Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.72 KB, 16 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học, phân môn Tập làm văn đóng vai trò
quan trọng, mang tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo... Chương
trình Tập làm văn ở tiểu học chủ yếu là văn miêu tả. Ở lớp 4 học sinh bắt đầu được
học văn miêu tả với các kiểu bài tả đồ vật, loài vật, cây cối. Đối với học sinh tiểu
học, hoạt động chủ đạo của các em thiên về cảm tính, mỗi em có một cách nhìn
riêng về cùng một vấn đề, với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, học sinh thích tìm tòi,
học hỏi, khám phá cái mới trong nhận thức và trong cuộc sống xã hội.
Văn miêu tả góp phần nuôi dưỡng mối quan hệ tạo nên sự quan tâm của các
em đối với thế giới xung quanh. Trong đó quan trọng nhất là đối với thiên nhiên,
góp phần giáo dục tình cảm, thẩm mĩ, lòng yêu cái đẹp, góp phần phát triển ngôn
ngữ ở trẻ… Học văn miêu tả học sinh có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất
giữa tư duy và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã
hội để khêu gợi ra những tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ cao thượng và đẹp đẽ …
Trong thực tế, dạy học môn Tiếng Việt nói chung, dạy học văn miêu tả cho học
sinh lớp 4 nói riêng, bên cạnh những điểm tốt và những kết quả đáng khích lệ còn
có nhiều nhược điểm. Nhược điểm lớn nhất, dễ thấy nhất là bệnh công thức, khuôn
sáo, máy móc, thiếu tính chân thật cả cách dạy và cách học văn miêu tả. Vậy làm
thế nào để nâng cao chất lượng giờ dạy văn miêu tả? Liệu có giải pháp hữu hiệu
nào để các giờ Tập làm văn luôn hấp dẫn và lôi cuốn hứng thú các em không? Đó
là điều mà tôi cũng như bao người khác làm công tác giáo dục rất băn khoăn và suy
nghĩ. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4”
2. Mục đích nghiên cứu.
- Trên cơ sở điều tra thực trạng về chất lượng dạy và học phân môn Tập làm
văn ở lớp 4, từ đó đề xuất một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học
Trung Sơn II học tốt hơn phân môn Tập làm văn.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập phân
môn Tập làm văn của học sinh.


3. Đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4A - Trường Tiểu học Trung Sơn II - Thị
xã Sầm Sơn - Tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Điều tra, khảo sát thực tế.
- Sử dụng các phương pháp khác: phân tích ngôn ngữ, so sánh đối chiếu, thống
kê và xử lí các số liệu thu thập.

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

1


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Như chúng ta đã biết, dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học gồm nhiều phân
môn, nhưng phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn khó, mang tính
tổng hợp và sáng tạo cao. Nó có vai trò và vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và
nâng cao dần kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, mà học sinh đã được hình thành và xây
dựng ở các phân môn khác. Học tốt được phân môn Tập làm văn là giúp cho các
em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm văn là dạy các kiến thức
và kĩ năng giúp cho học sinh tạo lập và sản sinh ngôn bản, đồng thời giáo dục cho
các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp góp phần giữ gìn và phát
huy sự trong sáng của Tiếng Việt.
Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các em học sinh có

thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung quanh, biết
cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động trước
đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng ngôn ngữ
giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả. Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo, thiếu cảm
xúc không dùng từ ngữ giàu hình ảnh thì bài văn trở nên khô khan, nghèo ý. Vậy để
làm được bài văn miêu tả hay, không những phải thể hiện rõ nét, chính xác sinh
động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, tình cảm của mình
đối với đối tượng miêu tả. Do đó đòi hỏi học sinh phải có kiến thức sâu rộng và
chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung của từng bài, có những
hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, có trí óc tưởng tượng thật phong phú, biết
cách dùng từ, viết câu phù hợp, viết bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc ... Là một
giáo viên giảng dạy lớp Bốn, bản thân tôi luôn trăn trở, tìm mọi biện pháp để tạo
điều kiện giúp đỡ các em học tốt phân môn này.
Với những mục đích đã nêu trên, để giúp các em có kĩ năng viết văn miêu tả
đạt hiệu quả là việc làm vô cùng cần thiết.
2. Thực trạng.
2.1. Cách thức dạy của giáo viên
- Trong thực tế của trường tiểu học hiện nay, tôi thấy 100% giáo viên có giáo
án đầy đủ khi lên lớp. Một số giáo viên có chuẩn bị đồ dùng như: bảng phụ, một số
đoạn văn, bài văn mẫu, tranh ảnh,… nhưng sự chuẩn bị này không thường xuyên,
liên tục. Giáo viên chưa coi trọng vai trò của đồ dùng dạy học trong dạy tập làm
văn.
- Một số giáo viên chưa đổi mới phương pháp dạy học: cho học sinh đọc
nhiều, yêu cầu học sinh nhớ nhiều để bắt chước rồi “làm văn” dẫn đến bài văn
thường rập khuôn, máy móc, thiếu chân thực. Một số giáo viên lựa chọn phương
pháp dạy học không thích hợp, chưa vận dụng thành công phương pháp dạy học
tích cực, học sinh còn bị đặt ở thế thụ động lĩnh hội tri thức nên giáo viên hướng
dẫn học sinh khai thác chưa đúng phần kiến thức văn bản thuộc yêu cầu của bài
học. Ví dụ có bài học, bài đọc đưa ra chỉ nhằm giúp học sinh biết kết cấu 3 phần
của bài văn, có bài chỉ yêu cầu học sinh xác định vai trò của các câu mở đoạn, có

