MỤC LỤC
NỘI DUNG
I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
TRANG
02
02
03
03
03
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
03
03
04
05
12
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghi
12
12
13
1
I.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế tri thức của thời đại, Nghi quyết Đại hội
Đảng lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ: " Nâng cao dân trí - Phát huy nguồn
nhân lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam". Bởi vậy giáo
dục luôn được xác đinh là " quốc sách hàng đầu", mà " giáo viên là nhân tố
quyết định chất lượng giáo dục đào tạo". ( Nghi quyết Hội nghi Trung ương 2 khóa VIII).
Với vai trò là cấp học nền tảng, giáo dục tiểu học phải " nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh học tiếp
trung học cơ sở".
Do đó, mục đích giúp học sinh có những kĩ năng, kiến thức đặc biệt là
kiến thức toán học có vi trí rất quan trọng, đó cũng là công cụ cần thiết cho các
môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động
có hiệu quả trong thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát
triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện
phương pháp suy nghĩa, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề
có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí
thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt... góp phần giáo dục ý chí nhẫn
nại, ý chí vượt khó khăn.
Từ vi trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề đặt ra cho
người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả cao, học sinh được
phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán
học. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào để truyền đạt kiến
thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học.
Theo tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vi trí
mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và
trong giờ dạy toán lớp 4 nói riêng. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến
toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động
nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học,
hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học. Mặt khác, sản phẩm của giáo dục
khác với sản phẩm của người thợ may, thợ mộc... sản phẩm của giáo dục là đào
tạo ra những con người biết sáng tạo. Vì vậy việc lựa chọn, sử dụng ưu thế của
từng PPDH sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng
lớp học, ở từng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động
sáng tạo của học sinh phải là một nghệ thuật. Trong giảng dạy, mỗi GV đều có
cách thức, biện pháp riêng của mình. Song đều phải đạt mục đích chung là tổ
chức hoạt động dạy học hiệu quả.
Xuất phát từ quan điểm chương trình mới cần thực hành, vận dụng nên
nói chung nội dung chương trình thường tinh giảm, tập trung vào các kiến thức
2
kỹ năng cơ bản bám sát thực tế, tích hợp được nhiều mặt giáo dục. Nhằm phát
huy những ưu điểm, kip thời khắc phục những hạn chế, để giúp học sinh lĩnh hội
được đầy đủ các kiến thức từ những phương pháp dạy học. Qua thực tế giảng
dạy, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm gì, làm như thế nào để HS tự chiếm lĩnh
kiến thức môn Toán một cách nhẹ nhàng, biến những ý nghĩ "học Toán thật là
khó" của các em thành hứng thú học Toán . Tôi Chính vì vậy, trong quá trình
dạy học, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu và rút ra được "Một số biện pháp dạy học
phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4".
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác dạy học môn Toán lớp 4 ở
trường Tiểu học Đông Vệ 1, nhằm đề xuất những biện pháp đổi mới phương
pháp dạy học của giáo viên để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở lớp 4C
nói riêng và trong nhà trường nói chung
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực trong môn Toán lớp 4. Từ đó
đưa ra các biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán đạt
hiệu quả cao.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp, điều tra thống kê.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
II.
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi
mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện đến cách thức
đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới PPDH. Mục đích
của đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo; rèn
luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến
thức vào các tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn; có niềm vui và
hứng thú trong học tập.
Phương pháp dạy học là lĩnh vực phức tạp và đa dạng. Hiện có nhiều tài
liệu, nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về PPDH ở Tiểu học nói chung,
PPDH Toán nói riêng. Điều đó, một mặt tạo cơ hội cho GV được tiếp cận với
nhiều nguồn thông tin phong phú, đa dạng, nhưng mặt khác cũng gây lúng túng
cho một số GV trong quá trình thực hiện đổi mới PPDH.
Từ mục đích đổi mới PPDH, giáo viên cần căn cứ vào nội dung , tính chất
từng bài; căn cứ vào trình độ học sinh, sở trường của GV và điều kiện hoàn cảnh
3
của lớp học mà có những cách thức, biện pháp phù hợp giúp HS lĩnh hội kiến
thức, kết hợp sử dụng các PPDH một cách linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả.
