môi trường học tập thân thiện
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu
quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi,
cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập,
trong cuộc sống của bản thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng,
không mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh
cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi
tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm
những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
3.1.3 Giáo dục ý thức học tập cho học sinh
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự
hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong
mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy
được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em
sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn
cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ
chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý

thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học.
Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh.
Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp
đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích
để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm
của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
3.2. Biện pháp cụ thể
5
Qua nhiều năm dạy học sinh yếu kém tôi nhận thấy để nâng cao chất
lượng học sinh yếu kém thì vấn đề quan trọng được đặt lên hàng đầu là chất
lượng giờ dạy của người giáo viên . Qua giờ dạy giáo viên tạo được môi trường
học tập thân thiện, và giáo dục ý thức học tập cho học sinh. Người giáo viên là
một diễn viên vừa là đạo diễn và phải diễn làm sao để lôi cuốn được sự chú ý
của học sinh, gây nên hứng thú học tập từ đó giúp các em tiếp thu bài học tốt
hơn. Để có giờ dạy đạt chất lượng thì trong những tiết dạy của mình người giáo
viên cần thể hiện được những yêu cầu sau:
Một là: Ngôn ngữ giảng dạy phải chuẩn xác, trong sáng, sinh động, ngắn gọn
dễ hiểu tránh dài dòng. Các ví dụ phải gần gũi với cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Sự biến đổi tuần hoàn tính chất của các nguyên tố hóa
học ( Hóa học lớp 10 cơ bản): phần I-Sự biến đổi tính kim loại tính phi kim. 1-
sự biến đổi tính chất trong một chu kì, 2- sự biến đổi tính chất trong một nhóm
A – Bằng phương pháp đặt vấn đề tôi đưa ra một số các kim loại hay gặp và sắp
xếp theo chiều của dãy hoạt động hóa học( đã được học từ lớp 9) từ đó cho học
sinh so sánh tính kim loại của những kim loại này và đưa ra quy luật biến đổi
tính kim loại trong một chu kỳ. Đối với học sinh yếu kém tôi dừng đến đây yêu
cầu các em học thuộc quy luật mà không giải thích như trong sách giáo khoa
( Vì với đối tượng này càng giải thích thì các em càng rối và dẫn tới không
hiểu). Sau đó đưa ra một số câu hỏi để các em vận dụng.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Tốc độ phản ứng( hóa học cơ bản 10) khi nói đến ảnh
hưởng của chất xúc tác- tôi lấy ví dụ rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày như là

cơm nguội sau khi ăn còn lại nếu để lâu ngày( vài ngày) thì tự lên men rồi bị
chua hay thiu. Nhưng cũng cơm đó ở nhà ta nấu rượu uống thì phải ủ men (cho
men vào) chỉ cần 6-8 tiếng là bị chua rồi ra rượu. Như vậy khi cho men
vào( chất xúc tác) thì phản ứng xảy ra nhanh hơn rất nhiều.
Hai là: Khi triển khai bài mới giáo viên giúp học sinh xác định được kiến
thức cần nắm của từng bài hay từng phần đó là những kiến thức trọng tâm, cơ
bản nhất của bài học bằng hai cách.
+ Giáo viên tóm tắt những kiến thức cần đạt được bằng những câu hỏi được
ghi trên góc bảng trước khi học bài mới và sau khi học song thì yêu cầu học sinh
trả lời những câu hỏi đó. Ví dụ: khi dạy phần I- bài Phản ứng oxi hóa – khử, sau
khi ghi tiêu đề I thì giáo viên ghi câu hỏi lên góc bảng như sau: 1, thế nào là
phản ứng oxi hóa- khử( dấu hiệu nhận biết phản ứng oxi hóa – khử)? Lấy 1 ví dụ
minh họa.2, Thế nào là chất khử, chất oxi hóa ( dấu hiệu xác định)? Lấy ví dụ. 3,
Thế nào là quá trình oxi hóa, quá trình khử? Lấy ví dụ?
+ Giáo viên đưa câu hỏi dạng củng cố bài sau khi học song mỗi phần để học
sinh trả lời. Ví dụ: Khi dạy song phần II bài Phản ứng oxi hóa – khử( Hóa học
10) thì đưa câu hỏi như sau: có mấy bước cân bằng một phản ứng oxi hóa –
khử? Nêu các bước và ví dụ cân bằng phản ứng FeO + H
2

