Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một vài biện pháp giúp HS lớp 5 rèn viết đúng chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.09 KB, 16 trang )

Mục lục
Phần
I
1
2
3
4
II
1
2
2.1
2.2
2.3
3
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
4
III
1
2

Nội dung
Phần mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Thuận lợi
Khó khăn
Những lỗi các em hay mắc phải
Các giải pháp giải quyết vấn đề
Cung cấp một số qui tắc chính tả để học sinh ghi nhớ
Cung cấp một số mẹo luật chính tả để học sinh ghi nhớ
Phân biệt bằng nghĩa từ
Tích cực luyện phát âm đúng
Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả
Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi
Thường xuyên uốn nắn, nhắc nhở và động viên, khuyến
khích học sinh
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Phần kết luận và kiến nghị
Bài học kinh nghiệm
Kiến nghị

Trang
2
2
2
3
3
4
4

4
4
5
6
6
6
9
12
12
12
13
13
13
15
16
16

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong các phân môn của bộ môn Tiếng Việt, chính tả là một trong những
phân môn có vai trò quan trọng. Bởi đây là phân môn hình thành, rèn luyện và
phát triển kỹ năng viết. Rèn chữ viết chính tả sẽ cung cấp cho học sinh biết quy
tắc chính tả và thói quen viết chữ ghi âm Tiếng Việt đúng và chuẩn. Từ đó làm
chủ được tiếng nói và khả năng sử dụng ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp,
học tập và tư duy. Viết đúng chính tả còn góp phần khẳng định trình độ văn hóa
của người sử dụng Tiếng Việt. Do vậy nghiên cứu biện pháp khắc phục lỗi chính
tả là một việc làm hết sức cần thiết, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục môn
Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học.
Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Mục tiêu đầu tiên của
giáo dục tiểu học là rèn luyện cho học sinh kỹ năng “đọc thông, viết thạo”. Nếu

1


phân môn tập đọc giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn chính tả sẽ giúp trẻ viết
thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo sẽ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Chỉ nắm
vững chính tả học sinh mới có thể nói được, viết được và nói hay, viết hay…
góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, thứ của cải vô cùng quý báu của
dân tộc ta.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu
hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp
phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như
đối với thầy và bạn đọc bài của mình”.
Việc rèn chữ viết cho học sinh còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng
cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ.
Nhưng muốn viết đúng, đẹp trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận
tình của các thầy giáo, cô giáo.
Thực tế ở nước ta, hiện tượng không đồng nhất trong phát âm là khá phổ
biến. Do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi có khác nhau. Mặc dù những
qui tắc, qui ước về Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng
việc “viết đúng Chính tả” trong học sinh hiện nay nói chung vẫn còn nhiều khó
khăn, tồn tại.
Mặt khác, trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thời đại
thông tin bùng nổ hiện nay, mọi người thường ngồi với chiếc máy vi tính của
mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy. Việc rèn chữ viết
cho học sinh đôi khi bị xem nhẹ. Trong quá trình nhiều năm giảng dạy lớp 5,
bản thân nhận thấy học sinh còn viết sai lỗi chính tả nhiều. Đặc biệt đầu năm
học này, ở lớp tôi chủ nhiệm, tình hình học sinh viết sai lỗi còn khá phổ biến.
Điều đó đã ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng
như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin. Với lí
do trên tôi đã chọn đề tài "Một vài biện pháp giúp học sinh lớp 5 rèn viết đúng

chính tả", nhằm góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu
- Giải quyết những khó khăn trong việc dạy chính tả, rèn cho học sinh ý
thức, thói quen và hoàn thiện kĩ năng viết đúng chính tả, nhằm nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua viết đúng chính tả, rèn luyện chữ viết sạch
đẹp cho học sinh trong lớp.
- Cung cấp một số mẹo và qui tắc chính tả cho học sinh và giúp các em
cách ghi nhớ quy tắc chính tả theo kiểu mẹo. - Đề tài còn là một cẩm nang, một
“sổ tay chính tả” của bản thân tôi trong quá trình dạy học, nhất là dạy phân môn
chính tả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 5ª, Trường Tiểu học Trung Thành
- Phạm vi: Một số lỗi chính tả mà học sinh lớp 5 thường mắc phải.

2


Vấn đề mẹo chính tả ở bậc Tiểu học là rất rộng. Song trong phạm vi đề
tài, tôi chỉ tập trung nghiên cứu về mẹo chính tả ở một số trường hợp mà học
sinh lớp 5 ở địa phương thường mắc phải
4. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phương pháp này giúp tôi có cơ sở
khoa học về ngữ âm, chính tả từ đó giúp tôi có góc nhìn tổng quát và quan niệm
đúng đắn về quy tắc chính tả hiện hành.
b) Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Qua điều tra hoặc trao đổi ngẫu
nhiên trong giao tiếp, phương pháp này giúp chúng tôi có cơ sở thực tiễn về thực
trạng học sinh viết (nói) sai chính tả.
c) Phương pháp tích lũy và thống kê: trong hơn 10 năm dạy học phương
pháp này đã cung cấp cho tôi khá nhiều vốn kinh nghiệm liên quan đến đề tài.

