Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.25 KB, 30 trang )


1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI DƯƠNG


KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC
SINH LỚP 4
MÔN: TIẾNG VIỆT
LỚP: 4

NHẬN XÉT CHUNG:








ĐIỂM THỐNG NHẤT
Bằng số:
Bằng chữ:

Giám khảo số 1:

Giám khảo số 2:



NĂM HỌC : 2009 - 2010




2

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI DƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆP HOÀ


SỐ PHÁCH




KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC
SINH LỚP 4
.


MÔN: TIẾNG VIỆT

LỚP: 4
TÁC GIẢ:
Nguyễn Thị Hằng
ĐÁNH GIÁ CỦA NHÀ TRƯỜNG
(Nhận xét, xếp loại, ký, đóng dấu)

















3


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI DƯƠNG

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KINH MÔN

SỐ PHÁCH SỐ PHÁCH



KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH

LỚP 4.


MÔN: TIẾNG VIỆT

LỚP: 4
ĐÁNH GIÁ CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Nhận xét, xếp loại, ký, đóng dấu)













Tên tác giả:
Đơn vị công tác:




4



Phần I: MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hoạt động lời nói gồm hai bình diện: sản sinh và tiếp nhận văn bản. Phân môn
Tập làm văn (TLV) rèn cho học sinh các kĩ năng sản sinh ngôn bản. Nó có vị trí đặc
biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì: phân môn TLV sử dụng và hoàn
thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng tiếng Việt mà các phân môn Tiếng
Việt khác đã hình thành; rèn cho học sinh kĩ năng sản sinh ngôn bản, nhờ đó tiếng
Việt không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn và trở thành
một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Do vậy, phân môn TLV đã thực hiện mục tiêu
cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng được
tiếng Việt để giao tiếp, tư duy, học tập.
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập tiếng Việt, chữ viết với
phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học. Học
sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn học khác khi có kiến thức tiếng Việt. Bởi
đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin
và chiếm lĩnh tri thức. Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có nhiệm vụ
hoàn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ
được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc,
viết. Từ đó, các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập lứa tuổi,
giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở lớp trên.
Trong môn Tiếng Việt có nhiều phân môn( Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập
đọc, Luyện từ và câu), mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định,
chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt Tiếng Việt. Trong đó, TLV là phân môn
mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Tập
làm văn, viết văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học tiếng Việt ở
tiểu học. Đối với học sinh tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã là
khó; để nói, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính
là cái đích mà phân môn TLV đòi hỏi người học cần dần đạt tới. Từ đó, các em được
mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình
thành nhân cách.

Chương trình TLV ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ lớp 2, 3, các
em đã được làm quen với văn miêu tả khi được tập quan sát và trả lời câu hỏi. Lên
lớp 4, các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý,
viết đoạn văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật, cây cối hoặc con
vật- những đối tượng gần gũi và thân thiết của các em.


5

Để hoàn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường rất khó khăn. Do
đặc điểm tâm lí, học sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát
chưa tinh tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn
miêu tả, học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả,…hoặc không biết
cách diễn đạt điều muốn tả.
Đối với giáo viên đây cũng là loại bài khó dạy. Giáo viên còn thiếu linh hoạt
trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học
tập của học sinh. Vì vậy, không phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả
mong muốn, và không phải giáo viên giáo viên nào cũng dạy tốt văn miêu tả. Việc
tìm tòi phương pháp để hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng
tượng,…còn nhiều hạn chế.
Do đó, tôi đã nghiên cứu kinh nghiệm: “Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học
sinh lớp 4” với hi vọng góp phần nâng cao trình độ của bản thân, nâng cao chất
lượng dạy- học văn miêu tả ở lớp 4. Qua đây, tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến
trao đổi của đồng nghiệp để đề tài thực sự có giá trị trong dạy- học TLV lớp 4.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Giúp học sinh lớp 4:
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em.

- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
2. Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV nói chung
và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy- học văn miêu tả lớp 4.
2. Thực trạng dạy- học văn miêu tả ở lớp 4.
3. Một số biện pháp day- học văn miêu tả lớp 4.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài


6

- Nghiên cứu nội dung chương trình TLV 4 mạch kiến thức: Dạy viết văn miêu tả.
2. Phương pháp quan sát sư phạm
- Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên
và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy- học phân môn TLV trong trường Tiểu học.
- So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các giai
đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng cả với những năm học trước.
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học TLV của học sinh lớp mình, học sinh
lớp khác trong khi đi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm của giáo viên giảng dạy,
quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng miêu tả khác nhau để tìm hiểu
những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng viết văn miêu tả của học sinh.
3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán học và phương pháp tổng hợp

số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của từng học sinh, tôi mô tả
và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các số liệu đã
thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân.
4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Dạy tiết Luyện tập miêu tả cây cối.
V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: - Loại thể văn miêu tả lớp 4.
- Học sinh lớp 4 trường trường tôi công tác.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Các dạng văn miêu tả ở lớp 4: Miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật.
- Thực trạng dạy- học viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 trường tôi công tác năm
học 2009- 2010.