Fe + H
2
O. Hay khi
dạy song bài Lưu huỳnh Giáo viên có thể chốt lại kiến thức trọng tâm băng
những câu hỏi sau: 1, Nêu vị trí của lưu huỳnh trong bảng tuần hoàn? cấu hình e
nguyên tử của lưu huỳnh. 2, Trong các hợp chất lưu huỳnh có số oxi hóa là bao
6
nhiêu? Lấy ví dụ?. 3, trong phản ứng hóa học lưu huỳnh thể hiện tính khử hay
tính oxi hóa? Lấy ví dụ?
Ba là: Trong bài dạy phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo

hương tích cực. Lấy học sinh làm trung tâm, yêu cầu các em hoạt động nhiều
hơn tạo hứng thú cho học sinh khi học môn hóa học bằng nhiều cách:
+ Vận dụng tối đa thiết bị hỗ trợ học tập như công nghệ thông tin hay làm các
bài thực hành, thí nghiệm và quan trọng là cho học sinh trực tiếp tham gia làm
thí nghiệm. Phần này tôi chú trọng quan tâm đến đối tượng học sinh thuộc nhóm
lười học cho các em tự làm thí nghiệm để tạo hứng thú cho việc học tập. Ở
trường THPT Lê Lai chưa có phòng học bộ môn nên tôi thường rồn 2 tiết thực
hành làm 1 buổi cho học sinh đi làm và chia nhỏ lớp thành các nhóm và cho các
em cùng tiến hành thí nghiệm. Trong bài dạy lý thuyết tôi tích cực làm thí
nghiệm chứng minh hoặc đối chứng hoặc nghiên cứu để học sinh càng khắc sâu
kiến thức. Đặc biệt trong khi dạy phần nhận biết như nhận biết ion halogen,
nhận biết ion sunfat… tôi cho học sinh làm thí nghiệm chứng minh từ đó học
sinh tự rút ra phương pháp nhận biết.
+ Giao bài tập dạng thực nghiệm cho học sinh quan sát hoặc tự làm thí nghiệm
nghiên cứu. Sau đó,học sinh vận dụng những kiến thức đã học để giải thích hoặc
học sinh tự nghiên cứu sách giáo khoa để giải thích và rút ra kiến thức cần lĩnh
hội sau đó giáo viên kiểm tra .
Ví dụ: sau khi học bài nhôm và hợp chất của nhôm ( hóa học 12) tôi giao bài
tập cho 1 số đối tượng học sinh yếu kém như sau: về nhà chuẩn bị 2 miếng
nhôm( thanh nhôm hoặc đoạn dây nhôm), một ít nước vôi sau đó làm thí nghiệm
là cho một miếng nhôm vào nước vôi rồi để một ngày sau lấy ra quan sát so
sánh
bề mặt miếng nhôm này với miếng nhôm không đưa vào nước vôi trong có
giống nhau không? Giải thích và Viết phương trình hóa học? Tiết sau tôi kiểm
tra và tôi khuyến khích các em bằng cách cho điểm rất cao.
+ Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh bằng cách tự nghiên cứu sách giáo
khoa có thể nghiên cứu trước khi học bài mới hoặc nghiên cứu trong tiết học
trên lớp tùy theo nội dung của từng bài hay từng phần mà chọn phương pháp
dạy
học phù hợp .

Ví dụ: khi dạy bài cân bằng hóa học tôi cho học sinh tự nghiên cứu sách giáo
khoa và yêu cầu trả lời câu hỏi: thế nào là cân băng hóa học? tại sao nói cân
bằng hóa học là cân bằng động?. Phản ứng một chiều là gì? Phản ứng 2 chiều là
gì? Lấy ví dụ?
Bốn là: Vận dụng kiến thức hóa học giải thích một số hiện tượng thực tiễn
liên quan đến bài học.
+ Ví dụ sau khi học bài Clo thì cho học sinh giải thích hiện tượng nước máy có
mùi clo giải thích vấn đề này như sau: Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo và
nước có tác dụng sát trùng do Clo tan một phần (gây mùi) và phản ứng một phần
với nước:
7
Cl
2
+ H
2
O  HCl + HClO
Hợp chất HClO không bền có tính oxi hóa mạnh do Cl
+1
gây nênHClO có
khả năng diệt khuẩn, nên dùng để diệt khuẩn nước.
+ Giải thích hiện tượng vì sao nước biển lại mặn.
Đây cũng là một hiện tượngtự nhiên, có trong thực tế nhưng chưa chắc có nhiều
học sinh biết được. Ở đây tôi đưa câu hỏi này trong bài dạy clo nhằm kích thích
tính tò mò và ham học hỏi ở học sinh.
Giải thích như sau:
Các con sông, suối, các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại dương và
hòa tan mọi vật thể có thể hòa tan. Do quá trình bay hơi các nguyên tố, hợp chất
tích tụ trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, thông thường là các
muối, NaCl. Vị mặn của nước biển chủ yếu do muối natri clorua (NaCl) gây
nên.