d) Phương pháp phân loại: phương pháp này giúp tôi phân loại được
nhóm lỗi chính tả hoặc một số lỗi chính tả có nét tương đồng về mặt ngữ âm
hoặc cánh chữa lỗi.
e) Phương pháp miêu tả: Phương pháp có tác dụng trong việc giải thích,
thuyết trình cách khắc phục lỗi chính tả.
g) Phương pháp so sánh đối chiếu: Vận dụng phương pháp này để tránh
được sự lặp lỗi hoặc trùng hợp không cần thiết khi xây dựng mẹo chính tả.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Chữ viết của Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ
yếu của Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện
bằng một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó
việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở để viết đúng. Để phát
huy một cách có ý thức, đặc biệt là những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả
phải theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm
để điều chỉnh chữ viết.
Tiếng Việt là ngôn ngữ chung thống nhất trên toàn đất nước Việt Nam,
nhưng mỗi vùng đều có sự khác biệt về cách phát âm. Những cách phát âm đó
làm cho Tiếng Việt thêm giàu đẹp, phong phú. Cho nên khi đối thoại người ở
các vùng miền trên đất nước ta đều nghe và hiểu được. Nhưng mặt khác của sự
khác biệt về phát âm giữa các địa phương lại dẫn đến tình trạng viết sai chính tả.
3


Trong cuộc sống, con người không chỉ giao tiếp bằng ngôn ngữ nói mà còn giao
tiếp bằng ngôn ngữ viết, như trong lĩnh vực học tập nghiên cứu tài liệu cũng như
việc giao tiếp giữa những người ở xa nhau, hoặc giữa các thế hệ đời trước với
đời sau. Tiếng Việt là công cụ để giao tiếp tư duy và học tập. Trong thực tế cuộc
sống, người ta vẫn thường có câu: “Văn hay không bằng chữ tốt”. Chính vì vậy

yêu cầu đặt ra trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết là làm sao phải đảm bảo
được người đọc hiểu đúng hoàn toàn ý nghĩa, nội dung trong văn bản của người
viết. Viết đúng chính tả là giúp cho học sinh có điều kiện sử dụng Tiếng Việt đạt
hiệu quả cao trong việc học tập các môn học khác trong nhà trường. Để đạt được
yêu cầu này chữ viết phải được thể hiện một cách thống nhất trên từng con chữ,
từng âm tiết Tiếng Việt. Nói cách khác là mỗi âm vị sẽ được thể hiện bằng một
hay một tổ hợp chữ cái, đồng thời mỗi từ cũng có một cách viết nhất định, thống
nhất trong cộng đồng người Việt.
Trong giờ chính tả, học sinh sẽ xác định được cách viết đúng bằng việc
tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói. Cơ chế của cách viết đúng là xác lập
được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết. Giữa đọc và viết, giữa tập đọc và
viết chính tả có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Vì vậy việc dạy chính tả đúng phải được coi trọng ngay từ bậc Tiểu học.
Việc làm ấy không những có tác dụng cụ thể, thiết thực đối với học sinh khi còn
ngồi trên ghế nhà trường mà nó còn có tác dụng quan trọng trong việc rèn đức
tính kiên trì, cẩn thận cho học sinh, một trong những đức tính cần thiết của con
người sau này khi trưởng thành.
Tuy nhiên, việc rèn chữ viết cho học sinh tiểu học là một việc làm cực kì
khó khăn. Đòi hỏi người giáo viên phải có lòng kiên trì, yêu nghề, mến trẻ, tâm
huyết với công việc mình làm. Việc làm phải thường xuyên, liên tục và đồng bộ
ở các khối, lớp, các cấp học. Rèn cho học sinh giữ được vở sạch - viết chữ đúng
và đẹp còn góp phần quan trọng vào việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi
Năm học 2015-2016, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A. Nhìn chung
các em trong lớp ngoan, có tinh thần tập thể, có ý thức học tập, rèn luyện chữ
viết. Nhiều gia đình học sinh quan tâm tạo điều kiện cho con em học tập. Đội
ngũ giáo viên trong nhà trường nói chung và giáo viên tổ 4, 5 nói riêng có tinh
thần trách nhiệm cao, nhiệt tình trong công tác, luôn đoàn kết giúp đỡ nhau.
Trong công tác chuyên môn, thường xuyên học hỏi, trao đổi góp ý cho nhau để

rèn luyện phương pháp giảng dạy. Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ,
khuôn viên nhà trường đảm bảo xanh - sạch - đẹp. Chuyên môn nhà trường luôn
chú trọng phát triển phong trào rèn chữ viết, khuyến khích học sinh “giữ vở sạch
- viết chữ đẹp”. Nhà trường đã được công nhận đạt trường Tiểu học đạt chuẩn
Quốc gia mức độ 2
2.2. Khó khăn
Xã Trung Thành là một xã thuần nông. Bố mẹ các em học sinh trong lớp
hầu hết là làm nghề nông, điều kiện kinh tế gia đình các em còn nhiều khó khăn
nên sự quan tâm, chăm lo đến việc học hành, đặc biệt việc quan tâm đến rèn chữ
viết cho con em còn nhiều hạn chế, chưa thực sự được chú trọng.
4