7



Phần II. NỘI DUNG
I. TÌM HIỂU MỤC TIÊU, NỘI DUNG DẠY VĂN MIÊU TẢ LỚP 4
1. Mục tiêu của dạy viết văn miêu tả lớp 4
a/ Yêu cầu kiến thức: Thể loại văn miêu tả.

- Học sinh phải hiểu thế nào là miêu tả?
- Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối.
- Miêu tả con vật : Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
b/ Yêu cầu kỹ năng: Chương trình TLV miêu tả( nhằm trang bị cho học sinh những
kĩ năng sản sinh ngôn bản), cụ thể:
- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp: Nhận diện đặc điểm văn bản; phân tích đề
bài, xác định yêu cầu.
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp: Xác định dàn ý của bài văn đã cho;
quan sát đối tượng tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả
- Kĩ năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp: Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân
với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt; sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
2. Nội dung chương trình TLV miêu tả lớp 4
Chương trình TLV lớp 4 được thiết kế tổng cộng 62 tiết/ năm. Trong đó, văn
miêu tả gồm có 30 tiết được phân bố như sau:
HỆ THỐNG VĂN MIÊU TẢ LỚP 4 ( HKI & HKII)
TUẦN

TÊN BÀI MỤC TIÊU
Tuần
14

1. Thế nào
là văn miêu
tả


2. C
ấu tạo
bài văn miêu

tả đồ vật
Hiểu được thế nào là miêu tả.
Nhận biết được câu văn miêu tả trong truyện Chú Đất
Nung; bước đầu viết được 1,2 câu miêu tả một trong những
hình ảnh yêu thích trong bài thơ Mưa.

Nắm được cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật, các kiểu mở bài,
kết bài, trình tự miêu tả trong phần thân bài.
Biết vận dụng để viết mở bài, kết bài cho một bài văn miêu
tả cái trống trường.


8

Tuần
15

1. Luyện
tập miêu tả
đồ vật




2. Quan sát
đồ vật

Nắm vững cấu tạo 3 phần( mở bài, thân bài, kết bài) của
bài văn miêu tả đồ vật và trình tự miêu tả; hiểu vai trò của
quan sát trong việc miêu tả những chi tiết của bài văn, sự

xen kẽ của lời tả với lời kể.
Lập được dàn ý cho bài văn tả chiếc áo mặc đến lớp.

Biết quan sát đồ vật theo một trình tự hợp lí, bằng nhiều
cách khác nhau; phát hiện được đặc điểm phân biệt đồ vật
đó với đồ vật khác; dựa vào kết quả quan sát, biết lập dàn ý
để tả một đồ chơi quen thuộc.
Tuần
16
Luyện tập
miêu tả đồ
vật
Dựa vào dàn ý đã lập(TLV, tuần 15), viết được một bài
văn miêu tả đồ chơi em thích với ba phần: mở bài, thân bài,
kết bài.
Tuần
17
1. Đoạn văn
trong bài
văn miêu tả
đồ vật.

2. LT xây
dựng đoạn
văn miêu tả
đồ vật
Hiểu được cấu tạo cơ bản của đoạn văn trong b
ài văn miêu
tả đồ vật, hình thức thể hiện giúp nhận biết mỗi đoạn văn.
Nhận biết được cấu tạo của đoạn văn; viết được một đoạn

văn tả bao quát một chiếc bút.

Nhận biết được đoạn văn thuộc phần nào trong bài văn
miêu tả, nội dung miêu tả của từng đoạn, dấu hiệu mở đầu
đoạn văn; viết được đoạn văn tả hình dáng bên ngoài, đoạn
văn tả đặc điểm bên trong của chiếc cặp sách.


Tuần
19

1. LT
xây
d
ựng mở b
ài
trong bài văn
miêu
tả đồ vật


2. LT
xây
d
ựng kết
bài
trong bài văn
miêu t
ả đồ vật


Nắm vững hai cách mở bài (trực tiếp, gián tiếp) trong bài
văn tả đồ vật.
Viết được đoạn mở bài cho một bài văn miêu tả đồ vật
theo hai cách trên.
Nắm vững hai cách kết bài (mở rộng, không mở rộng)
trong bài văn tả đồ vật.
Viết được đoạn kết bài mở rộng cho một bài văn miêu tả
đồ vật.
Tuần
20
Miêu tả đồ
vật( Kiểm
tra viết)
Biết viết hoàn chỉnh bài văn tả đồ vật đúng yêu cầu của đề
bài, có đủ 3 phần( mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt thành
câu rõ ý.