2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Về phía giáo viên:
Việc đổi mới PPDH đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Trong thực tế
dạy học vẫn còn một số GV chưa chú ý đúng mức tới việc vận dụng ưu điểm và
phối hợp các PPDH như thế nào cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
Nguyên nhân là do giáo viên chưa nghiên cứu kĩ các phương pháp cần thiết và
tích cực áp dụng cho từng bài dạy, Tổ chức các hình thức dạy và học chưa
phong phú, chưa đạt được hiệu quả. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú
ý nghe giảng của học sinh, chưa kích thích được khả năng tư duy của HS. Từ đó
dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, truyền đạt kiến thức còn mang tính
áp đặt, giảng giải, đơn điệu.
Nội dung mỗi bài học thường nằm ngay trong tiêu đề bài học. GV chưa
chú ý đúng mức đến việc giúp HS hiểu nghĩa của các từ ngữ trong đầu bài, chưa
chú ý đến ý nghĩa thực tế của bài toán. Quá trình dẫn dắt khai thác nội dung
chưa logic, chưa tạo ra những tình huống có vấn đề để HS tự nhớ lại kiến thức
cũ vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong tư duy để tìm ra kiến thức mới,
vận dụng các hình thức dạy học còn mang tính hình thức. Trong thực hành GV
cũng chưa khai thác hết những đơn vi kiến thức cần củng cố, những kiến thức
cần mở rộng hay chốt lại cách thực hiện.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học không kém phần quan trọng. Đồ dùng dạy
học phong phú, mới lạ, hay đơn giản đều phải có tác dụng thu hút các giác quan,
tăng sự chú ý của học sinh vào bài giảng. Điều quan trọng là phải tạo chỗ dựa
cho quá trình suy nghĩ, tri giác tiếp theo. Những đồ dùng dạy học càng thu hút
và huy động được nhiều các giác quan của học sinh thì càng có hiệu quả. Một số
giáo viên chỉ vẽ hình và cho học sinh quan sát, tìm kiến thức mới trên hình:
Không cho các em thao tác và như thế các em chỉ huy động được giác quan thi
giác (nhìn lên bảng) và thính giác (nghe cô giảng bài). Thực tế, một số giáo viên
ít dành thời gian cho việc nghiên cứu, chuẩn bi thiết bi, đồ dùng dạy học phục
vụ cho tiết dạy đạt hiệu quả dẫn tới việc tiếp thu bài môn Toán chưa cao.
* Về phía học sinh:
Qua giảng dạy tôi thấy, rất nhiều em do điều kiện kinh tế gia đình còn khó
khăn, cha mẹ chưa có thời gian quan tâm đến việc học tập của các em nên chủ
yếu các em học ở trên lớp là chính. Vì thế việc học tập của các em gặp rất nhiều
trở ngại.
Bên cạnh đó, HS chưa nhận thức đúng vai trò của môn Toán, ngại học
toán. Học sinh chưa chiu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những
phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau
khi học xong bài, các em chỉ nắm được lượng kiến thức thầy giảng theo kiểu ghi
nhớ máy móc, làm bài theo các bước, không thể giải thích được các bước giải,
hoặc rất nhanh quên và kỹ năng tính toán hạn chế.
4
Ví dụ: Khi học xong các các phép tính với phân số các em vẫn còn nhầm
lẫn: cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy đồng rồi cộng hai tử số, có khi
nhân phân số các em cũng quy đồng mặc dù khi học xong bài mới các em vân
dụng làm bài rất tốt. Hoặc nhầm lẫn giữa các bước làm của các bài toán điển
hình, giữa các tính chất được học trong chương trình...
Trước thực trạng trên, trong quá trình dạy học tôi nghiên cứu, đúc rút kinh
nghiệm, vận dụng các phương pháp dạy học trong chương trình toán 4, trong
từng bài học để HS tiếp thu bài chủ động, tích cực tôi chọn đối tượng HS lớp
mình dạy là lớp 4C Trường Tiểu học Đông Vệ 1 để nghiên cứu.
* Kết quả
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành ra đề bài khảo sát và đánh giá theo
Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, từ đó nắm bắt được chất lượng của học sinh để có biện pháp giúp
đỡ.
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4C trường Tiểu học Đông Vệ 1
Số học sinh tham gia khảo sát: 38 em
Tổng số
học sinh
Hoàn thành
SL
%
38 em
25
65,8
Chưa hoàn thành
SL
%
13
34,2
Từ thực trạng và kết quả khảo sát trên, tôi đã nghiên cứu để tìm ra cách
giải quyết khắc phục.
2. Các biện pháp đã sử dụng
Biện pháp 1: Giúp học sinh hiểu một số thuật ngữ toán học khi học
môn Toán.