Bên cạnh đó, một số học sinh trong lớp chưa có ý thức rèn chữ viết, các
em còn ngại khó, ngại khổ, phần lớn số học sinh trong lớp là nam (tổng số 29
em thì có 21 em nam, có 1 em là học sinh khuyết tật). Cha mẹ và bản thân các
em còn xem nhẹ việc luyện viết, thường chỉ quan tâm đến kết quả học các môn
văn hoá như Toán, Tiếng Việt...
Chất lượng chữ viết của nhà trường trong những năm gần đây đã được
nâng lên nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu hiện nay. Qua thực tế giảng dạy
nhiều năm ở lớp 5, bản thân tôi được gần gũi, tiếp xúc, trao đổi với học sinh, với
phụ huynh học sinh, với các đồng nghiệp trong trường, tôi thấy tình trạng viết
sai chính tả của học sinh trong lớp là do những nguyên nhân chủ yếu sau :
- Do các em không nắm được nguyên tắc kết hợp các chữ cái, quy tắc viết
hoa trong Tiếng Việt, không nắm được vị trí phân bổ giữa các kí hiệu.
- Do các em chưa hiểu nghĩa của từ, chưa nhớ đầy đủ các quy tắc chính tả
vì quá trình học chính tả có liên quan mật thiết với quá trình trí nhớ. Những lỗi
chính tả do không nhớ đầy đủ các quy tắc chính tả như lẫn lộn các phụ âm đầu,
các nguyên âm , ...
- Do ảnh hưởng của cách phát âm tiếng địa phương.

- Do các em chưa có động cơ, thái độ đúng đắn trong việc học và rèn
luyện viết chính tả, khi viết các em còn lơ là, không tập trung vào bài viết, lâu
ngày thành thói quen cẩu thả "viết quen tay". Vì có nhiều em khi hỏi về quy tắc
viết hoa thì các em trả lời tương đối đầy đủ nhưng vẫn mắc rất nhiều lỗi về viết
hoa.
- Nhiều em còn có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em ít có điều kiện học
tập, rèn luyện và đọc thêm sách báo nên vốn từ ngữ của các em ít được mở rộng.
* Kết quả chấm bài Chính tả của lớp tôi đầu năm học như sau:
- Số bài viết đúng, đẹp; hoàn thành bài tập chính tả tốt: 5/28 em
- Số bài viết đúng nhưng chưa đẹp; hoàn thành bài tập chính tả: 5/28 em
- Số bài viết chưa thật đẹp, còn sai một vài lỗi; hoàn thành được bài tập:
8/28 em
- Số bài viết chưa đẹp, còn sai lỗi nhiều; hoàn thành chưa tốt bài tập chính
tả: 10/28 em
2.3. Những lỗi các em hay mắc phải
* Lỗi do không nắm vững qui tắc chính tả. Đây là lỗi thương gặp nhất:
a) Lỗi về âm đầu: c/k; ng/ngh; d/gi; ch/tr;...
- Lẫn lộn giữa c/k
VD: Kéo co
- Viết thành: céo co
- Lẫn lộn giữa ng / ngh :
VD : Ngành
- viết thành Nghành .
- Lẫn lộn giữa S/ X
VD : Xinh xắn - viết thành : Sinh sắn
Mùa xuân - viết thành : mùa suân
- Lẫn lộn giữa d / gi
VD : Duyên dáng - viết thành : duyên giáng
Tờ giấy
- viết thành : tờ dấy

Con dao - viết thành : con giao
5


b) Lỗi về vần : lẫn lộn giữa vần: uyên và iên, iêu và iu, oa và o...
VD : Tiền tuyến
- viết thành : tiền tiến
Bao nhiêu
- viết thành : bao nhiu
Bông hoa
- viết thành: bông ho
....
c) Lỗi viết hoa : các em thường viết sai ở dạng:
- Không viết hoa chữ cái ở đầu mỗi câu, không viết hoa các chữ cái của
danh từ riêng, tên riêng, địa danh ,... viết hoa tuỳ tiện.
VD : Cao bá Quát, trần đại nghĩa ,...
d) Lỗi về dấu thanh : thanh hỏi / thanh ngã
VD : Vàng thẫm - viết thành : vàng thẩm
Sửa xe
- viết thành : sữa xe
Củ khoai - viết thành : cũ khoai
* Lỗi do không nắm vững cấu trúc âm tiết của Tiếng Việt và không hiểu cấu
trúc nội bộ của âm tiết Tiếng Việt nên học sinh viết sai.
VD: quanh quo; khúc khuỷ; ngoằn nghèo
* Lỗi do nói tiếng địa phương
- Các em thường mắc một số lỗi phát âm trong khi nói do sử dụng tiếng
địa phương nên thành thói quen và dẫn đến mắc lỗi khi viết.
VD: Thịt - viết là: thịch
Chân - viết là: chưn
Đi chơi - viết là: đi nhởn