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

2


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
bài chỉ xác định trình tự miêu tả trong đoạn... Song giáo viên lại để học sinh sa vào
tìm hiểu, khai thác tất cả những nội dung kiến thức có trong đoạn văn, bài văn đó,
khiến giờ học nặng nề về kiến thức, không đảm bảo được thời gian cho phép của
tiết học. Kết quả giờ dạy chưa cao, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo, độc lập
phát hiện kiến thức của học sinh.
- Để đối phó với một số học sinh làm bài kém nhằm đảm bảo “chất lượng” khi
kiểm tra thi cử, nhiều giáo viên cho học sinh thuộc một bài văn mẫu khi các em gặp
đề bài tương tự cứ thế mà chép ra. Vì vậy, dẫn đến cả thầy và trò nhiều khi bị “lệ
thuộc” quá vào văn mẫu.
2.2. Kết quả học tập của học sinh
- Qua thực tế dạy học lớp 4 năm học 2014 - 2015, tôi thấy đa số học sinh còn
thụ động, ít phát biểu, dẫn đến việc thực hành làm văn chưa đạt yêu cầu, trình bày
bài văn chưa rõ bố cục, câu văn thiếu mạch lạc, viết thiếu ý, diễn đạt ý chưa phù
hợp, bài văn chưa có tính sáng tạo. Đặc biệt là học sinh chưa nói, viết theo cách
cảm, cách nghĩ của mình. Bên cạnh đó, còn tồn tại một số em có hoàn cảnh gia
đình khó khăn, phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em mình đã gây
ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập Tập làm văn của các em. Hơn nữa không
ít em chưa có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với
các tác phẩm văn học.
- Vốn từ, vốn kiến thức của học sinh còn hạn chế, khả năng phân tích, tổng
hợp ngôn ngữ của học sinh còn hạn chế.
- Trong các bài viết, học sinh còn phụ thuộc vào sách tham khảo, bài văn mẫu.

Học sinh nhớ hoặc sao chép bài văn, đoạn văn mẫu vào bài. Điều này hạn chế năng
lực sản sinh văn bản cũng như năng lực giao tiếp của học sinh.
Từ thực trạng trên cho thấy, học sinh còn “lệ thuộc” vào văn mẫu nên còn tồn
tại những hiện tượng phổ biến như: Vay mượn tình ý của người khác, miêu tả hời
hợt chung chung, không có sắc thái riêng biệt nào của đối tượng được miêu tả. Vì
thế bài văn ấy có thể gắn cho đối tượng miêu tả cùng loại nào cũng được. Một bài
văn như vậy đọc lên không có cảm xúc, nhợt nhạt, mờ mờ. Đầu năm học, học sinh
lớp tôi có hiện tượng sao chép văn mẫu khá phổ biến. Bởi vậy, dạy- học văn miêu
tả chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, chưa đạt được mục tiêu mà môn học
yêu cầu.
Dưới đây là kết quả làm văn miêu tả của học sinh lớp 4A khi chưa áp dụng
sáng kiến.
Sĩ số
28 em

Hoàn thành
SL
19 em

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

TL
67,9%

Chưa hoàn thành
SL
TL
9 em
32,1%


Giáo viên: Đoàn Thị Bình

3


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Từ những kết quả nghiên cứu khiêm tốn trên tôi đã không ít băn khoăn, lo
lắng, suy nghĩ, tìm hiểu và tham khảo ý kiến các đồng nghiệp trong khối, trong
trường mong tìm ra những giải pháp thích hợp để tiết dạy- học văn miêu tả tiến gần
với cái đích, hoàn thành được mục tiêu bài học, môn học hơn. Sau đây là những
giải pháp mà tôi đã áp dụng cho học sinh của mình trong năm học 2014 - 2015.
3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 4.
3.1. Giải pháp 1: Tổ chức tốt việc quan sát–tìm ý và dựng đoạn cho học sinh.
Học sinh thiếu vốn hiểu biết thì nói sẽ lúng túng, viết lủng củng không thành
câu, như vậy thì còn gọi gì là văn? Do vậy, giáo viên phải tổ chức tốt việc quan sát–
tìm ý và dựng đoạn cho bài văn miêu tả.
Để thực hiện tốt các biện pháp và yêu cầu trên, tôi thấy rõ nhược điểm cách
dạy trước đây của mình, kiên quyết từ bỏ các nhược điểm đó. Từ hình thức tổ chức
lớp học tới hoạt động của thầy và trò trong lớp đều có sự thay đổi. Muốn quan sát
trực tiếp đối tượng ở tiết học quan sát, tìm ý, tôi không chỉ tiến hành giữa bốn bức
tường mà còn tiến hành giữa thiên nhiên. Để quan sát có chất lượng, tôi hướng dẫn
các em quan sát theo hệ thống câu hỏi thích hợp, theo trình tự nhất định (từ chung
tới riêng, từ trong ra ngoài, từ xa tới gần hay ngược lại) và quan sát bằng nhiều giác
quan. Rèn luyện thành nếp việc ghi chép lại những chi tiết đặc sắc theo phần gợi ý
của sách giáo khoa, nhờ đó mà bài văn của các em trở nên sinh động, mới mẻ hơn.
Trong giờ hoạt động quan sát để tìm ý, phần hướng dẫn các em quan sát cần
tiến hành một cách ngắn gọn, thời gian chủ yếu của tiết học để học sinh tập quan
sát theo phương pháp thầy đã hướng dẫn. Học sinh ghi chép các nhận xét, không
cần nói nhiều, nói dài. Trong khi học sinh quan sát, ghi chép tôi theo dõi, chú trọng
hướng dẫn học sinh cá biệt. Khi phát hiện thấy có vấn đề gì có tính chất chung,