Trong chương trình Toán 4, tên đầu bài chính là kiến thức trọng tâm của
bài. Khi dạy học bài mới, GV cần chú ý giải nghĩa các thuật ngữ toán học mới
mà HS lần đầu làm quen. Liên hệ với các từ ngữ chứa các thuật ngữ thường
dùng trong cuộc sống. Điều này sẽ giúp HS đinh hình và hiểu vấn đề bài học tốt
hơn. Tùy thuộc vào từng bài học mà GV có thể chọn thời điểm giải nghĩa hay
liên hệ cho phù hợp.
Ví dụ: Bài "Quy đồng mẫu số các phân số".
Đây là bài học mà lần đầu tiên HS được tiếp xúc với thuật ngữ "quy
đồng". Sau khi giới thiệu bài học, GV cần giúp HS hiểu nghĩa của từ này bằng
cách Tìm hiểu nghĩa của từng từ: " quy" là gom lại, đưa về, tính về...,"đồng" là
"cùng" ,"quy đồng" trong toán học được hiểu là tính về cùng. Vậy "quy đồng
mẫu số" là tính về cùng mẫu số ( làm cho các mẫu số giống nhau).
Ví dụ: Bài "Tính chất giao hoán của phép cộng".
5
Thuật ngữ " tính chất giao hoán" cũng là lần đầu tiên HS được tiếp xúc.
Vì tên thuật ngữ này liên quan đến nội dung tính chất nên GV cần giúp HS hiểu
nghĩa của từ ngay từ đầu bài học: "giao hoán" là trao đổi vi trí từ đó hiểu nội
dung tính chất giao hoán của phép cộng là thay đổi vi trí ( đổi chỗ) các số hạng
trong phép cộng. Điều đó giúp HS hiểu do chỉ thay đổi vi trí các số hạng chứ
không phải thay đổi giá tri các số hạng nên tổng không thay đổi.
Có thể nói, việc HS hiểu nghĩa của các thuật ngữ toán học sẽ giúp HS có
nhiều thuận lợi trong quá trình hình thành hoặc tìm ra kiến thức mới, và như vậy
việc ghi nhớ kiến thức cũng tốt hơn.
Biện pháp 2: Giúp học sinh phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức và hiểu
sâu kiến thức trọng tâm của bài học.
Đối với các bài học là bài nhận biết kiến thức mới, GV cần tạo ra các tình
huống có vấn đề, giúp HS tự phát hiện vấn đề của bài học rồi sử dụng kiến thức
đã học, kinh nghiệm của bản thân ( hoặc kinh nghiệm của các bạn trong nhóm
nhỏ) để tìm mối liên hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã biết, từ đó tự tìm
cách giải quyết vấn đề.
Chẳng hạn dạy bài “ Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0 ”
* GV đưa ví dụ 1: 320 : 40 = ?
Yêu cầu HS nhận xét đặc điểm của số bi chia, số chia để nhận ra phép
chia hai số có tận cùng là các chữ số 0. Đây là vấn đề cần giải quyết. Việc yêu
cầu HS tìm thương của phép chia này là tình huống gợi vấn đề, là yêu cầu nhận
thức mà HS chưa thể giải quyết được ngay, nhưng bằng vốn kiến thức đã học, sự
hướng dẫn của GV thì HS có thể tìm ra cách làm.
Cách hướng dẫn như sau:
+ Bước 1: Đinh hướng cho HS vận dụng tính chất chia một số cho một
tích để tìm kết quả.
320 : 40 = 320 : ( 10 x 4)
= 320 : 10 : 4
= 32 : 4
=
8
+ Bước 2: HS nhận xét nhận ra 320 : 40 = 32 : 4. Đây là vấn đề của bài
học mà GV cần giúp HS phát hiện. GV tổ chức cho HS hợp tác, trao đổi nhóm
nhỏ để nhận thấy được kết quả phép chia 320 : 40 cũng bằng kết quả của phép
chia 32 : 4. HS phải lí giải được số bi chia, số chia đã cùng giảm 10 lần, và khi
cùng giảm như vậy thì thương không thay đổi.
+ Bước 3: Rút ra nhận xét: Khi chia 320 : 40 ta có thể cùng xóa một chữ
số 0 ở tận cùng của số bi chia, số chia , rồi chia như thường.
Với cách làm trên, HS vừa chủ động chiếm lĩnh kiến thức, vừa hiểu bản
chất cách làm mà không tiếp thu thụ động theo hướng dẫn từng bước của GV.
* Ví dụ 2: 32000 : 400 = ?
HS có thể vận dụng những hiểu biết ở ví dụ 1 để tìm thương của phép
chia này.