Về
- viết là: vièn
Nhanh - viết là: mau
- Do phương ngữ địa phương Thanh Hóa hay nói mô, tê, răng, rứa... nên
nhiều em đã sử dụng chúng vào văn bản trong khi viết
3. Các giải pháp giải quyết vấn đề
3.1. Cung cấp một số qui tắc chính tả để học sinh ghi nhớ
Sau khi kiểm tra, nắm bắt tình hình thực tế ở lớp tôi sẽ thống kê lại những
lỗi mà các em thường hay viết sai. Từ đó lập ra một bảng quy tắc viết đúng
chính tả treo ở góc lớp
a. Quy tắc viết phụ âm đầu “cờ ”:
- Âm đầu “cờ” được ghi bằng các chữ cái c, k, q.
- Viết q trước các vần có âm đệm ghi bằng chữ cái u.
- Viết k trước các nguyên âm e, ê, i (iê, ia)
- Viết c trước các nguyên âm khác còn lại.
+ Viết “C” khi đứng trước các nguyên âm: a, o, ô, ơ, u, ư,…( cá, cô, cờ,
cò, căn cứ,…)
+ Viết “K” khi đứng trước các nguyên âm: e, ê, i, iê,…( kiêu sa, Quốc kì,
êke, kênh kiệu,…).
+ Viết “Q” khi đứng trước vần có “ u” là âm đệm: ( quân đội, Quốc kì,
quê hương, quả quýt, quần áo,…).
b. Quy tắc viết phụ âm đầu “gờ”, “ngờ” :
- Âm đầu “gờ” được ghi bằng con chữ g, gh.
- Âm đầu “ngờ” được ghi bằng con chữ ng, ngh.
6


+ Viết “G”, “ Ng”khi đứng trước các nguyên âm: a, â, o, ô, u, ư, ươ, …
( ngủ gà ngủ gật, gà gô, ngỗ ngược, gửi, gùi,…)
+ Viết “Gh” khi đứng trước các nguyên âm: e, ê, i, …(bàn ghế, ghi chép,

ghe thuyền,…)
+ Viết “Ngh” khi đứng trước các nguyên âm: i, ê, iê (con nghé, nghi ngờ,
nghiêng ngả, củ nghệ,…)
c. Quy tắc viết iê/ia/ya/yê; uô/ua; i/y.
- Nguyên âm đôi iê: có 4 cách viết
+ Không có âm cuối: viết là ia. Ví dụ: mía.
+ Có âm cuối: viết là iê. Ví dụ: biển.
+ Có âm đệm, không có âm cuối thì viết là: ya. Ví dụ: khuya.
+ Có âm đệm - có âm cuối, hoặc không có âm đầu thì viết là: yê
VD: yê -> chuyên, tuyết...
yê -> yên, yểng...
- Nguyên âm đôi uô có hai cách viết:
+ Không có âm cuối: viết là ua. Ví dụ: cua.
+ Có âm cuối: viết là uô. Ví dụ: suối.
- Chữ y được viết trong các trường hợp sau:
+ Trong các tiếng viết bằng một chữ cái và tiếng đi cùng nó có âm đầu:
Ví dụ: y tế, y học, ý nghĩ, ý nghĩa, chú ý, ỷ lại, ỳ ra, ...
+ Trong các tiếng khuyết âm đầu và có nguyên âm đôi đứng đầu:
Ví dụ: yên lặng, tổ yến, yêu thương, ốm yếu, yết kiến, ...
+ Trong các vần có âm đệm là u: (uy, uyên, uyêt, uya, uyn, uynh)
Ví dụ: suy nghĩ, khuyên bảo, quyết tâm, đêm khuya, khuynh hướng, ...
- Chữ i được viết trong các trường hợp sau:
+ Trong tiếng viết bằng một chữ cái và tiếng đi cùng khuyết âm đầu:
Ví dụ: i a, ì ạch, ầm ĩ, í ới, ỉ oi, âm ỉ, ầm ì, ù ì, ...
+ Trong các tiếng khuyết âm đầu và có i là âm chính:
Ví dụ: inh ỏi, bản in, im lặng, ủn ỉn, ỉm đi, ích lợi, ít ỏi, ...
+ Trong các vần không có âm đệm (trừ: ay, ây, oay)
Ví dụ: mai, nói, tôi, vời, ngoài, cuội, cười, ...
+ Trong các tiếng có vần chỉ gồm một nguyên âm:
Ví dụ: bi, dì, ghi, lí, mĩ, ni, rỉ, xị, chỉ, thi, khi, nhi, phi, tri.

+ Trong các tiếng có vần có i là âm chính:
Ví dụ: xinh, kìa, hiu, mít, miệt, lim, thích, tin, chiều, ...
d. Quy tắc viết hoa:
* Tên người, tên núi, tên sông, tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, làng,…
của Việt Nam được viết hoa chữ cái đầu của mỗi tiếng (VD: Lê Lợi, Trần Hưng
Đạo, Trường Sơn, Cửu Long,…)
- Riêng tên người, địa danh của một số dân tộc ít người nếu được phiên
âm từ tiếng dân tộc thì chỉ viết hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ phận của tên, giữa các
7