chọn thời điểm thích hợp để uốn nắn chung cho cả lớp. Thầy nói ít, trò làm việc
nhiều (Quan sát hướng dẫn các em, nhận xét uốn nắn các em, chuẩn bị ứng phó tình
huống sư phạm,…)
Ví dụ 1: Tuần 15 (tiết 30): Quan sát đồ vật.
Tôi sử dụng phương pháp trực quan, phương pháp quan sát ở chỗ tôi cho học
sinh quan sát đồ chơi mà các em mang tới lớp kết hợp quan sát tranh một số đồ
chơi như gấu bông, lật đật, búp bê...
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh:
- Hãy quan sát một số đồ chơi em thích và ghi lại những điều quan sát được.
- Học sinh vừa quan sát vừa ghi chép lại ý quan sát, sau đó sắp xếp ý để tạo
thành một dàn ý tả đồ chơi mà em thích.
Tôi cho học sinh trình bày những ý đã ghi được sau khi quan sát theo một dàn
ý sẽ luyện thực hành giao tiếp cho học sinh. Sau đây là ví dụ về một dàn ý:
1. Mở bài: - Giới thiệu đồ chơi mà em thích nhất: đó là gấu bông.
2. Thân bài: - Hình dáng bên ngoài: Gấu bông không to, gấu đang ngồi, dáng
tròn.
Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

4


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
- Bộ lông màu trắng mịn như bông
- Hai mắt: đen láy, rất thông minh.
- Mũi: nhỏ, màu đỏ trông ngộ nghĩnh.
- Trên cổ: thắt một chiếc nơ đỏ chói.
- Tay chân: đang đưa về phía trước như tập thể dục.
3. Kết luận: Em rất yêu gấu bông, ôm gấu bông em rất thích.

Sau đó, tôi sử dụng hình thức thảo luận nhóm, cho học sinh thảo luận nhóm
yêu cầu 2 phần nhận xét:
+ Theo em khi quan sát đồ vật cần chú ý những gì?
+ Học sinh trình bày kết quả thảo luận rèn thực hành giao tiếp.
Tôi dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ để học sinh thấy được muốn miêu
tả đồ vật phải quan sát đồ vật, cách quan sát từ hình dáng bên ngoài đến các bộ
phận chính là quan sát đồ vật theo một trình tự hợp lý. Khi quan sát đồ vật cần sử
dụng nhiều giác quan. Cần tìm ra đặc điểm riêng của đồ vật phân biệt đồ vật với đồ
vật khác nhất là đối với đồ vật cùng loại ví như cùng là quan sát gấu bông nhưng có
con bộ lông màu đỏ, có con bộ lông màu nâu, có con mũi đỏ, có con mũi đen...
Ví dụ 2: (Tuần 29). Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật.
III. Luyện tập: Lập dàn ý chi tiết tả một vật nuôi trong nhà (gà, chim, chó, lợn,
trâu,…).
Dạy bài này tôi cũng dặn học sinh quan sát vật nuôi từ trước và trong tiết dạy
tôi chuẩn bị một số tranh như: Tranh gà trống, tranh mèo,… cho học sinh quan sát.
Dựa vào tranh và những gì quan sát được ở nhà học sinh ghi chép những đặc điểm
nổi bật sau đó sắp xếp thành một dàn ý. Sau đây là một dàn ý tả con gà trống:
1. Mở bài: Giới thiệu con vật muốn tả: Một chú gà trống lai đã trưởng thành.
2.Thân bài:
- Tả bao quát: toàn thân được phủ lớp lông vàng rực pha lẫn những chiếc lông
đen óng ánh, nặng khoảng 3kg.
- Tả đặc điểm từng bộ phận:
+ Đầu: cổ cao được bao phủ lớp ông mịn như nhung, mắt sáng, mào đỏ chót.
+ Chân: Vừa to, vừa cao, có lớp vảy sừng vàng sậm, có hai cựa nhọn hoắt.
+ Đuôi: Bộ lông đuôi dài, nhiều màu sắc, cong vút về phía sau.
- Tả đặc tính hoạt động:
+ Thói quen sinh hoạt: Buổi sáng thức dậy sớm, gáy vang.
+ Tính nết: chơi thân với gà mái.
3. Kết bài: Cảm nghĩ của em về vật nuôi đó: Như chiếc đồng hồ báo thức. Coi
như một thành viên trong gia đình.

Sau khi học sinh biết quan sát, tìm ý và lập dàn bài tôi hướng dẫn học sinh xây
dựng đoạn văn. Từ một bài văn mẫu học sinh xác định được đoạn văn thuộc phần
nào của bài văn, nội dung miêu tả ở từng đoạn văn và dấu hiệu nhận biết câu mở
đoạn…

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

5


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Trước hết tôi cho học sinh xác định đoạn mở bài qua các ví dụ cụ thể. Để viết
được một đoạn mở bài đúng yêu cầu và hay tôi cho học sinh nhắc lại kiến thức đã
học qua hệ thống câu hỏi gợi mở như: Có mấy kiểu mở bài, đó là những kiểu nào?
Thế nào là mở bài trực tiếp? Thế nào là mở bài gián tiếp?... Từ đó học sinh nắm
vững được nội dung của đoạn mở bài.
Ví dụ 3: Khi dạy bài Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả đồ vật.
Bài tập 1: Tôi cho học sinh đọc các đoạn mở bài cho sẵn sau đó trao đổi trong
bàn để tìm điểm giống nhau và khác nhau giữa các đoạn ấy. Học sinh sẽ rút ra được
kết luận điểm giống nhau: Các đoạn mở bài trên đều có mục đích giới thiệu đồ vật
định tả là chiếc cặp sách.
Điểm khác nhau: Đoạn a, b (mở bài trực tiếp) giới thiệu ngay vào đồ vật định
tả. Đoạn c (mở bài gián tiếp) nói chuyện khác để dẫn vào giới thiệu đồ vật định tả.
Từ phân tích bài tập 1, học sinh đã nắm vững hai kiểu mở bài từ đó sẽ làm tốt
bài tập 2 “Viết một đoạn mở bài cho bài văn miêu tả cái bàn học của em theo kiểu
mở bài trực tiếp và theo kiểu mở bài gián tiếp”.
Ví dụ về một mở bài trực tiếp: Nhân dịp sửa sang lại nhà cửa trong dịp hè vừa
qua, mẹ em đã mua cho em một bộ bàn ghế học sinh mới tinh, đẹp ơi là đẹp.