Trong thực tế giảng dạy, tôi đã gặp 2 trường hợp xảy ra:
6
Trường hợp 1: Nhiều HS khá, giỏi thực hành và tìm ngay được kết quả
của phép tính. Các em đã giảm số bi chia và số chia 100 lần bằng cách cùng xóa
ở số chia và số bi chia mỗi số hai chữ số 0.
32000 : 400
= 320 : 4
=
80
Khi GV yêu cầu HS giải thích cách làm, HS dùng tính chất chia một số
cho một tích, liên hệ ở ví dụ 1 để lí giải rất chính xác.
Trường hợp 2: Một số HS trung bình, yếu thực hiện tuần tự như ví dụ1.
Như vậy, việc HS tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề ở ví dụ 1 đã giúp
HS hiểu sâu ví dụ 1, là cơ sở cho sự liên tưởng đến cách giải quyết vấn đề của ví
dụ 2.
Có thể nói, việc giúp HS tự mình phát hiện và tự giải quyết vấn đề sẽ giúp
HS tiếp thu kiến thức nhanh, hiệu quả và ghi nhớ lâu vì đó là trải nghiệm của
các em.
Bên cạnh đó, GV cần sử dụng phương pháp hỏi đáp giúp HS hiểu và ghi
nhớ nội dung bài học. Bởi lẽ trong quá trình học, HS phát hiện và tìm cách giải
quyết vấn đề theo suy nghĩ của mình hoặc của nhóm. HS có thể nhớ các bước
làm của sách khi chuẩn bi bài nhưng chưa hiểu mục đích, ý nghĩa của từng
bước, trình tự các bước . Vì vậy, cần có sự hướng dẫn của GV bằng hệ thống câu
hỏi phù hợp, nhằm hướng HS thực hiện nhiệm vụ học tập, giúp HS hiểu đúng và
hiểu sâu nội dung bài học.
Ví dụ trong bài “ Chia hai số có tận cùng là các chữ số 0 ” như đã đề cập
ở trên.
Sau khi HS phát hiện ra 320 : 40 = 32 : 4, GV đưa ra một số câu hỏi
giúp HS hiểu tại sao 320 : 40 = 32 : 4.
Ở ví dụ1 Có thể hỏi như sau:
Câu 1: Số bi chia và số chia đã thay đổi như thế nào ? ( Cùng giảm 10 lần).
Câu 2: Khi cùng giảm số chia, số bi chia cùng một số lần như nhau(10
lần) thì thương như thế nào? ( Thương không thay đổi).
Câu 3: Khi chia 320 :40 ta có thể thực hiện như thế nào cho thuận tiện?
(Cùng bớt ở số chia và số bi chia một chữ số 0)
Nhưng sang ví dụ 2, GV không dùng câu hỏi như ví dụ 1 nhưng HS vẫn
có thể hiểu, giải thích cách làm của mình như ví dụ1.
Để giúp HS hiểu sâu hơn nội dung bài học, GV có thể đặt câu hỏi:
Câu 1: Khi cùng xóa 1,2,3... chữ số 0 ở tận cùng của số chia, số bi chia
của một phép chia để được một phép chia mới thì thành phần nào của phép chia
thay đổi, thành phần nào không thay đổi?( Số bi chia, số chia, số dư( trường hợp
chia có dư) thay đổi vì cùng giảm 10,100, 1000... lần. Thương không thay đổi. )
Trả lời được câu hỏi này là cơ sở để HS có thể xác đinh được số dư trong
phép chia trường hợp chia có dư. Đây là yêu cầu cao hơn, kích thích sự tư duy,
mở rộng kiến thức cho đôid tượng HS khá, giỏi.
7
Câu 2: Trong phép chia nên xóa chữ số 0 ở số nào trước? ( xóa ở số chia
trước, làm vậy sẽ tránh nhầm lẫn trong trường hợp số bi chia có nhiều chữ số 0.)
Những đinh hướng về kiến thức cần khai thác và cách dẫn dắt của GV
như trên, ngoài việc giúp HS hiểu bản chất của cách thực hiện, ghi nhớ cách làm
còn là cơ sở cho việc giải các bài toán củng cố và mở rộng có liên quan đến chia
hai số có tận cùng là chữ số 0.
Biện pháp 3: Sử dụng các đồ dùng dạy học đơn giản, hiệu quả phát
huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
a. Sử dụng linh hoạt đồ dùng dạy học các môn học khác để dạy Toán.