tiếng trong cùng một bộ phận có dấu gạch nối (VD: Kơ-pa Kơ-lơng, Y-a-li,
Đăm-bri, Pắc-pó,…)
* Tên người, tên địa danh nước ngoài phiên âm trực tiếp ra tiếng Việt thì
viết hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ phận của tên, giữa các tiếng trong cùng một bộ
phận có dấu gạch nối (VD: Lu-i Pa-xtơ, Tô- mát, Ê-đi-xơn, Mê-kông, Von-ga,
Ki-ép, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a,…)
- Riêng tên người, tên địa danh nước ngoài được gọi như kiểu tên người,
tên địa danh Việt Nam (do được phiên âm qua âm Hán Việt nên đã được Việt
hoá ), thì được viết hoa như tên người, tên địa danh Việt Nam (VD: Lí Bạch, Đỗ
Phủ, Trương Mạn Ngọc, Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên,…)
* Tên các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội; cụm từ chỉ huân,
huy chương, danh hiệu, giải thưởng,…được viết hoa chữ cái đầu ở tiếng đầu các
bộ phận nêu nên tính chất “riêng” của tên riêng đó (VD: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Huy hiệu Cháu ngoan Bác Hồ,…)
* Các chữ cái đầu câu, đầu đoạn, đầu bài, đầu các chương mục, đầu dòng
thơ đều phải viết hoa.
* Một số danh từ chung và đại từ xưng hô cũng có thể được viết hoa để tỏ
thái độ kính trọng đối với những người và sự việc mà chúng biểu thị ( VD: Việt
Nam ta gọi tên Người thiết tha)

* Các sự vật khác (động vật, thực vật, đồ đạc) nếu được đặt tên riêng thì
những tên riêng ấy cũng viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người (VD: cô Đậu
Nành, anh Dưa Hấu, chị Gà Mái Mơ, chú Mướp,…)
e. Quy tắc đánh dấu thanh:
- Dấu thanh thường đặt ở trên hoặc dưới âm chính (VD: loá mắt, khoẻ
khoắn,…)
- Ở các nguyên âm có dấu mũ thì các dấu thanh được viết hơi cao lệch về
bên phải của dấu mũ (VD: trồng nấm, biển khơi, cố gắng,…)
- Trong tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối vần thì dấu thanh
được viết ở con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi. (VD: cây mía, lựa chọn, múa
hát,…)
- Trong tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối vần thì dấu thanh được
viết ở con chữ thứ hai của nguyên âm đôi (VD: ước muốn, chai rượu, sợi miến,
…)
3.2. Cung cấp một số mẹo luật chính tả để học sinh ghi nhớ
Có thể coi mẹo chính tả là những cách thức giản tiện, dễ nhớ do các nhà
ngôn ngữ đặt ra. Mẹo chính tả giúp cho người viết dễ dàng tìm ra cách viết đúng
một cách nhanh nhất mà không cần phải tra cứu từ điển.
a. Phân biệt ch / tr :
* Mẹo thanh điệu trong từ Hán- Việt:
- Tiếng trong từ Hán Việt mang thanh nặng (.) và huyền ( \) viết là tr mà
không không viết là ch.
+ tr đi với dấu nặng: Trịnh trọng, trị giá, trụy lạc, trục lợi, trụ sở, vũ trụ,
thổ trạch, trạm xá, hỗ trợ, triệu phú, trận mạc…
+ tr đi với dấu huyền: Truyền thống, từ trường, trần thế, trù bị, trùng
hợp, phong trào, lập trường, trầm tích, trừng trị…
8


* Mẹo láy âm:

- Khả năng tạo từ láy của tr hạn chế hơn ch. Tr tạo kiểu láy âm là chính
(trắng trẻo), còn ch cấu tạo vừa láy âm, vừa láy vần (chông chênh, chơi vơi) (tr
chỉ xuất hiện trong một vài từ láy vần : trẹt lét, trọc lóc, trụi lũi).
+ ch đứng ở vị trí thứ nhất: Chơi bời, chèo bẻo, cheo leo, chìm lỉm, chi li,
chói lọi, chểnh mảng, chào mào, chộn rộn, chình rình, choáng váng, chờn vờn,
chon von, chơi vơi, chót vót, chênh vênh, chạng vạng…
- ch đứng ở vị trí thứ hai: Loắt choắt, lau chau, lanh chanh, lã chã, loạng
choạng, lởm chởm, loai choai…
* Mẹo đồng nghĩa tranh - giành: Khi gặp một tiếng chưa rõ viết với ch
hay tr mà lại đồng nghĩa với một từ viết với gi thì từ đó phải được viết với tr.
Ví dụ: Tranh - giành, nhà tranh - nhà gianh, trầu - giầu, trai - giai, trăng
- giăng, tráo trở - giáo giở, trối trăng - giối giăng, trời - giời, tro - gio, trả giả…
* Mẹo trường từ vựng:
- Mẹo cha - chú: Những danh từ (hay đại từ) chỉ quan hệ thân thuộc trong
gia đình chỉ viết với ch (không viết tr): Cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt, chút,
chít…
- Mẹo chum - chạn: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều
bắt đầu bằng ch.
Ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh,
chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào
mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…( Có một ngoại lệ: Cái tráp).
- Mẹo kết hợp âm đệm:
“tr” không đứng trước những chữ bắt đầu bằng âm đệm nhưng “ch” thì có
VD: ôm choàng, bị choáng...
- Từ có ý nghĩa phủ định chỉ viết với ch: chẳng, chưa, chớ, chả,…
- Tên cây, hoa quả; tên các món ăn; cử động, thao tác của cơ thể, động tác
lao động chân tay phần lớn viết với ch.
“tr” không bao giờ láy với “ch” và ngược lại. Do đó chỉ có những từ láy
cùng láy âm “tr” hoặc “ch” như: Chăm chỉ, trâng tráo, trân trân...
b. Phân biệt x / s :