9

Tuần
21
1. Trả bài
văn miêu tả
đồ vật

2. Cấu tạo
bài văn
miêu tả cây
cối


Biết rút kinh nghiệm về bài TLV tả đồ vật( đúng ý, bố cục
rõ, dùng từ, đặt câu và viết đúng chính tả,…); tự sửa được
các lỗi đã mắc trong bài viết theo sự hướng dẫn của GV.

Nắm được cấu tạo 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài) của
một bài văn tả cây cối.
Nhận biết được trình tự miêu tả trong bài văn tả cây cối;
biết lập dàn ý miêu tả một cây ăn quả quen thuộc theo 1
trong 2 cách đã học.
Tuần
22
1. Luy
ện tập
qua sát cây
cối



2. LT miêu t

các b
ộ phận
của cây cối
Biết quan sát cây cối theo trình tự hợp lí, kết hợp các giác
quan khi quan sát; bước đầu nhận ra được sự giống nhau
giữa miêu tả một loài cây với miêu tả một cái cây.
Ghi lại được các ý quan sát về một cây em thích theo một
trình tự nhất định.


Nhận biết được một số điểm đặc sắc trong cách quan sát v
à
miêu tả các bộ phận của cây cối trong đoạn văn mẫu; vi
ết
được một đoạn văn ngắn tả lá( thân, gốc) một cây em thích.
Tuần
23

1. LT miêu t

các b
ộ phận
c
ủa cây cối

2. Đoạn văn
trong bài
văn miêu tả
cây cối
Nhận biết được một số điểm đặc sắc trong cách quan sát v
à
miêu tả các bộ phận của cây cối (hoa, quả) trong đoạn vă
n
mẫu; viết được một đoạn văn ngắn tả một loài hoa em thích.


Nắm được đặc điểm nội dung và hình thức của đoạn văn
trong bài văn miêu tả cây cối.
Nhận biết và bước đầu biết cách xây dựng một đoạn nói
về lợi ích của loài cây em biết.

Tuần
24
L
T xây d
ựng
đ
o
ạn văn
miêu
tả cây cối

Vận dụng những hiểu biết về đoạn văn trong bài văn tả
cây cối đã học để viết được một số đoạn văn( còn thiếu ý)
cho hoàn chỉnh.
Tuần
25
LT xây d
ựng
mở b
ài trong
bài văn miêu
tả cây cối
Nắm được 2 cách mở bài (trực tiếp, gián tiếp) trong bài
văn miêu tả cây cối; vận dụng kiến thức đã biết để viết
được đoạn mở bài cho bài văn tả một cây mà em biết.
Tuần
26
1. LT xây
dựng mở b
ài

trong bài văn
Nắm được 2 cách kết bài (mở rộng, không mở rộng) trong
bài văn miêu tả cây cối; vận dụng kiến thức đã biết để bước



10

miêu t
ả cây
cối
2. Luyện
tập miêu tả
cây cối
đầu viết được đoạn kết bài mở rộng cho bài văn tả một cây
mà em thích.
Lập được dàn ý sơ lược bài văn tả cây cối nêu trong đề bài.
Dựa vào dàn ý đã lập, bước đầu viết được các đoạn thân
bài, mở bài, kết bài cho bài văn tả cây cối xác định.
Tuần
27
1. Miêu tả
cây cối
(Kiểm tra
viết)

2. Trả bài
văn miêu tả
cây cối
Viết được một bài văn hoàn chỉnh bài văn tả cây cối

theo gợi ý đề bài trong sgk( hoặc đề bài do GV lựa chọn),
biết viết đủ 3 phần( mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt
thành câu, lời tả tự nhiên, rõ ý.

Biết rút kinh nghiệm về bài TLV tả cây cối ( đúng ý, b
ố cục
rõ, dùng từ, đặt câu và viết đúng chính tả,…); tự sửa đư
ợc
các lỗi đã mắc trong bài viết theo sự hướng dẫn của GV.
Tuần
29
Cấu tạo của
bài văn
miêu tả con
vật
Nhận biết được 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài) của bài
văn tả con vật.
Biết vận dụng những hiểu biết về cấu tạo bài văn tả con
vật để lập dàn ý tả một con vật nuôi trong nhà.
Tuần
30
Luyện tập
quan sát
con vật
Nêu được nhận xét về cách quan sát và miêu tả con vật
qua bài văn Đàn ngan mới nở; bước đầu biết cách quan sát
một con vật để chọn lọc các chi tiết nổi bật về ngoại hình,
hoạt động và tìm từ ngữ để miêu tả con vật đó.
Tuần
31

1. LT miêu t

các b
ộ phận
của con vật

2. LT xây
dựng đoạn
văn miêu tả
con vật
Nhận biết được những nét tả bộ phận chính c
ủa con vật
trong đoạn văn; quan sát các bộ phận của con vật em y
êu
thích và bước đầu tìm được những từ ngữ miêu tả thích hợp.