Ví dụ về một mở bài gián tiếp: Tôi rất yêu gia đình tôi, ngôi nhà của tôi. Ở đó
tôi có bố mẹ và em trai thân thương có những đồ vật, đồ chơi thân quen và một góc
học tập sáng sủa và nổi bật trong góc học tập đó là cái bàn học xinh xắn của tôi.
Tương tự, đối với việc xây dựng kết bài tôi cũng cho học sinh nhắc lại hai kiểu
kết bài: Kết bài không mở rộng và kết bài mở rộng. Để giúp học sinh viết được một
đoạn kết bài đúng yêu cầu, tôi gợi ý cho học sinh trả lời hệ thống câu hỏi, sau đó
viết thành một kết bài.
Ví dụ 4:Tuần 31, khi dạy bài luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
Bài tập 3( trang 130) Viết đoạn văn có chứa câu mở đoạn như sau:
Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp.
Để viết được đoạn văn có câu mở đoạn trên, tôi gợi ý để học sinh xác định đây
là đoạn tả hình dáng bên ngoài của chú gà. Học sinh cần viết các câu tả về thân
hình, bộ lông, cái đầu, mào, mắt, cánh, đôi chân, đuôi,… và các câu phải thể hiện
rõ chú gà trống đã ra dáng một chú gà trống đẹp. Sau đây là một đoạn văn mà học
sinh lớp tôi đã viết:
Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp. Chú có thân hình chắc nịch.
Bộ lông màu nâu óng ánh. Nổi bật nhất là cái đầu có chiếc mào đỏ rực. Đôi mắt
sáng. Đuôi của chú là một túm lông gồm các màu đen và xanh pha trộn, cao vống
lên rồi uốn cong xuống nom vừa mĩ miều vừa kiêu hãnh. Đôi chân chú cao, to nom
thật khoẻ với đôi cựa và những móng nhọn là vũ khí tự vệ thật lợi hại.
Sau khi học sinh đã biết viết đoạn văn tôi hướng dẫn các em sắp xếp thành một
bài văn hoàn chỉnh.
Như vậy: quan sát, tìm ý, dựng đoạn là việc làm hết sức cần thiết cho việc dạy
thể loại văn miêu tả.
Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

6



Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4

3.2. Giải pháp 2: Phân tích mẫu
Phân tích mẫu để giúp học sinh hiểu thấu đáo mẫu đã nêu ra và làm theo mẫu.
Để làm được điều này, giáo viên cần phải sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học kết hợp tổ chức nhiều hình thức dạy học phong phú. Về phương pháp cụ thể,
tôi thay những phương pháp thầy nói là chính, nói nhiều, nói dài bằng cách xen vào
đó đặt câu hỏi, yêu cầu học sinh lĩnh hội kiến thức… Xây dựng thói quen làm mới:
Giáo viên là người tổ chức, người hướng dẫn; học sinh hoạt động, chú ý tới từng cá
nhân học sinh, tôn trọng ý kiến của các em, không phê phán vội vàng, chủ quan…
Vì vậy phải bồi dưỡng rất nhiều về lí luận, về kiến thức văn miêu tả cũng như
phương pháp dạy bộ môn.
Tính chân thực đòi hỏi bài văn miêu tả phải có các chi tiết sát thực: Tả đúng
bản chất của đối tượng miêu tả, thể hiện những nét đẹp đẽ đúng đắn tư tưởng tình
cảm của học sinh với đối tượng miêu tả.
Trong biện pháp này tôi thường sử dụng phương pháp quan sát để học sinh
quan sát mẫu, đọc thầm mẫu. Sau đó sử dụng phương pháp vấn đáp gợi mở để học
sinh hiểu mẫu giúp cho việc định hướng bài học tốt hơn. Sau đó giáo viên sử dụng
phương pháp phân tích ngôn ngữ tóm lại những điều cơ bản mẫu nêu ra.
Như vậy văn bản dài giáo viên cần tổ chức hướng dẫn hoạt động học tập hợp
lý để học sinh nhận diện nhanh nhất.
Chẳng hạn, khi dạy bài ''Thế nào là miêu tả"?
Học sinh đọc yêu cầu, đọc thầm mẫu (hình thức học cá nhân).
Hãy quan sát mẫu và cho biết (phương pháp quan sát, phương pháp hỏi đáp
hình thức học cả lớp).
Hỏi: Tên sự vật đầu tiên được miêu tả là gì?
- Cây sòi
Hỏi: Cây sòi có đặc điểm gì nổi bật?
- Cao lớn, lá đỏ chói lọi, lá rập rình lay động như những đốm lửa.