Mẹo kết hợp âm đệm: s không đi với các vần oa, oă, oe, uê, chỉ có x là đi
với các vần này
Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòa tay, xoen xoét,
xuề xòa, xuyên qua…( Có các trường hợp ngoại lệ như soát trong rà soát, kiểm
soát…, soạn trong soạn bài và những trường hợp điệp âm đầu trong từ láy: suýt
soát, sột soạt, sờ soạng…
Mẹo láy âm: Chỉ có x mới láy âm với các âm đầu khác, còn s không có
khả năng này.
Ví dụ như: Bờm xơm, bờm xờm, lao xao, lòa xòa, liêu xiêu, loăn xoăn,
liểng xiểng, lộn xộn, lì xì, xoi mói, xích mích,…
Mẹo từ vựng:
- Tên các thức ăn và đồ dùng liên quan đến việc nấu nướng, ăn uống
thường viết với x.
9


Ví dụ như: Xôi, xa lát, xúc xích, cái xanh, cái xoong, cái xiên nướng
thịt…
- Hầu hết các danh từ còn lại viết với s.
Chặng hạn như: Ông sư, bà sãi, cây sen, cây sim, cây sồi, cây sung, cái
sọt, sợi dây, sao, sương giá, sông, suối, sấm, sét…( Có các trường hợp ngoại lệ :
Chiếc xe, cái xuồng, cây xoan, cây xoài, trạm xá, xương, cái túi sách hay cái
xắc, cái xẻng, mùa xuân…
- X và s không cùng xuất hiện trong một từ láy.
* Nói chung, cách phân biệt x/s không có quy luật riêng. Cách sửa chữa
lỗi duy nhất là nắm nghĩa của từ, rèn luyện trí nhớ bằng cách đọc nhiều và viết
nhiều.
c. Phân biệt gi / r / d :
Người miền Bắc không phân biệt r với d và gi trong phát âm nên thường
lẫn lộn chúng trong chữ viết. Có thể dùng một số mẹo đơn giản sau để khắc phụ

lỗi này.
Mẹo về âm đệm: r và gi không kết hợp với âm đệm, chỉ có d mới kết hợp
với các vần này. Chẳng hạn như: Dọa nạt, hậu duệ, kiểm duyệt, duy trì, duy
nhất… (Trường hợp ngoại lệ roa trong cu- roa).
Mẹo láy âm “Co ro - bịn rịn”: r láy âm với b và c ( k) là những hình thức
mà d không có. Ví dụ như: Bịn rịn, bủn rủn, bứt rứt, bối rối, co ro, cập rập…
Mẹo run rẩy - rừng rực: Những từ láy điệp âm đầu r mô phỏng tiếng
động tượng thanh, chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau, chỉ những sắc
thái ánh sáng động, tươi, chói đều viết với r. Ví dụ như: Rì rào, rả rích, răng
rắc, rầm rập, róc rách, rúc rích, ra rả, run rẩy, rung rinh, rón rén, rập rình, rạo
rực, rần rật, rực rỡ, rừng rực, roi rói, rạng rỡ…
- Gi và d không cùng xuất hiện trong một từ láy.
- Những từ láy vần, nếu tiếng thứ nhất có phụ âm đầu là l thì tiếng thứ hai
có phụ âm đầu là d (lim dim, lò dò, lai dai, líu díu,…)
- Trong từ Hán Việt, tiếng có thanh ngã (~), nặng (.) viết d; mang thanh
hỏi (?), sắc (/) viết với gi.
d. Luật bổng - trầm:
Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, vui vẻ, sạch sẽ...)
Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng
(ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo
viên chỉ cần dạy cho học sinh nhớ nguyên tắc, qua việc thuộc câu thơ:
Thằng huyền ngã nặng té đau
Hỏi không sắc thuốc đến khi nào lành.
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
huyền, nặng thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước
mang thanh ngang, sắc thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ: Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ…
Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ…
Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ…
Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã...

Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã…
10


Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
e. Phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập
ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh
choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang,
đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang
quác, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng
đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu,
ngã khuỵu, khuỵu chân
Vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
*Tuy nhiên tất cả những mẹo luật trên chỉ ở mức độ tương đối. Trong mỗi
trường hợp, người giáo viên phải biết áp dụng một cách linh hoạt để truyền đạt
kiến thức và kinh nghiệm tới học sinh sao cho có hiệu quả
g. Khắc phục lỗi do nói tiếng địa phương
Để khắc phục cho học sinh tình trạng viết sai lỗi chính tả do phát âm
tiếng địa phương. Điều đầu tiên bản thân tôi sẽ cố gắng tạo cho các em có thói
quen phát âm chuẩn trong tất cả các giờ học, khuyến khích những em phát âm
chưa chuẩn luyện đọc thêm ở nhà, tăng cường việc luyện phát âm chuẩn cho các
em. Và cuối mỗi tuần, mỗi tháng tôi sẽ tổ chức cho các em các cuộc thi như: thi
đọc hay, đọc chuẩn; phát thanh viên tài năng của lớp,...
Ngoài ra, thông qua những giờ chính tả, hướng dẫn các em phân tích, so
sánh những trường hợp viết đúng chính tả với trường hợp viết sai chính tả để
biết tiếng đó sai ở đâu, lý do vì sao sai. Hoặc ngược lại có thể đưa ra những
trường hợp viết sai chính tả, hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa, rồi từ đó