Nhận biết được đoạn văn và ý chính của từng đoạn trong
bài văn tả con chuồn chuồn nước; biết sắp xếp các câu cho
trước thành một đoạn văn; bước đầu viết được một đoạn
văn có câu mở đầu cho sẵn.
Tuần
32
1. LT xây
dựng đoạn
văn miêu tả
con vật

2. LT
xây

Nhận biết được: đoạn văn và ý chính của đoạn trong bài
văn tả vật, đặc điểm hình dáng bên ngoài và hoạt động của
con vật được miêu tả trong bài văn; bước đầu vận dụng kiến
thức đã học để viết được đoạn văn tả ngoại hình, tả hoạt
động của một con vật em yêu thích.
Nắm vững kiến thức đã học về đoạn mở bài, kết bài


11

dựng mở b
ài,
kết b
ài trong
bài văn miêu
tả con vật.
trong bài văn miêu tả con vật để thực hành luyện tập; bước
đầu viết được đoạn mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng cho
bài văn tả con vật yêu thích.
Dạy học văn miêu tả có thể chia thành hai phần: Dạy lí thuyết và dạy thực hành.
II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ LỚP 4
1. Thuận lợi
Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn có hiệu quả,
nâng cao tay nghề cho giáo viên.
Tổ chuyên môn đã tổ chức chuyên đề dạy học TLV lớp 4+5.
Giáo viên đều được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham
khảo, các phương tiện dạy học như máy chiếu để dạy bằng điện tử…Đội ngũ giáo
viên có năng lực, yêu nghề đã áp dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh linh hoạt và hiệu quả.
Từ lớp 2, 3 học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu

tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.
Đối tượng miêu tả khá gần gũi với học sinh nông thôn( cây bàng, con gà,…).
Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc
vá sức sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật, con vật, cây
cối là những người bạn thân thiết, gần gũi mà các em có thể tâm tư, chia sẻ tình cảm
của mình. Đặc điểm tâm lí này rất thuận lợi cho việc khơi gợi ở các em những cảm
xúc miêu tả bất ngờ, thú vị,…
2. Khó khăn
Như ta đã biết, sản phẩm của TLV là các ngôn bản ở dạng nói, dạng viết theo các
dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của việc học văn
miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hoá, văn minh của
một người, đối với học sinh, chứng tỏ tư duy logic, tư duy hình tượng đã phát triển ở
một mức độ nhất định.
Nhưng lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành
bài văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế, nhất là với
học sinh ở các trường nông thôn trong địa bàn chúng tôi. Mỗi bài văn miêu tả hay lại
đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế
cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc sắp xếp ý còn lộn xộn,
lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một


12

cách sống sượng bài văn mẫu. Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó là điều trăn trở của tôi
cũng như các giáo viên khác trong khối.
Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi đã luôn tìm tòi, tham khảo tài liệu,
trao đổi với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm, với giảng viên ở trường Đại học để nắm
bắt những phương pháp tối ưu nhất phục vụ quá trình giảng dạy.
Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết việc
tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học sinh, ta có

thể thấy ngay được kết quả của việc dạy và học.
Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh hai lớp 4 cuối HKI năm học này
có số liệu cụ thể như sau:
Lớp Sĩ số Điểm 9- 10 Điểm 7- 8 Điểm 5- 6 Điểm dưới 5
4C 20 1 HS = 5% 6 HS = 30% 10 HS = 35% 3 HS = 15%
4D 20 1 HS = 5% 5 HS = 25% 11 HS = 55% 3 HS = 15%
Qua đây, tôi xin nêu lên những phương pháp, biện pháp tiến hành trên cơ sở các
phương pháp đặc trưng của phân môn mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định nhằm
nâng cao chất lượng dạy học sinh lớp 4 viết văn miêu tả mà tôi áp dụng có hiệu quả.
3. Kiểm nghiệm bài văn miêu tả của học sinh lớp 4
3.1. Một số lỗi thường gặp
a/ Trong phần cơ sở thực tiễn tôi đã đề cập những vấn đề chung thường gặp ở bài
văn miêu tả của học sinh lớp 4: bài văn ngắn, câu cụt, kể lể, ít hình ảnh,…VD:
- Cái cặp của em nhiều màu. Mặt trước có siêu nhân rất đẹp. Nó có ba ngăn. Một
ngăn em để bút, một ngăn em để vở, một ngăn để sách.
- Cây bàng cao đến mái nhà. Thân nó to, xù xì. Cây bàng có nhiều cành, tán rộng.
Lá màu xanh. Quả ăn có vị chát.
Đoạn văn như vậy được coi là tạm được vì đúng ý. Câu văn rõ nghĩa. Nhưng miêu
tả như vậy chỉ cần vài câu là tả xong một đồ vật, một cây. Và nó cũng rất chung
chung, không làm nổi bật được nét riêng của đồ vật đó, cây đó.
c/ Đọc bài văn miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan, nghèo cảm xúc, sự liệt
kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối tượng miêu tả, đôi
khi còn bịa đặt.
- Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân
hoá một cách tuỳ tiện. VD: Quả bàng to như con lợn con.
- Hình thức câu lặp lại nhiều lần: Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài. Lông thì
đen…
- Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong dài.