Hỏi: "Cao lớn" tả về đặc điểm gì của cây sòi?
- Hình dáng.
Hỏi: "Lá đỏ chói lọi" miêu tả đặc điểm gì của cây sòi?
- Màu sắc.
Hỏi: Theo em, tác giả miêu tả lá cây sòi đang ở trạng thái nào?
- Chuyển động.
Hỏi: Từ nào cho biết lá của cây sòi đang ở trạng thái chuyển động?
- Rập rình.
Trong việc dạy văn không thể không chú ý đến việc dạy từ, dạy câu, phải dạy
cho học sinh biết suy nghĩ, tìm tòi, từ những câu đơn bình thường, tiến hành cho
các em biết viết câu hay, câu dài bằng cách thêm phần phụ, bằng các từ gợi cảm, so
sánh, nhân hoá (phép tu từ hoặc thay thế các từ gần nghĩa) sao cho sát hợp để cung
cấp vốn từ ngữ cho các em khi làm các thể loại văn khác nhau. Đã là văn thì tránh
Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

7


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
cho các em viết câu văn cộc lốc, không biết dùng biện pháp tu từ, nhân hóa, so
sánh…Đôi khi dạy cho các em biết sắp xếp lại những câu văn thành đoạn văn phù
hợp, cũng rất cần thiết để các em thấy được thứ tự, trình tự của văn miêu tả theo
thời gian, không gian hợp lí. Hoặc những bài văn cụ thể của các em chưa biết sắp
xếp ý. Tôi hướng dẫn cho những em đó và yêu cầu các em lập lại trình tự và thêm
bớt một số từ ngữ cần thiết vào bài viết của mình.
Phải nắm vững yêu cầu nội dung từng tiết dạy trong quá trình dạy học một thể
loại miêu tả: Phải quan sát- sắp xếp ý- lập dàn bài, dạy riêng phần mở bài, kết bàilàm bài viết, trả bài.
Mỗi tiết học trong quá trình trên có nhiệm vụ, yêu cầu và nội dung nhất định,

nhằm luyện tập một kĩ năng nào đó trong quá trình miêu tả. Vì thế mỗi tiết học
trong quy trình trên cần được đặt vào hệ thống chung khi phân tích, xem xét và
đánh giá. Làm như vậy sẽ tránh được thái độ nôn nóng, vội vàng dẫn đến tham lam,
nhồi nhét. Mỗi tiết học cần được tiến hành tới mức tốt nhất, việc thực hiện yêu cầu
và nội dung đề ra. Toàn bộ các tiết học trong một quy trình sẽ góp phần giúp cho
các em hiểu lí thuyết, hình thành các kĩ năng làm một thể văn miêu tả.
Vậy có thể dùng bài mẫu khi dạy văn miêu tả không? Tôi cũng vẫn dùng các
bài văn mẫu khi dạy học văn miêu tả. Điều đáng quan tâm nhất là dùng bài mẫu
vào lúc nào và dùng như thế nào?
Nếu dùng bài mẫu cho học sinh thuộc lòng để sao chép lại thì không nên. Tôi
muốn các hiểu biết và kĩ năng về văn miêu tả của các em tự hình thành một cách tự
giác. Chủ yếu qua hoạt động thực hành. Tôi coi các bài văn mẫu có thể được dùng
vào một khâu nào đó của quá trình giảng dạy như phân tích kết cấu, phân tích cách
diễn đạt vì câu văn có hình ảnh, cảm xúc… nhưng tuyệt đối không buộc học sinh
viết như mẫu mà xem đó là bài viết tham khảo.
Tóm lại: Trong quá trình dạy học tôi thấy rằng, bản thân phải có nhiều vốn
sống, vốn hiểu biết phong phú thì cung cấp kiến thức cho các em mới được đảm
bảo đầy đủ.
Để khắc phục được những nhược điểm trong dạy và học nói chung, dạy tập
làm văn nói riêng. Tôi quyết tâm đem hết khả năng của mình để học hỏi kinh
nghiệm giảng dạy và tự giác nghiên cứu, đọc nhiều sách có liên quan đến việc dạy
học. Không ngừng tôi luyện phương pháp giảng dạy để cung cấp tư liệu kiến thức
cần thiết. Chắc chắn cùng với phương pháp giảng dạy nhuần nhuyễn, học sinh sẽ
yên tâm và tin tưởng ở thầy( cô) nhiều hơn.
3.3. Giải pháp 3: Giúp học sinh lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ và bộc lộ cảm
xúc trong bài văn miêu tả.
Ngôn ngữ miêu tả góp phần nhiều nhất làm cho bài văn miêu tả sinh động, gợi
hình, gợi cảm xúc. Tôi đã hướng dẫn học sinh khi miêu tả nên dùng nhiều các danh
từ cụ thể, động từ, tính từ chỉ mức độ, đặc biệt cần sử dụng đúng chỗ các từ tượng
thanh, tượng hình. Bên cạnh đó, học sinh cần có thói quen sử dụng một số biện

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

8


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
pháp tu từ thường dùng: so sánh, nhân hoá…khi miêu tả để bài văn được sinh động,
gợi hình ảnh và cảm xúc.
So sánh là biện pháp tạo hình, khiến sự vật được so sánh trở nên đẹp đẽ, sinh
động, hấp dẫn, lôi cuốn và gợi liên tưởng cho người đọc. So sánh có giá trị gợi âm
thanh, hình ảnh. Sử dụng so sánh trong bài văn miêu tả còn là cách thức làm đẹp
ngôn từ. Trong văn miêu tả có rất nhiều hình ảnh so sánh, cách so sánh khác nhau.
Có khi so sánh quả với vật “Trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành trông giống như
những tổ kiến”; người với cây cối “Ông lão như cây lim, cây sến giữa rừng”; loài
vật với đồ vật “Chú gà trống như một chiếc đồng hồ báo thức”,…Cũng có khi có
những so sánh khác, chẳng hạn “Nước sông xanh biếc như bầu trời mùa thu” hay
“Những chú bọ ngựa bé tí như con muỗi, màu xanh cốm.” Có thể thấy sự thành
công và sáng tạo của Tô hoài trong việc sử dụng biện pháp so sánh trong đoạn văn
sau: “Đầu hung dữ như chiếc nắm đấm, chân cứng như hai thanh sắt, tiếng gáy ồ ồ
như nước mưa rào chảy vào vành cống hẹp.”. Hiển hiện trước mắt mọi người một
chú gà chọi như được tạc bằng đồng với những đường nét thật là động, sắc sảo.
Nhân hoá đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ
khi còn trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái ốc. Rồi những
câu chuyện cổ tích của bà, của cô giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế giới
phong phú của nghệ thuật nhân hoá. Không cần phải dạy nhiều, ta chỉ cần giới
thiệu học sinh sẽ nhanh chóng nắm được ngay.
Để học sinh thấy được sự ưu việt của biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho các
em so sánh các cặp ví dụ cụ thể:

1. Thân chuối màu đen khô ráp vì nắng gió.
2. Chị Chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió.
1. Gà Mái Mơ nuôi con rất khéo.
2. Chị gà Mái Mơ dịu hiền chăm sóc con thật khéo léo.
1. Những con gà chạy lung tung khắp nơi.
2. Những bé Gà hiếu động tung tăng chạy khắp nơi.
1. Gốc hồng màu đen xám.
2. Gốc hồng như một người mẹ già đi trong bộ áo xám đen nhường sắc non
xanh cho hoa, cho lá.
1. Bông hồng nhung vươn cao.
2. Cô Hồng Nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp của
mình.
1. Nắng chiếu đầy vòm lá.
2. Những tia nắng tinh nghịch đùa trên vòm lá.
v.v .
Không khó khăn cho học sinh trong việc lựa chọn, tất cả đều có chung một câu
trả lời: Câu văn thứ hai hay hơn câu văn thứ nhất.
“ Nó hay hơn vì sao?”. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi nghĩ
giáo viên cần lời giải: Câu thứ 2 hay hơn vì đó sử dụng biện pháp nhân hóa: Chị
Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

9


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Mái Mơ, chị Chuối, bé Gà, cô Hồng Nhung… trở nên sinh động, đáng yêu vì đã có
những suy nghĩ, tính cách của con người.
Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện pháp này, tôi giới thiệu cho

các em cách nhân hóa sự vật.
Gọi tên sự vật.
Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cô Trăng, chị Gió, bác
Mặt Trời, anh Gà Trống, chị Mái Mơ, bác Mèo Mướp, chị Chuối Tiêu.
Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật.
- Hoa quỳnh trầm tư.
- Đào bích cười tươi roi rói.
- Phong lan yểu điệu.
- Chị Mái Mơ hiền lành.
- Những bé Gà ngơ ngác.
- Nắng nhảy nhót.
- Trăng tinh nghịch nhòm qua cửa sổ.
- Quyển vở sung sướng, hãnh diện khoe điểm 10 đỏ chói v.v.
Song song với việc giới thiệu, tôi thường dành thời gian đọc cho các em nghe
những câu chuyện có sử dụng nhiều biện pháp nhân hóa như: Dế Mèn phiêu lưu kí,
Võ sĩ Bọ Ngựa, Hai con ngỗng của nhà văn Tô Hoài (tiến hành vào tiết Sinh hoạt
tập thể, Kể chuyện).
Nhắc học sinh liên tưởng đến các câu chuyện cổ tích có các con vật đáng yêu,
thông minh, tinh nghịch. Đó là những câu mẫu mực cho học sinh tập, để nắm được
cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.
Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này ta cho các
em luyện tập ngay một số dạng bài tập:
1. Tập nhân hóa các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh.
2. Nêu tâm trạng của các loài hoa vào mùa xuân?
3. Tưởng tượng ra cuộc trò chuyện của bầy chim, những chú chó, mèo?
4. Chị Mái Mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những cử
chỉ, lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó?
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu “cảm xúc”
của người viết. Cảm xúc không chỉ có ở phần kết luận. Nó phải được thấm đậm
trong từng câu, từng lời của bài văn. Đối với học sinh nhỏ thì điều này thật là trừu

tượng.
Bởi vậy ta không nên đòi hỏi các em một cách chung chung. Các em lồng
được tình cảm của mình vào từng ý văn, giáo viên nên gợi ý cụ thể như sau:
- Hoa hồng đẹp đến khó tả được. Khi ngắm nhìn hoa em cảm thấy như thế
nào? (Hoa đẹp lộng lẫy say đắm lòng người).
- Hương chuối chín thơm lừng gợi cho em cảm giác như thế nào? (Thèm được
ăn ghê lắm).
- Được ăn trái ngon em có suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn).
Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

10


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Tương tự như vậy ta cần “bắt” học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận xét cảm
xúc của mình trước một vật, sự việc. Bài văn sẽ không đơn giản là sự liệt kê mà nó
phải thấm đẫm các suy nghĩ, cảm xúc của người viết.
3.4. Giải pháp 4: Tăng cường nhận xét, đánh giá và chữa bài cho học sinh.
Ngoài thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá định kì vào cuối kì giáo viên cần tổ
chức tốt việc nhận xét, đánh giá ngay trong các tiết học. Trong khi chấm bài văn là
xem xét cả nội dung và hình thức bài văn trong thể tổng hoà, sau đó đánh giá và
nhận xét.
Có thể tạm thời tách bạch một số yếu tố như cách dùng từ, đặt câu, lỗi chính
tả, bố cục, nội dung tả từng phần, từng mặt. Khi xem xét một bài văn miêu tả chúng
ta cần đặt câu hỏi: Bài làm có miêu tả chân thực đối tượng miêu tả hay không? Bài
văn càng miêu tả chân thực càng được đánh giá cao. Bài văn sáo rỗng, khuôn mẫu
thì dù câu văn trôi chảy, thậm chí “bay bướm” cũng không thể đánh giá cao.
Cần dựa vào khía cạnh sau để đánh giá một bài văn miêu tả chân thực.