hướng học sinh đi đến cái đúng. Để học sinh sửa các loại lỗi chính tả theo hướng
loại bỏ cái sai, xây dựng cái đúng, tôi sẽ nêu ra những đoạn văn, đoạn thơ trong
đó có nhiều từ viết sai chính tả để học sinh tự mình phát hiện lỗi, tìm ra nguyên
nhân sai và sửa lại cho đúng. Qua đó, các em sẽ được kiểm tra, củng cố lại kiến
thức chính tả, đồng thời giúp các em phát triển óc phân tích, xét đoán. Tôi
thường xuyên cho các em luyện tập qua các dạng bài tập như: Điền từ vào chỗ
trống trong câu, dùng từ đặt câu.... điều này có tác dụng rất lớn trong việc rèn kĩ
năng viết đúng chính tả cho học sinh.
3.3. Phân biệt bằng nghĩa từ:
- Một trong những nguyên nhân viết sai chính tả là do học sinh không
nắm được nghĩa của từ. Để khắc phục hiện tượng này tôi áp dụng theo nguyên
tắc kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ, giúp học sinh hiểu
nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập
đọc, Luyện từ và câu… nhưng trong tiết Chính tả cũng là một biện pháp tích
cực, khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu
tạo tiếng.
Ví dụ: Phân biệt bàn và bàng (trong từ đơn): Bàn = cái bàn; bàng = cây
bàng hoặc phân biệt Bác và bát : bác = anh (chị) của bố hoặc mẹ, Bác Hồ ;
bát = đồ dùng ăn cơm (bát đũa)
11


Muốn viết đúng chính tả, người viết phải hiểu nghĩa của từ và cách viết cụ
thể của từ đó.
Ví dụ: Muốn khi nào viết “truyện” khi nào viết “chuyện” người viết phải
phân biệt được sự khác nhau về nghĩa của hai từ này để từ đó rút ra cách viết
đúng chính tả.
- Viết là “truyện” khi muốn chỉ tác phẩm văn học được in (VD: truyện
ngắn, truyện cười.....)
- Viết là “chuyện” khi muốn chỉ một sự việc được kể lại (VD: câu

chuyện, chuyện tâm tình, hay chỉ một công việc cụ thể như: chưa làm nên
chuyện).
Trước khi viết một từ do giáo viên đọc, học sinh có thể hiểu nghĩa của từ
đó bằng cách mô tả sơ lược hoặc đặt câu với từ đó. Để giúp học sinh nghe hiểu
và chủ động viết đúng tôi có thể kết hợp “liên tưởng” hay “so sánh” ngắn gọn về
chữ khó viết ngay trong khi đọc chính tả [ví dụ: trăng khuyết (khuyết trong
khuyết điểm), đi làm nương (nương khác lương trong lương thực)].
Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong
văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.
3.4. Tích cực luyện phát âm đúng:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ
tiếng, đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các
thanh, các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong
tiết Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các
tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn…
- Bên cạnh việc luyện phát âm, cần chú ý rằng chữ viết của giáo viên là
rất quan trọng vì nó là mẫu để các em học tập và viết theo. Vì vậy, giáo viên
phải có ý thức rèn luyện để chữ viết của bản thân rõ ràng, đúng mẫu và tương
đối đẹp. Giáo viên phải mẫu mực về chữ viết ở bảng lớp, ở lời nhận xét trong vở
học sinh, làm gương cho học sinh học tập và noi theo.
3.5. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:
Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau
để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng
từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy
tắc chính tả để các em ghi nhớ.
Không chỉ trong tiết chính tả mà trong tất cả các môn học, với quyển vở
nào học sinh cũng cần chăm chút, nắn nót từng nét chữ. Việc này phải được tiến
hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng “viết đúng”
trong mọi tình huống.
3.6. Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi

- Song song với việc ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo
chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất
quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh, không
chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác.
- Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho
học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát
12


lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả
về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả).
- Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công một học sinh viết đúng,
đẹp đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu
vở để chấm (khoảng 5-7 bài).
- Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm
nhỏ bằng nhiều hình thức thi đua như: Ai nhanh ai đúng, Tìm nhanh viết đúng,
… Các nhóm ghi bài làm của nhóm mình vào bảng nhóm hoặc phiếu bài tập để
cả lớp nhận xét, bầu chọn nhóm thắng cuộc.
- Đối với những tiết học khác, tôi cũng luôn nhắc nhở học sinh viết đúng
chính tả . Khi chấm đoạn văn hoặc bài tập làm văn hoặc các bài kiểm tra của học
sinh, tôi chấm kĩ càng, tỉ mỉ, chỉ rõ các lỗi chính tả và hướng dẫn học sinh sửa
lỗi khi trả bài.
3.7. Thường xuyên uốn nắn, nhắc nhở và động viên, khuyến khích học sinh:
- Tôi thường xuyên chấm chữa bài, kiểm tra, nhận xét, theo dõi, nhắc nhở,
động viên kịp thời những tiến bộ dù là rất nhỏ của học sinh.
- Ngay từ đầu năm học, tôi qui định học sinh sử dụng bút viết là bút kim
hoặc bút chữ A, khuyến khích các em sử dụng bút máy trong giờ chính tả, tuyệt
đối không để các em viết bút bi. Qui định các em viết một màu mực là màu đen.
Trước khi viết mỗi bài, tôi luôn lưu ý học sinh về tư thế ngồi, điểm đặt bút, độ
cao của các con chữ, các nét chữ viết hoa ... đặc biệt là những lỗi mà nhiều học