13

- Chưa biết sử dụng dấu câu nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt. VD: Cún con mới dễ
thương làm sao. (!)
………
b/ Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Lỗi chính tả, lỗi dấu
câu, lỗi diễn đạt, lỗi chủ đề. Cụ thể như sau:
- Lỗi chính tả: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai phụ âm đầu l/n( chủ yếu), s/x, d/r/gi.
Ở đây, tôi sẽ không đề cập sâu vấn đề này.
- Lỗi dấu câu:
+ Không dùng dấu câu: Xảy ra nhiều với học sinh yếu kém. Các em không sử dụng
hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc trong một bài văn.
+ Sử dụng dấu câu sai. VD: Cây bàng cao thân cây. Xù xì.
- Lỗi diễn đạt:
+ Lỗi dùng từ không phù hợp. VD: Con mèo có bộ lông trắng tinh.
+ Câu không đủ thành phần. VD: Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp.
+ Câu thừa thành phần( lặp lại thành phần một cách không cần thiết). VD: Em rất
yêu quý con mèo nhà em.
+ Câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong bài văn.VD: Con gà trống dậy rất
sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người.
+ Câu không phân định được thành phần. VD: Em phải giữ gìn chiếc đồng hồ để trên
mặt tủ.
+ Câu sai nghĩa. VD: Con mèo nặng khoảng 2 tạ.
+ Câu không rõ nghĩa. VD: Con mèo lông trắng mắt nó em yêu chú lắm.
+ Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu.
VD: Chiếc cặp của em màu đỏ giúp em học giỏi.
+ Các câu trong bài mâu thuẫn nhau: Cây bàng to, mập mạp. Thân cây khẳng khiu.
- Lỗi lạc chủ đề. VD: Tả chiếc cặp: Ngăn ngoài của cặp em đựng bút. Chiếc bút màu
đỏ rất đẹp.
Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 mắc rất nhiều lỗi. Tuỳ theo

mức độ, học sinh khá, giỏi có khả năng hạn chế hơn một số lỗi cơ bản.
Ở đây đặt ra một vấn đề cấp thiết là dạy học sinh viết văn sao cho mạch lạc, giàu
hình ảnh, tái hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.
3.2. Nguyên nhân
- Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây
cối, xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.


14

- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự
khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.
- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.
- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích luỹ các từ ngữ gợi tả.
- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,…còn
hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng, chưa
khoa học.
- Không có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá khi viết văn.
- Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm không tự
nhiên, có sự gượng ép.
- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ; các em
cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- Các em chưa thực sự cảm thấy yêu môn học.

III.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4
1. Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh
Công việc đầu tiên của dạy học TLV- sản sinh lời nói- là tạo ra được động cơ, nhu
cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết).
Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các kiểu bài

do chương trình qui định. Để sản sinh các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều
kỹ năng khác ngoài các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, kỹ năng dùng từ đặt
câu. Đó là các kỹ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kỹ năng lập dàn ý, viết
đoạn và liên kết đoạn.
Nhiệm vụ của phân môn TLV bậc tiểu học, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy,
bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong đó,
học văn miêu tả góp phần phát triển tư duy hình tượng của trẻ được rèn luyện phát
triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân hoá,…khi miêu tả.
Nhưng làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ trên mà không biến các em thành
những “thợ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn.
- Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối
tượng miêu tả. VD: Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh cây hoa phượng đang
ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà văn
Xuân Diệu đã ví “như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.”?