+ Giải thích hiện tượng tại sao sau cơn mưa có sấm chớp thì bầu trời lại mát mẻ
và trong lành hơn.
Đối với bài ozon, rất đơn điệu nếu không liên hệ những vấn đề thực tế,
gần gũi mà dễ hiểu, giúp học sinh hiểu bài hơn, hứng thú với môn học hơn. Từ
đó nâng cao khả năng tự tiếp thu tri thức. Giải thích vấn đề này như sau:
Do trong không khí có 20% oxi (O
2
) nên khi có sấm chớp tạo điều kiện:
Tia lửa điện: 3O
2
 2O
3
Tạo ra một lượng nhỏ O
3
, O
3
có khả năng sát trùng
O
3
 O
2
+ O
Nên ngoài những hạt mưa cuốn theo bụi thì O
3
là tác nhân làm môi
trường sạch sẽ và cảm giác tươi mát.
Năm là: Đối với bài dạy lý thuyết có liên quan đến kiến thức cũ thì dành một
khoảng thời gian nhất định để nhắc lại kiến thức cũ hoặc trong quá trình dạy thì
lồng ghép để nhắc lại cho học sinh nhớ. Và đặc biệt quan tâm đến đối tượng học
sinh mất hẳn căn bản kiến thức. Thường xuyên kiểm tra hay cho các em lên

bảng viết phương trình hóa học hay làm bài tập tương tự dần dần giúp các em
lấp những lỗ hỗng kiến thức cũ và theo kịp bạn bè.
Sáu là: Đối với tiết bài tập: Bài tập giúp học sinh củng cố mở rộng, đào sâu
kiến thức, rèn luyện cho các em kỹ năng vận dụng kiến thức vào những trường
hợp cụ thể, nhờ đó mà kiến thức tiếp thu được vững chắc và mềm dẻo. Với đối
tượng học sinh yếu kém tôi cho các em làm các dạng bài tập thật đơn giản nhằm
giúp các em nắm được kiến thức cơ bản, cho các em làm đi làm lại nhiều lần
một dạng bài tập để học sinh yếu kém có thể hình thành được kỹ năng giải bài
tập.
Trong quá trình dạy học, tùy theo mục đích yêu cầu cần đạt theo chuẩn kiến
thức kỹ năng và dựa vào khả năng của học sinh để giáo viên lựa chọn phương
pháp phù hợp. Đối với tôi dạy ở trường THPT lê Lai đối tượng học sinh yếu
kém nhiều tôi đã thường xuyên thể hiện một cách nhịp nhàng những yêu cầu
trên trong một tiết học.
8
Bên cạnh đó tôi còn chú trọng kiểm tra bài cũ các em yếu kém. Đối với
những học sinh tiến bộ có học bài, làm bài, tôi động viên, khuyến khích tinh
thần của các em, khen ngợi các em trước lớp. Nghiêm túc phê bình những em
chưa tiến bộ, tôi cho học sinh thời hạn, sau thời hạn đó cho kiểm tra bài để học
sinh có thể sữa chữa những con điểm xấu, từ đó tạo tâm lí cho học sinh cảm thấy
có động lực học và thấy bản thân có khả năng học nên sẽ cố gắng hơn trong thời
gian tới. Mọi nhiệm vụ được giao cho các em cần được kiểm tra cụ thể, các sai
lầm mắc phải luôn được tôi phân tích và sữa chữa. Khuyến khích, động viên
đúng lúc khi các em đạt kết quả (dù khiêm tốn), đồng thời cũng phải phân tích,
phê phán đúng mức thái độ vô trách nhiệm hoặc lơ là đối với nhiệm vụ học tập
được giao.
Để đạt hiệu quả cao hơn tôi còn thường xuyên kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm, với phụ huynh học sinh cùng kiểm tra giám sát, chao đổi tình hình học
tập của các em từ đó có những điều chỉnh kịp thời cho phù hợp.
III. Hiệu quả đạt được