Trong chương trình Toán 4, việc dạy HS có những biểu tượng ban đầu về
các đối tượng toán học, đặc biệt là các yếu tố hình học, phân số phải gắn liền với
việc hướng dẫn HS hoạt động trực tiếp trên các đồ dùng dạy học. Việc sử dụng
triệt để và có hiệu quả các đồ dùng dạy học của môn Toán, của các môn học
khác giúp HS có chỗ dựa cho hoạt động tư duy trong quá trình lĩnh hội các kiến
thức của bài học.
Ví dụ 1: Dạy bài "Góc nhọn, góc tù, góc bẹt".
Để giới thiệu góc nhọn GV và HS sử dụng bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật
lớp 4. Cách hướng dẫn và thao tác đồ dùng như sau:
+ Bước 1: Dùng 2 thanh dài trong bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật 4 và ốc vít
tạo thành một góc vuông. Bóp nhẹ hai thanh vào trong để tạo thành góc nhọn.
Gọi tên góc mới. Cho HS quan sát, nhận xét sự thay đổi của góc vuông ban đầu
-> Giới thiệu góc vừa tạo thành là góc nhọn.
+ Bước 2: HS thực hành trên đồ dùng để phát hiện và kiểm chứng kết quả.
+ Bước 3: HS tự nêu đặc điểm của góc nhọn , so sánh độ lớn của góc
nhọn với góc vuông. Dùng ê ke để kiểm tra.
+ Bước 4: Cho HS tìm những hình ảnh xung quanh về góc nhọn.
Giới thiệu góc tù, góc bẹt cũng dùng bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật 4 với
thao tác tương tự, GV dễ dàng giúp HS nắm vững nội dung bài học.
Với đồ dùng học tập này, HS có thể tự làm, thao tác trong nhóm đôi rồi
trình bày các đặc điểm của góc. Và thực tế HS tự tìm ra và ghi nhớ đặc điểm của
các góc rất tốt.
Sau khi HS đã nhận biết các góc, GV tổ chức trò chơi biểu diễn hình ảnh
của các góc vừa học bằng hai bàn tay, thực tế không có hoặc rất ít HS biểu diễn
sai.
Ví dụ 2: Dạy bài "Hình bình hành"
Để giới thiệu hình bình hành GV có thể hướng dẫn HS sử dụng bộ đồ
dùng kĩ thuật 4 và thao tác đồ dùng như sau:
+ Bước 1: Dùng 4 thanh dài trong bộ lắp ghép mô hình kĩ thuật 4 và ốc vít
tạo thành một hình chữ nhật. Dùng tay xô lệch hình chữ nhật thành hình bình
hành. Gọi tên hình mới. Cho HS quan sát, nhận xét sự thay đổi của hình chữ
nhật ban đầu với hình vừa tạo thành là hình bình hành.
+ Bước 2: HS thực hành trên đồ dùng để phát hiện và kiểm chứng kết quả.
8
+ Bước 3: Từ trực quan, HS nhận ra sự thay đổi về góc, không thay đổi
về độ dài các cạnh. Từ đó rút ra đặc điểm của hình bình hành, so sánh với đặc
điểm của hình chữ nhật để ghi nhớ.
Dạy bài "Hình thoi" GV cũng thao tác và hướng dẫn tương tự.
b. Sử dụng sáng tạo, hiệu quả đồ dùng tự làm.
Thực tế trong quá trình dạy học, có nhiều đồ dùng được làm từ các
nguyên liệu dễ tìm, dễ làm, sử dụng sáng tạo sẽ mang lại hiệu quả cao trong dạy
học.
Ví dụ 1: Dạy bài “Phép cộng phân số”.
Bài này sử dụng đồ dùng dạy học như hướng dẫn ở SGK để hình thành
phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau. Nhiều giáo viên hướng dẫn HS
bằng đồ dùng tự làm của GV: dùng thước chia đều băng giấy thành 8 phần bằng
nhau rồi tô màu các phần của băng giấy, hình thành phép cộng phân số. Chia đều
băng giấy thành 8 phần theo cách làm như vậy mất nhiểu thời gian, chưa phát
huy tính sáng tạo. Có thể cho HS tự làm đồ dùng, tự thao tác đồ dùng . Cụ thể
như sau:
Chia HS thành các nhóm 4, thao tác đồ dùng theo các yêu cầu trong phiếu
học tập:
+ Bước 1: - Tìm cách chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách
gấp đôi ba lần theo chiều ngang.
+ Bước 2: Tô màu vào
3
2
băng giấy và Tô màu vào băng giấy.
8
8
+ Bước 3: Nhìn vào băng giấy học sinh nêu được hai lần đã tô màu được
5
băng giấy.