sinh trong lớp còn mắc phải. Khi viết bài chính tả, yêu cầu các em phải viết nắn
nót các nét chữ, song cần viết đúng tốc độ theo qui định đối với học sinh lớp 5.
- Khi chấm bài, tôi chỉ ra từng lỗi sai của học sinh và yêu cầu học sinh đó
sửa lỗi ngay. Tôi đặc biệt giành nhiều lời khen ngợi để động viên, khuyến khích
các em.
- Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của
bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, nhắc nhở những em còn viết
sai.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Bằng các biện pháp, các hình thức tổ chức dạy học phân môn chính tả nói
trên, tôi đã từng bước hình thành ở học sinh năng lực và thói quen viết đúng
chính tả; các em viết chính tả một cách có ý thức chứ không tùy tiện như trước.
Chữ viết các em tương đối đều, đẹp, cẩn thận và ít sai lỗi hơn. Các em không chỉ
có ý thức viết đúng mà còn có ý thức rèn luyện chữ viết, biết cách trình bày bài
một cách khoa học. Điều đáng mừng là khi học phân môn tập làm văn và các
môn học khác các em có thói quen viết đúng chính tả, trình bày sạch đẹp.
Cụ thể, đến giữa học kì 2, kết quả chấm bài Chính tả của lớp tôi như sau:
- Số bài viết đúng, đẹp; hoàn thành bài tập chính tả tốt: 15/28 em
- Số bài viết đúng nhưng chưa đẹp; hoàn thành bài tập chính tả: 5/28 em
- Số bài viết chưa thật đẹp, còn sai một vài lỗi; hoàn thành được bài tập:
6/28 em
- Số bài viết chưa đẹp, còn sai lỗi nhiều; chưa hoàn thành bài tập chính tả:
3/28 em (trong đó có 1 em khuyết tật)
13


Mặc dù kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn nhưng đã góp một phần
nhỏ bé, nâng cao chất lượng chữ viết của 29 học sinh trong lớp do tôi chủ
nhiệm.


III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Từ những kết quả đã đạt được, theo tôi để khắc phục lỗi chính tả cho học
sinh lớp 5, giáo viên cần chú ý những điểm sau :
- Phát hiện lỗi chính tả, đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời cho học
sinh.
- Giáo viên cần tích cực luyện phát âm đúng cho học sinh vì có phát âm
đúng thì học sinh mới dễ dàng rèn viết đúng.
- Giáo viên cần hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả cơ
bản và sử dụng một số hình ảnh minh họa trực quan treo góc lớp vừa để trang trí
lớp học vừa để giúp học sinh nắm bài dễ hơn.
14


- Giáo viên phải nắm vững từng đối tượng học sinh lớp mình phụ trách.
Thường xuyên theo dõi, nhắc nhở, động viên và tuyên dương kịp thời; phải sửa
sai, uốn nắn, có biện pháp hướng dẫn học tập thích hợp cho từng học sinh.
- Kết hợp tốt việc giáo dục giữa nhà trường và gia đình phụ huynh học
sinh để giúp các em tiến bộ.
- Giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để
nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ. Có nắm chắc kiến thức, nắm chắc qui
tắc chính tả, giáo viên mới có thể giúp học sinh học tập một cách tốt nhất.
- Trong dạy học cần tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Chỉ khi nào
các em có được sự ham thích môn học, ham thích việc rèn chữ viết thì việc
luyện viết mới thật sự có hiệu quả.
- Muốn rèn chữ viết của học sinh có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải
có ý thức trách nhiệm cao, nhiệt tình chỉ bảo, uốn nắn chữ viết cho các em, dành
nhiều thời gian cũng như tâm huyết với nghề, thực sự yêu thương học sinh, quan
tâm và thường xuyên nhắc nhở, động viên khen ngợi các em kịp thời ở các bài
viết; tránh chê học sinh, không so sánh giữa học sinh này với học sinh khác,

không để các em tự ti, mặc cảm với các bạn
2. Kiến nghị
- Các cấp quản lí, chuyên môn tạo mọi điều kiện, khuyến khích giáo viên
chủ động trong việc khai thác nội dung, sáng tạo và xây dựng các kiểu bài tập để
khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.
- Cung cấp kịp thời các phương tiện dạy - học phục vụ cho việc dạy và học
môn học.
- Cung cấp cho giáo viên các tài liệu về Nghiên cứu Tiếng Viết, từ điển
Tiếng Việt.
- Tổ chức các chuyên đề về giảng dạy phân môn Chính tả để giáo viên
học tập kinh nghiệm.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng trong
quá trình giảng dạy thực tế của lớp mình. Tuy kết quả bước đầu chưa cao, nhưng
với sự nhiệt tình và nỗ lực hết mình, tôi cũng đã tích lũy được một số bài học
thực tiễn. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Hội đồng sáng kiến để việc
giảng dạy phân môn Chính tả trong nhà trường ngày càng được nâng cao về chất
lượng, giúp học sinh học tập đạt kết quả tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nông Cống, ngày 1 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
(Ký và ghi rõ họ tên)

15


Lê Thị Lan Anh


16



×