15

Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của cây hoa
với muôn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em óc quan sát
tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.
- Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng
sống khác. Như dạy các em biết giữ gìn đồ vật, tổ chức học sinh trồng, chăm sóc và
bảo vệ cây…Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có những cảm xúc, tình
cảm. Từ đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm bằng ngôn ngữ nói,
viết.
- Khi ra đề TLV, giáo viên nên chú ý đề bài yêu cầu viết về những gì gần gũi, thân
thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, viết về
nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Trong tiết Kiểm tra viết (sách TV 4 tập 2- trang 92)
có 4 đề bài gợi ý. Giáo viên nên dựa vào đó ra đề khác nhằm gợi cảm xúc cho các em

trước khi viết bài. VD:
Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
Đề 3: Em thích loài hoa nào nhất? Hãy tả loài hoa đó.
- Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều đó trong suốt
quá trình học tập và tích cực rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu khi viết văn.
Ngoài ra, bên cạnh yêu cầu duy trì chủ đề, để đạt mục đích giao tiếp, bài văn phải
có sự phát triển, chủ đề phải được triển khai. Giáo viên cần chỉ ra các hướng cho học
sinh viết bài: viết theo trình tự thời gian, không gian hay từ toàn thể đến bộ phận…
Các bài văn miêu tả của học sinh phải thể hiện được tình cảm, cảm xúc. Điều này
chi phối kĩ thuật viết đồng thời đòi hỏi dạy viết văn miêu tả phải được bắt đầu từ việc
hình thành tình cảm đối với đối tượng được miêu tả.
2. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là dùng ngôn ngữ
hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung được
cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.
Nhà văn Phạm Hổ:“ Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta biết, người đọc như
thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, một dòng sông, người
đọc còn có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí còn
ngửi thấy mùi hôi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc,…nhưng đó
mới chỉ là miêu tả bên ngoài, còn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả tâm trạng
vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cả cây cỏ.”(Viết văn miêu tả và văn
kể chuyện).


16

Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho
người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự
việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể

hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng
tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong
thực tế không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh
giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu
cầu tả những đối tượng mà học sinh yêu mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của
mình, các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả.
Đối tượng của văn miêu tả trong chương trình lớp 4 gồm có miêu tả đồ vật, cây
cối, con vật.
 Tả đồ vật:
Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy trong
đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi với các em.
Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo thức,…Chúng là
những đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học sinh.
Mỗi đồ vật đều có một hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học sinh
miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có nhiều bộ
phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính là những nét
tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.
Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khi miêu tả phải nói tới
công dụng, lợi ích của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có như
vậy, đồ vật mới hiện lên một cách sinh động và có hồn.
 Tả cây cối:
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh. Đó có
thể là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát,…- những cây có ích và gần gũi
với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì vậy, khi
miêu tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểm này. Tả cây ăn quả cần tập
trung miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của qủa; tả cây lấy hoa cần tả hương sắc của
hoa; tả cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá,…
Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả sơ
lược khung cảnh xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả con
người. Ta cũng cần chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm yêu mến gắn bó của

người tả đối với cây.
 Tả loài vật:


17

Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc gần gũi với học
sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo,…Mỗi con vật đều có đặc
điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả cái chung, và cả
những nét tiêu biểu của loài vật như màu sắc, vóc dáng, tính nết. Những con vật miêu
tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi ích nên bài văn phải thể hiện
được sự chăm sóc, tình cảm yêu mến của học sinh đối với chúng.
Ở Tiểu học, phân môn TLV có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi thức lời nói,
nói, viết các ngôn bản thông thường, viết một số văn bản nghệ thuật như miêu tả.
Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù là quan sát, diễn đạt một cách có
hình ảnh. TLV cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc quan sát đến trí
tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được. Khả năng tư duy
logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý viết
đoạn …. Trong quá trình sản sinh văn bản cũng giúp học sinh có kĩ năng phân tích,
tổng hợp, phân loại, lựa chọn. Thông qua viết văn miêu tả học sinh có sự hiểu biết và
tình cảm yêu mến, gắn bó với đồ vật, cây cỏ, thiên nhiên với con người và vạn vật
xung quanh: từ một quyển sách, đến một cây hoa, một chú gà trống…Từ đây, tâm
hồn, nhân cách của các em sẽ được hình thành và phát triển.
Để dạy tốt các bài tập làm văn miêu tả ở Tiểu học, giáo viên cần vận dụng các tri
thức về miêu tả, …hiểu biết về loại thể văn học; cần hiểu rõ tính đặc thù của kĩ năng
viết văn miêu tả. Để “vẽ được bằng lời” phải dạy tìm ý trong văn miêu tả bằng cách
dạy quan sát và ghi chép các nhận xét. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết
cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan
sát, biết cách liên tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết diễn đạt điều
quan sát được một cách gợi tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm xúc…

Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về
đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực tiếp
của mình. Bài văn miêu tả thể loại mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng
tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ
thuật giàu sức gợi tả, gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mô
phỏng, tô vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hoá bằng hình ảnh…chứ không phải là kể lể.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ. Dù miêu tả đối tượng nào, dù có
bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ sao chép, chụp ảnh máy
móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá
hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối
tượng thông qua cảm nhận của mỗi người.