8
Học sinh nêu phép tính tìm số phần băng giấy qua hai lần tô màu. Dựa
vào trực quan để nêu kết quả của phép tính. Từ đó tìm ra cách cộng hai phân số:
3
2
3+ 2
5
+ =
= .
8
8
8
8
+ Bước 4: Kết luận (Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số
cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số).
Ví dụ 2: Dạy bài “Đề-xi-met vuông”.
Thực tế, còn rất nhiều HS hay nhầm lẫn, thậm chí không phân biệt được
diện tích, chu vi. Dạy bài này, GV làm một hình vuông cạnh 1dm, một mặt tô
màu phần diện tích, mặt bên dùng bút màu kẻ đậm đường viền 4 cạnh hình
vuông. Đồ dùng đơn giản này giúp HS phân biệt phần diện tích( bề mặt tô màu)
với chu vi ( độ dài 4 cạnh). Giúp HS nhận biết độ lớn thực của đề- xi-mét vuông,
tạo cơ sở cho việc ước lượng chính xác diện tích các đồ vật trong thực tế. Mặt
khác tạo tiền đề cho việc học đơn vi đo diện tích tiếp theo ( mét vuông)
Trong thực tÕ, tôi thấy biện pháp này giúp HS tiếp thu nội dung bài học
nhẹ nhàng, HS hứng thú học tập, ghi nhớ đặc điểm của các yếu tố hình học ,
kiến thức như trình bày ở trên là rất tốt.
9
Biện pháp 4: Tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ nhằm phát huy
tính chủ động, sáng tạo, của học sinh.
Dạy học theo nhóm góp phần tạo ý thức tự chủ, độc lập. Tăng cơ hội thảo
luận, trao đổi để hiểu sâu kiến thức hơn, tăng cường sự đoàn kết. HS có cơ hội
để khẳng đinh bản thân. Tạo môi trường để HS giúp đỡ nhau. Phát huy tính tích
cực trong học tập. Phát triển tư duy sáng tạo cho HS.
Đối với các bài học hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó
cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát
hiện, đóng góp trí tuệ của tập thể học sinh, cần phải đo đạc, thu thập các số liệu
điều tra thống kê...Đối với các bài tập thực hành, hợp tác nhóm tạo cơ hội để HS
giúp đỡ nhau, tìm thêm được nhiều ý tưởng hay, nhiều cách giải... Muốn vậy,
GV phải biết lựa chọn đơn vi kiến thức nào phù hợp để tổ chức hoạt động nhóm.
Phải kiểm tra được hiệu quả của HS trong hoạt động nhóm.
Ví dụ: Dạy bài "Diện tích hình thoi".
Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m,
BD = n (hình a)
Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài hai đường chéo, học
sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau chứ không phải một cách như
sách giáo khoa. Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo
và tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm
nhỏ để tìm cách ghép và đưa ra các phương án ghép của mình
* Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với
hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b).
Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) =
m×
n
m×n
=
.
2
2
* Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với
hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c).
Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) =
m
m×n
× n=
.
2
2
B
A
O
M
B
B
A
C
O
C
A
M
D
( Hình a)
N
N
( Hình b )
D
( Hình c )
Trên cơ sở phân tích các phương án lắp ghép, GV gợi ý để HS xây dựng
công thức tính diện tích hình thoi .
Để tất cả HS đều phải tích cực tham gia làm việc, hợp tác ; tạo môi
trường cho HS giúp đỡ nhau trong học tập đồng thời kiểm tra kết quả hoạt động
10
của các nhóm, sau mỗi phần trình bày của các nhóm, GV sẽ tổ chức cho HS
phỏng vấn giữa các nhóm về vấn đề nhóm đó thảo luận. Đối tượng phỏng vấn là
bất kì thành viên nào trong nhóm.
Ví dụ: Bạn hãy cho biết hình thoi và hình chữ nhật các bạn ghép được có
gì chung ? ( Cách 1: Chiều dài AC của hình chữ nhật chính là đường chéo dài AC
của hình thoi. Chiều rộng NC bằng nửa đường chéo ngắn BD của hình thoi).
Việc tìm câu hỏi phỏng vấn và trả lời phỏng vấn có nghĩa là mọi thành
viên của nhóm đã cùng làm việc và hiểu vấn đề.
Biện pháp 5: Tổ chức trò chơi học tập gây hứng thú học tập trong giờ
học
Trò chơi học tập là hoạt động được tổ chức có tính chất vui chơi, giải trí
nhưng có nội dung gắn với bài học hoặc hoạt động học tập của học sinh . Trò
chơi học tập có tác dụng giúp học sinh: Thay đổi động hình, chống mệt mỏi,
tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học, phát triển hứng
thú, tập thói quen tập trung, hợp tác, ham hiểu biết và khả năng suy luận v.v…
Trong việc dạy học Toán lớp 4, trò chơi học tập là một thủ thuật, biện
pháp củng cố kiến thức vừa được học trong tiết học hoặc sau một số bài học.