Trên đây là những biện pháp tôi đã áp dụng để dạy học sinh yếu kém
nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn hóa học ở trường THPT Lê
Lai. Tôi đã thực hiện trong suốt năm học 2012-1013 và đã có kết quả khả quan
thông qua điểm kiểm tra khảo sát đầu năm, điểm kiểm tra học kì I, điểm kiểm
tra học kì II, cụ thể những lớp tôi dạy như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm:
Lớp Sĩ
số
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
Sl % Sl % Sl % Sl % Sl %
10A6 50 0 0 10 20 35 70 5 10
10A7 48 0 1 2 15 31,2 26 54,2 6 12,6
Kết quả kiểm tra học kì I:
Lớp Sĩ
số
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
Sl % Sl % Sl % Sl % Sl %
10A6 50 0 1 2 25 50 21 42 3 6
10A7 48 0 4 8,3 27 56,3 15 31,3 2 4,1
Kết quả kiểm tra học kì II:
Lớp Sĩ
số
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
Sl % Sl % Sl % Sl % Sl %
10A6 50 0 5 10 30 60 14 28 1 2
10A7 48 0 7 14,6 32 66,7 8 16,7 1 2
IV. Kết luận và đề xuất
1. Kết luận
9
Trong quá trình thực hiện mặc dù tôi đã rất cố gắng, chất lượng học sinh

yếu kém đã giảm nhiều nhưng vẫn còn một số vướng mắc. Nếu giải quyết được
các vướng mắc này thì hiệu quả công việc còn cao hơn.
+ Trình độ học sinh trong một lớp học khác nhau nên phương pháp dạy học phù
hợp với mọi đối tượng học sinh gặp khó khăn.
+ Sĩ số lớp học quá đông nên giáo viên không thể quan tâm sát sao đến mọi đối
tượng học sinh được.
+ Số lượng học sinh yếu kém trong một lớp nhiều, thời gian học trên lớp chỉ có
2 tiết/ tuần không đủ thời gian để giảng dạy kĩ hơn, hay luyện tập kĩ hơn cho
đối tượng học sinh yếu kém được.
2. Đề xuất
Vấn đề nâng cao chất lượng học sinh yếu kém không phải chuyện một
sớm, một chiều mà là nhiệm vụ trọng tâm lâu dài xuyên suốt cả năm học. Cũng
không phải là nhiệm vụ của giáo viên bộ môn mà là của cả tập thể giáo viên, của
nhà trường và của toàn xã hội vì vậy tôi có một số đề xuất như sau:
+ Đối với giáo viên phải nhiệt tình, tận tâm, kiên trì, không nóng vội và cuối
cùng là phải có tình thương đối với học trò.
+ Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa giáo viên bộ môn- giáo viên chủ nhiệm
và gia đình.
+ Có sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường đó là tổ chức dạy học
phụ đạo cho học sinh yếu kém ngoài buổi học chính khóa, đầu năm phân hóa đối
tượng học sinh và xếp lớp học theo khả năng của học sinh( lớp chọn, lớp
thường). Sĩ số học sinh trên mỗi lớp dưới 40 em.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học giúp
đỡ học sinh yếu kém. Trong bài viết chắc không tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa và bổ sung. Tôi xin chân thành cảm
ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 5 tháng 6 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình

viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Trịnh Thị Êm
10
Tài liệu tham khảo
1, Sách giáo khoa hóa học 10 cơ bản- nhà xuất bản giáo dục. Nguyễn Xuân
Trường chủ biên.
2, Sách giáo khoa hóa học 11 cơ bản- nhà xuất bản giáo dục. Nguyễn Xuân
Trường chủ biên.
3, Sách giáo khoa hóa học 12 – nhà xuất bản giáo dục, Nguyễn Xuân Trường
chủ biên
11
MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề 1
II. Giải quyết vấn đề 1
1. Cơ sở lí luận 1
2. Nghiên cứu thực trạng 2
2.1 Đặc điểm tình hình nhà trường 2
2.2 Xác định đối tượng học sinh yếu kém. 3
2.3 Phân loại học sinh yếu kém 3
2.4 Nguyên nhân chất lượng học sinh yếu kém 3
3. Một số biện pháp dạy học sinh yếu kém 5
3.1 Biện pháp chung 5
3.2 Biện pháp cụ thể 5
III. Hiệu quả đạt được 9.
IV. Kết luận và đề xuất 9
1. Kết luận 9
2. Đề xuất 10
Tài liệu tham khảo 11
12

13

×