- Đối tượng được miêu tả đúng với bản chất của nó chưa? Các chi tiết trong
bài có thực không? Có đúng, chính xác, hợp lí không? Có cụ thể, sinh động không?
- Tư tưởng tình cảm các em bộc lộ trong bài có thực không? Có gắn với đối
tượng miêu tả không? Có thể hiện những nét đúng đắn trong nhân cách người học
sinh không?
Cần đánh giá một cách thường xuyên, liên tục. Uốn nắn kịp thời những sai
lệch đặc biệt là cách diễn đạt.
Tạo điều kiện để nhận xét được nhiều học sinh với đầy đủ các đối tượng.
4. Hiệu quả.
Sau một năm nghiên cứu, vận dụng tổng hợp những thủ thuật trên vào các tiết
dạy học văn miêu tả. Bằng cả sự lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ
của trò. Chất lượng học văn của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết
được những câu văn gãy gọn, mạch lạc, các em đã xây dựng được những bài văn
hay, câu văn giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Tôi xin đưa ra một số bài văn điển hình
của các học sinh lớp tôi.
* Bài số 1: Đề bài: Tả chiếc áo mà em thích.
Bài làm:
Em có một tủ quần áo với rất nhiều quần áo đẹp. Nhưng em thích nhất chiếc
áo trắng đồng phục mùa hè. Đây là chiếc áo, em được mẹ may cho từ đầu năm học.
Đó là một chiếc áo sơ mi trắng tinh. Màu trắng tinh khôi của tuổi học trò, tuy
giản dị nhưng với em nó thật đẹp. Quanh cổ và ống tay áo được trang trí thêm
đường diềm kẻ sọc màu nâu xen lẫn màu đen, rất khoẻ khoắn. Bên ống tay trái may
thêm một chiếc túi xinh xắn và cặp cầu vai bồng bồng. Thân áo hình chữ A mặc lên
người nhìn rất điệu đà, hợp với học sinh chúng em. Áo may bằng vải phin trắng,

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

11



Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
đặc biệt thấm mồ hôi vào những ngày hè nóng bức. Chính vì vậy em thấy rất tự tin
và thoái mái mỗi khi mặc nó.
Hàng tuần, cứ vào thứ hai, thứ tư, thứ sáu em lại khoác trên người tấm áo thân
yêu. Sân trường em dường như dịu đi dưới cái nắng hè chói chang nhờ những tấm
áo màu trắng ấy. Nhìn từ trên cao xuống, sân truờng em như có hàng trăm chú cò
đang bay lượn.
Em luôn hãnh diện và tự nhủ phải luôn cố học thật tốt để xứng đáng là con
ngoan trò giỏi.
Lê Thị Ngọc Trâm - Lớp 4A
* Bài số 2: Đề bài: Tả cây bóng mát hoặc cây hoa em thích.
Bài làm:
Mảnh vườn xinh xắn nhà em có rất nhiều hoa nhưng nổi bật nhất là cây hoa
hồng nhung. Bố em trồng từ mùa xuân năm ngoái.
Nhìn từ xa, cây hoa hồng giống như một cây nấm màu xanh điểm xuyết vài
chấm đỏ. Khi lại gần ta mới thấy hết vẻ đẹp tuyệt vời của cây. Thân cây thâm thấp,
gốc như một người mẹ giản dị khoác tấm áo màu nâu xám nhường sắc xanh tươi,
đỏ thắm cho lá, cho hoa. Cành cây khẳng khiu đan chéo vào nhau vươn ra mọi
phía. Đôi ba mầm non mới nhú lên mập mạp đầy sức sống. Rải rác trên cành lá
những chú lính gai nhọn hoắt đứng trang nghiêm canh gác cho nàng công chúa hoa
hồng. Lá cây cũng lạ lắm, chúng được viền một hàng răng cưa màu tía đều đặn.
Đầu cành những chùm lộc non màu nâu đỏ mỡ màng vươn mình đón những tia
nắng ban mai ấm áp.
Nổi bật trên nền lá xanh là những bông hoa đỏ thắm, đẹp lạ lùng. Cánh hoa
mịn màng như nhung, cuốn quanh vầng nhuỵ. Đôi ba nụ hồng chúm chím e lệ, lấp
ló trong nền áo xanh mỏng. Một vài bông muốn khoe hết vẻ đẹp của mình, xoè
rộng từng chiếc cánh, phô vầng nhuỵ vàng óng, thật lộng lẫy, ngào ngạt toả hương
thơm. Mùi hương quyến rũ, lũ ong bướm bay tới như đi hội. Hoa hồng đẹp nhất

vào buổi sáng sớm, khi ấy những hạt sương còn đọng trên cánh hoa, lấp lánh như
những hạt ngọc. Ai đi qua cũng phải trầm trồ khen “Hoa hồng đẹp quá!”. Chủ nhật
hay ngày lễ, mẹ em thường ngắt vài bông hoa mang vào nhà cắm.
Hoa đã làm đẹp cho cuộc đời, đem niềm vui đến cho mọi người. Ngày nào em
cũng dậy thật sớm để tưới cho cây. Chăm sóc cây hoa là một việc làm thú vị phải
không các bạn?
Lê Thị Hường – Lớp 4A
* Bài số 3: Đề bài: Em hãy tả một con gà mái dẫn đàn con đi kiếm mồi.
Bài làm:
Sáng sớm ông mặt trời tỉnh giấc, vươn vai, vén màn rọi những tia nắng ban
mai xuống làng quê, cảnh vật thay đổi, tươi tỉnh hẳn. Chị Mái Mơ dẫn đàn con đi
kiếm ăn.
Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