GV có thể sưu tầm hoặc tự thiết kế trò chơi, cải tiến hình thức của một số
trò chơi cũ. Khi tổ chức trò chơi trong giờ Toán 4 cần lưu ý mấy điểm sau:
- Xác đinh rõ mục đích yêu cầu của trò chơi nhằm phục vụ tốt cho bài
học, phù hợp với mục tiêu bài học.
- Trò chơi nhằm củng cố một nội dung toán học mà học sinh cần phải lĩnh
hội.
- Cách thực hiện trò chơi cần dễ dàng, thoải mái, lôi cuốn được nhiều học
sinh tham gia và gây hứng thú cho học sinh.
- Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian cho phép, mang tính chất vừa
phải, đúng lúc, cân đối với hoạt động khác của tiết dạy.
- Thông qua trò chơi đánh giá được kết quả học tập, động viên được học
sinh thi đua học tốt. Tuyên dương đội thắng cuộc, tìm ra những ưu điểm của đội
thua cuộc để động viên HS.
- Cần nghiên cứu và làm đồ dùng của trò chơi mang tính thẩm mĩ, có thể
sử dụng được nhiều lần. Chẳng hạn gắn các kết quả vào chỗ chấm...
Ví dụ: Có thể cải tiến trò chơi "Tiếp sức" thành trò chơi" Gà con tìm mẹ".
* Mục tiêu:
- Củng cố các phép tính phân số.
*Chuẩn bi:
- Hình cắt những con gà mái và các chú gà con.
- Các thẻ ghi số.
- Bảng nỉ hoặc bảng cài, kẹp giấy.
* Cách chơi:
- Giáo viên nêu tình huống: Có các chú gà con bi lạc mẹ, các em hãy giúp
những chú gà con này về với mẹ.
11
Hai đội chơi, mỗi đội 4 em. Khi giáo viên ra lệnh bắt đầu chơi thì bạn đầu
tiên của mỗi đội lên đưa những chú gà con có mang phép tính về với gà mẹ có
kết quả của phép tính rồi nhanh chóng về chạm vai bạn thứ hai, bạn thứ hai lên
thực hiện. Cứ như thế cho đến bạn cuối cùng. Đội nào làm đúng, nhanh nhất sẽ
thắng cuộc. Cả lớp tuyên dương.
Trò chơi "Hái quả"
*Mục tiêu: Củng cố tìm phân số của một số.
*Chuẩn bi:
- Giáo viên vẽ 2 cây và đính mỗi cây 30 quả.
- Hai chiếc giỏ
- Cách chơi:
- Giáo viên đính 2 cây quả lên bảng và học sinh hái quả theo yêu cầu của
giáo viên bỏ vào giỏ.
- Hai đội cử đại diện lên hái quả. Đội nào hái đúng và nhanh tuyên dương.
Ví dụ: Trong trường hợp này yêu cầu học sinh hái
2
số quả có ở trên cây
3
(lượt 1).
Lượt 2: Yêu cầu học sinh hái
2
số quả còn lại.
5
Sau mỗi trò chơi, lời động viên, khích lệ tinh thần và hứa hẹn một trò chơi
mới sẽ tạo động cơ học tập cho HS rất lớn. Thực tế cho thấy, Khi tham gia trò
chơi HS hào hứng, khi kết thúc trò chơi thì tiếc nuối vì giờ học đã hết, mong chờ
đến tiết học sau cố gắng tập trung học tốt để được chiến thắng. Đội thua cuộc
mong có cơ hội được chơi, được khẳng đinh mình. Điều này có tác động rất
nhiều đến hứng thú học môn Toán của các em.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy
học sinh lớp mình hứng thú học tập, yêu thích môn Toán. Các em mạnh dạn phát
biểu ý kiến xây dựng bài, tiếp thu kiến thức nhanh, hiểu bài, nhớ lâu, tính toán
chính xác.. Trong quá trình học Toán, học sinh chủ động, tích cực từng bước
chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Học
sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Sự tiến
bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau:
Tổng số
học sinh
38 em
Hoàn thành
SL
37
III.