18

Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa nhìn trăng bằng con mắt tinh tế bằng tình yêu của
tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng:
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà…
…Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi…
… Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời…
Nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai của
đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên: Trăng sáng mùa thu
vằng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng,…
Cùng là vầng trăng, hay một sự vật nhưng mỗi người cảm nhận theo cách riêng
của mình, mà những người khác không phát hiện được hoặc chưa phát hiện được.
Với mỗi học sinh, mỗi bài tập làm văn là một sản phẩm của từng cá nhân các em
trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy

nghĩ, cách tả, cách diễn đạt,…Giáo viên cần có thái độ tôn trọng sự độc lập suy nghĩ
sáng tạo nếu nó không biểu lộ những lệch lạc.
Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của
người viết, nhưng không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý. Để tả
hay, tả đúng thì phải tả chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả
tạo, sáo rỗng…
3. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình
ảnh, nội dung miêu tả.
* Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý:
- Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát bằng tất cả
các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác,…
- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ.
- Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung
quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật xung
quanh.
- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát.
* Lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả
- Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát.
- Căn cứ vào nội dung đã ghi chép.


19

- Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và khác
biệt của đối tượng để miêu tả chi tiết.
- Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên
hình ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật
thiết với đối tượng.
* Sắp xếp ý, đoạn:

- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý( theo một thứ tự nào đó: từ
ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,…)
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được bài văn,
học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình TLV, bài tập viết đoạn chiếm số
lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài,
đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở
bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức năng này lại được
phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự
nhiên( không mở rộng).
4. Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em
trong làm văn miêu tả:
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học
sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ
miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
* Tích luỹ vốn từ:
- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem,
nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;
- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như:
+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu; xum
xuê; rực rỡ; đo đỏ;…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,…
- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,… để miêu tả
cho sinh động.
* Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn
chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta
nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng
tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương



20

đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng
xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết.
Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình
yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với chính
mình và cả với những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách
bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả.
Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh
hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
- Nhân hoá hay tự nhiên hoá một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
- Dự đoán trước khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới.
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng
từ trước tới nay.
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết
của mình.
5. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục
bài văn.
Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.
Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách
diễn đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,…). Vì vậy,
yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài
văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”.
Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa đựng

trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận( xác định yêu cầu nói, viết
và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,…). Kĩ
năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước
khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn
luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các
nhóm bài tập sau:
- Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định
nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết( miêu tả). Việc


21

phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề
bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu
hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài
viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả.
- Nhóm bài tập sản sinh ngôn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài văn:
+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm bảo
sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài (trực tiếp,
gián tiếp), đoạn thân bài (mở rộng, không mở rộng). Các đoạn phải có sự liền mạch
về ý (không rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất
định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính (có mở đầu, triển khai và kết thúc).
* Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho là hợp lí nhất
và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn
đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng một sự kiện,
hoàn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng những câu thơ, ca dao…có
liên quan đến yêu cầu của đề bài.
- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo

từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. Trong đó, thể hiện
được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà
người viết vận dụng để miêu tả.
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng lại rất
quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối
tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm
phần kết bài khô cứng, gò bó, thiếu chân thực. Các em thường làm kết bài không mở
rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn, gợi
ý để học sinh biết cách và viết được phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình
một cách tự nhiên. Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở để khêu gợi cảm xúc của
học sinh trong quá khứ, hiện tại, tương lai; hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đối
tượng được tả. VD: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống
trường, em có cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống,
em càng thấy như thế nào?
+ Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng luyện
cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có bố cục chặt


22

chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn văn trong bài phải
liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người miêu
tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả
ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để lột tả hình
ảnh một cách sinh động.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người
miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, đòi hỏi sự sáng tạo nhất,

yêu cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc
sống, về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngôn ngữ đã được hình thành trước đó
để tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên phải
luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả thành
những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả nhất.
Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học sinh
xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này trong
suốt bài viết để bài văn không lan man.
Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay
không, có đặc sắc không? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên
của các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy, giáo
viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc trong bài văn một
cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết xây dựng
đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài.
6. Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết
văn.
Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện viết
như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng từ; từ ý
đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo yêu cầu,
làm các bài tập mở rộng thành phần câu… để cách diễn đạt được sinh động, gợi tả,
gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu
học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hoá, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ
biểu lộ tình cảm.
VD: Một học sinh tả chiếc bàn học:


23

Mỗi lúc học bài mệt em thường gối má lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu

dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài toán khó.
Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc,
người nghe.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật
khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như vậy. Học
sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng khi viết
văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em? Tôi đã giúp
các em bằng cách như sau:
VD: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thắm tươi; người ta quên đoá hoa,
chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm
thắm đậu khít nhau.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm( mà
không phải một con).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm
nhận của các em, hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó. Chú ý
giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh
không có giá trị.
- Yêu cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả biện
pháp nghệ thuật đó.
7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn:
Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở lớp đầu cấp,
khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnh
hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi vi
phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lại
với khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát triển. TLV có vai trò hàng đầu
trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4
bước đầu được học diễn đạt lưu loát, giàu hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều người

thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các ý trong
bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi chính tả,
chữa lời mà không chữa ý.


24

Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm
túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được như
vậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào?
* Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu biểu cần
khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu, lỗi
diễn đạt,…; Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Thống kê và phân loại bài theo điểm. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài
viết của học sinh.
* Trong giờ trả bài:
Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu cầu học
sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra lúc đầu để
tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xem xét
cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh luyện viết lại đoạn, bài.
- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực hiện các
bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của học
sinh).
- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa được
lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàu
hình ảnh và sức gợi tả. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi
những từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên (thành tiếng và đọc thầm)
một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận được sự thú vị của cái hay đó.

Tuy nhiên, ta cũng không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng học
sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo viên cần
kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ của học sinh dù
là nhỏ nhất.
Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết được hay là khi các em đã
bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết cách quan sát đối tượng, tích luỹ
được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách
diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn; biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp
tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ
đó, các em viết bài dễ dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết
được nâng cao.
8. Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo vệ môi trường


25

Dạy văn miêu tả đòi hỏi sự nhiệt huyết của giáo viên rất cao thì mới thấy được sự
tiến bộ của học sinh, mới khơi gợi được ở các em niềm say mê, thích thú. Các em
không chỉ viết tốt bài theo đề giáo viên yêu cầu mà còn có nhu cầu miêu tả những đối
tượng yêu thích khác. Không chỉ trong tiết TLV mới dạy học sinh học viết văn, ta
còn hướng dẫn các em trong các tiết học khác của môn Tiếng Việt như dạy các em
cảm thụ trong giờ Tập đọc, dạy dùng từ, đặt câu trong tiết LTVC, kích thích nhu cầu
miêu tả một đồ vật nào đó trong khi tiếp xúc trò chuyện, hay các giờ ngoại khoá.
Trong một lần hướng dẫn các em xếp hàng vào lớp, bất chợt tôi nhìn thấy cây bằng
lăng giữa sân trường ở bông hoa đầu tiên. Tôi hỏi các em:
- Sân trường hôm nay có điều gì vừa mới, vừa lạ và rất đẹp? Các em quan sát nhanh
và đều nhận thấy điều tôi muốn hỏi.
- Bông hoa ấy đẹp như thế nào và cho em cảm xúc gì? Các em rất hào hứng nói lên
suy nghĩ của mình.
Tôi giáo dục ý thức bảo vệ cây xanh bằng cách hỏi các em như sau:

- Bông hoa đẹp thế kia, em có nên ngắt để tặng một người em yêu quý không? Vì
sao?
Như vậy, trong một thời điểm ngắn, tôi đã đạt được nhiều mục đích: Các em xếp
hàng nhanh mà không căng thẳng; Kích thích các em phát triển khả năng quan sát,
nhận xét tinh tế, khả năng dùng ngôn ngữ để diễn đạt…Trong khoảng thời gian sau
đó, tôi tin rằng nhiều em còn suy nghĩ và vận dụng vốn từ của mình để tả về bông
hoa đó theo cảm nhận riêng.
Bên cạnh đó, dạy học tích hợp với các môn học khác làm giàu vốn sống, vốn
hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “ Thực vật và động vật” của môn
Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số loài thực vật, động vật,
hiểu được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy, khi làm bài văn miêu tả( cây
cối, con vật), các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể hiện tình cảm của mình một cách
chân thật hơn.
9. Khen ngợi, động viên kịp thời
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả nói riêng, không nhất
thiết giáo viên luôn tặng điểm 9, 10 mà hãy dành cho các em những lời khen thích
đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát huy được khả năng tiềm tàng của bản
thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti cố hữu.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng tương đối thành công khi dạy văn
miêu tả cho học sinh lớp 4 do tôi chủ nhiệm.


×