12


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Đàn gà trông thật xinh xắn, chúng kêu liếp nhiếp chạy quanh chân mẹ giống
như cái kén vàng ươm biết cử động. Đôi mắt chúng ngơ ngác nhìn quanh tỏ vẻ lạ
lùng, giống như những em bé mới cất tiếng khóc chào đời. Đôi chân nhỏ xíu như
chiếc tăm màu hồng hồng. Cái mỏ như hai vỏ trấu chắp lại nhưng em chắc rằng
chúng phải cứng cáp hơn nhiều. Trông đàn gà con bé bỏng, tuổi thơ lại chợt hiện về
với bao ký ức đẹp đẽ. Con gà mái mẹ thì lo lắng để mắt đến con mình. Đôi mắt ấy
mới dịu dàng làm sao, nó cứ dõi theo từng bước chân của đàn con nhỏ. Chân chị
bước thong thả cho đàn con kịp theo. Thấy mẹ “lục tục”, đàn con ùa về chân mẹ để
được chia phần. Trên mặt chị Mái Mơ hiện rõ niềm vui. Khi mặt trời lên cao, đôi
cánh của chị đủ rộng che mát cho cả đàn con của mình. Chú trống choai thấy mẹ

con gà Mái Mơ đi kiếm ăn ở vườn lạ cũng đi theo. Thỉnh thoảng chú lại cất giọng
gáy lanh lảnh của mình cho tất cả cùng nghe. Gió nhẹ thổi làm cỏ cây rung rinh.
Trên cành cây chim hót véo von.
Nhìn đàn gà con đáng yêu lòng em tràn ngập niềm vui. Em mong sao các chú
gà con nhanh lớn để có thêm đàn gà con mới.
Nguyễn Thị Thùy–Lớp 4A
Dưới đây là kết quả làm văn miêu tả của học sinh lớp 4A do tôi phụ trách
giảng dạy sau khi đã áp dụng sáng kiến:
Sĩ số
28 em

Hoàn thành
SL
28 em

TL
100%

Chưa hoàn thành
SL
TL
0

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Trên đây là một số kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Điều này
mới chỉ là sự thực nghiệm của cá nhân tôi. Tôi thấy đây cũng là cơ sở bước đầu
khẳng định rằng, để dạy tốt văn miêu tả cho học sinh lớp 4 đòi hỏi người giáo viên
phải vận dụng các tri thức, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm một cách hợp lí. Trong giờ
học giáo viên phải uốn nắn, hướng dẫn các em nhận xét, chuẩn bị ứng phó với các

tình huống sư phạm. Giờ Tập làm văn đảm bảo theo hướng đổi mới phương pháp
dạy học, lấy học sinh làm trung tâm, các em được học tập tích cực, chủ động và
sáng tạo suy nghĩ độc lập, tự nhiên, không gò bó, rập khuôn máy móc. Tuy nhiên,
học sinh vẫn còn một số khó khăn khi quan sát, tìm ý để viết bài. Chính vì vậy, đòi
hỏi giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong việc hướng dẫn cho học sinh, động viên
và khuyến khích các em mạnh dạn, tích cực hơn. Có như thế thì chất lượng học tập
Tập làm văn của học sinh mới được nâng cao và công việc giảng dạy của người
giáo viên mới đạt hiệu quả.

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

13


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4
2. Kiến nghị. Để có được sự chuyển biến đồng bộ trong dạy – học văn miêu tả cho
học sinh lớp 4, tôi mạnh dạn có một số đề xuất sau:
Đối với giáo viên:
- Phải có một quan niệm mới về môn học: Phân môn Tập làm văn là môn học
sáng tạo chứ không phải sao chép,…Là môn học tổng hợp kiến thức của các môn
học khác và kiến thức của cuộc sống, là môn tổng hợp các kĩ năng (kĩ năng sống, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng trình bày và tạo lập văn bản,...)
- Nghiêm túc thực hiện việc Giáo dục toàn diện cho học sinh.
- Luôn học hỏi, trau dồi kiến thức để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ đáp ứng với yêu cầu đổi mới của xã hội.
Đối với phòng giáo dục:
- Phòng giáo dục nên tổ chức nhiều buổi hội thảo cụm, lên lớp các tiết tập làm
văn khó để chúng tôi có điều kiện giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các đồng

nghiệp. Đồng thời chúng tôi cũng kịp thời nắm bắt ý kiến chỉ đạo về chuyên môn
từ phía các đồng chí chuyên viên Phòng giáo dục.
- Do năng lực và thời gian nghiên cứu có hạn, phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp
và kinh nghiệm bản thân chưa nhiều, bản thân tôi chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót khi viết sáng kiến kinh nghiệm này. Vì vậy, tôi rất mong được sự
nhận xét đóng góp chân thành của đồng nghiệp để giải pháp này đi vào thực tiễn
dạy học thiết thực và hiệu quả hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Sầm Sơn, ngày 30 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác .
Người viết sáng kiến

Đoàn Thị Bình

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

14


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4

MỤC LỤC
STT


Trang

Nội dung

I

MỞ ĐẦU

1

1

Lí do chọn đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu.

1

3

Đối tượng nghiên cứu.

1

4


Phương pháp nghiên cứu.

1

II

NỘI DUNG

1

1

Cơ sở lí luận .

1

2

Thực trạng .

2

3

Các giải pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh
lớp 4.

4

3.1


Giải pháp 1: Tổ chức tốt việc quan sát – tìm ý và dựng đoạn
cho học sinh.

4

3.2

Giải pháp 2: Phân tích mẫu.

7

3.3

8
11

4

Giải pháp 3: Giúp học sinh lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ và bộc
lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả.
Giải pháp 4: Tăng cường nhận xét, đánh giá và chữa bài cho
học sinh.
Hiệu quả

III

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

13


1

Kết luận

13

2

Kiến nghị

14

3.4

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

11

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

15


Sáng kiến kinh nghiệm: Kinh nghiệm dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục 2005
2. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II.
tác giả: GSTS Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - Hà Nội 1995

3. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Năm 2005 - Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2005
5. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản
Giáo dục - năm 1999.

Trường Tiểu học Trung Sơn 2

Giáo viên: Đoàn Thị Bình

16



×