%
97,4
Chưa hoàn thành
SL
%
1
2,6
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
12
Trong công tác giảng dạy, vai trò của người Thầy rất quan trọng, đặc biệt là
môn Toán. Thầy là người để trò chiếm lĩnh kiến thức, giúp trò hiểu học trò tiếp
thu một cách đầy đủ, chính xác. Ngoài ra, còn thường xuyên rèn luyện cho các
em những kĩ năng cần thiết giúp các em có phương pháp, vận dụng kiến thức đã
học vào việc làm các bài tập liên hệ với thực tiễn. Vì vậy, môn học này có vai trò
vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh trong lớp đã nắm bắt kiến thức
nhanh và vận dụng vào làm bài một cách vững vàng. Vì vậy tôi đã cùng với
Giáo viên trong tổ khối 4; 5 trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời xây dựng
chuyên đề về môn học này để cùng nhau nâng cao chất lượng môn Toán trong
chương trình học tập ở Tiểu học. Từ đó giúp các em có tri thức trong học tập, để
các em tiến tới các bậc học cao hơn .
Quá trình áp dụng các biện pháp trên vào hướng dẫn học sinh học tốt môn
Toán, bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm cần có hướng phấn đấu:
- Giáo viên dạy Toán 4 phải nắm được toàn bộ chương trình môn Toán lớp 4,
nắm vững kiến thức Toán trong SGK; SGV; chuẩn kiến thức kĩ năng; giảm tải.
- Nắm bắt, đánh giá năng lực học tập của đối tượng HS của mình để có biện
pháp, cách thức vận dụng và sáng tạo phù hợp trong giảng dạy.
- Có đầy đủ đồ dùng dạy và học cho giáo viên và học sinh ở các tiết học. Phải
đầu tư, nghiên cứu sử dụng nhiều hình thức dạy học, giúp học sinh khai thác
kiến thức mới một cách hấp dẫn, khoa học. Biết tổ chức các PPDH gắn với các
bài tập thực hành luyện tập. giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới và vận
dụng làm các bài tập một cách chính xác. Đây không chỉ là cách giúp các em ghi
nhớ lâu những qui tắc và vận dụng giải các bài tập đã học dựa trên cơ sở hiểu để
nhớ, hiểu để làm mà còn là những kiến thức nền tảng, cơ sở em học sinh lên lớp
trên.
- Giáo viên cần gần gũi với học sinh hơn nữa và có sự tìm tòi sáng tạo trong
giảng dạy, giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục: gia đình – nhà
trường – xã hội.
Riêng đối với bản thân tôi, điều cần thiết và không thể coi nhẹ là phải dạy
tốt lý thuyết, từ đó mới phát triển được các tư duy, suy luận cho học sinh. Để rèn
luyện kĩ năng giải Toán cho học sinh thì trong quá trình giảng dạy, giáo viên
phải lựa chọn các phương pháp dạy tốt, tìm ra những biện pháp riêng phù hợp
với đặc điểm lứa tuổi HS, dặc thù của HS lớp mình. Khi dạy học sinh lớp 4 học
Toán, giáo viên phải đặt ra tình huống để các em suy nghĩ, tìm tòi cách giải
khác nhau, khơi gợi sự tìm tòi , khám phá, phát hiện bồi dưỡng HS có năng lực
học tốt môn Toán.
2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên cần đầu tư thời gian để chuẩn bi kế hoạch bài học một cách
chu đáo, tăng cường công tác tự học tự bồi dưỡng qua các tài liệu, dự giờ đồng
nghiệp, thảo luận chuyên môn…
13
* Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo: Tiếp tục tổ chức sinh hoạt chuyên
môn liên trường, các chuyên đề bồi dưỡng, xây dựng các giờ dạy mẫu hoặc nhân
rộng những tiết trong hội giảng đạt kết quả cao để giáo viên trong huyện học tập,
từ đó đúc rút kinh nghiệm, nâng cao tay nghề cho giáo viên. Lựa chọn những đề
tài, những sáng kiến kinh nghiệm hay, thực tế biên soạn thành sách và tổ chức
triển khai, nhân rộng trong toàn Thành phố.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán trong chương
trình Tiểu học nói chung và chương trình Toán lớp 4 nói riêng. Trong suốt thời
gian qua bản thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và chất
lượng học tập của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự yêu thích, tự
tin khi học Toán. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần không nhỏ vào việc dạy
học và giáo dục HS của mình. Mặc dù vẫn còn những vấn đề phải hoàn thiện
tiếp song tôi cũng xin trình bày để đồng nghiệp tham khảo. Mong được sự giúp
đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để các biện pháp này
được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong
việc dạy học môn Toán ở Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của Hiệu trưởng
Thanh Hoá, ngày 20 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Lê Thị Hằng
14