Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Những biện pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.62 KB, 16 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
a. Lý do khách quan
Môn Tiếng Việt giữ một vai trò quan trọng, chiếm nhiều thời lượng nhất
trong chương trình Tiểu học. Học tốt môn Tiếng Việt là tiền đề để học tốt những
môn học khác. Nói về mục tiêu của môn Tiếng Việt bậc Tiểu học, văn bản dự
thảo “Chương trình môn Tiếng Việt bậc Tiểu học” ghi rõ:
Mục tiêu của môn Tiếng Việt bậc Tiểu học là:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác
tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt
Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được mục tiêu trên giáo viên chỉ dạy đủ nội dung cho từng phân
môn thôi chưa đủ mà còn phải làm thế nào để dạy tốt dạy hay, phải đổi mới
phương pháp giảng dạy để cho mỗi giờ học thực sự “Nhẹ nhàng hơn, tự nhiên
hơn và hiệu quả hơn”. Môn Tiếng Việt được chia làm nhiều phân môn nhỏ: Tập
đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn... Riêng với phân môn Tập đọc việc
luyện đọc nói chung và phương pháp luyện đọc diễn cảm nói riêng có một vai
trò rất lớn đối với học sinh khi luyện đọc.
Đọc diễn cảm được thực hiện trong mọi giờ học của bậc Tiểu học nhưng
đặc biệt nhất là (lớp 4 + 5). Các em đã đọc thông viết thạo rồi nhưng chưa đọc
diễn cảm được. Do vậy các em cần sự giúp đỡ của người thầy, người cô để giúp
các em có kỹ năng đọc tốt, tạo điều kiện cho các em đọc để cảm nhận được tốt
môn Tiếng Việt cũng như những môn khác.
b. Lý do chủ quan


- Nhiều người cho rằng học sinh Tiểu học chỉ cần đọc thông viết thạo.
Chính vì lẽ đó hoạt động của các em chưa được coi trọng đúng mức
- Một số em còn mải chơi, chưa chăm chỉ học tập. Phần đa gia đình còn
khó khăn chưa có đủ đồ dùng sách vở khi đến lớp.
- Mặt khác do từ ở lớp 1 - 2 - 3 các em mới chỉ đọc thông viết thạo. Lên
lớp 4 các em còn nhiều bỡ ngỡ khi thể hiện giọng đọc của mình để người nghe
cảm nhận được ngay. Các em có đọc diễn cảm hay 1 đoạn thơ, 1 đoạn văn các
em mới cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ, bài văn đó và qua đó các em
mới áp dụng vốn kiến thức của mình để viết văn hay. Làm bài tập luyện từ và
câu tốt, học tốt các phân môn Tập đọc Luyện từ và câu, Tập làm văn... chính là
góp phần nâng cao chất lượng của bộ môn Tiếng Việt.
Xuất phát từ mục tiêu trên tôi thấy thật cần thiết phải giúp các em cảm
nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương góp phần nâng cao chất lượng môn
1


Tiếng Việt cho nên tôi đã tiến hành nghiên cứu: “Một số biện pháp rèn kỹ năng
đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh
- Giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm không chỉ trong phạm vi một văn
bản của tiết tạp đọc mà biết đọc diễn cảm bất kì một bài văn nào.
- biết vận dụng kiến thức hiểu biết của mình trong giao tiếp hàng ngày để
nói hay, nói đúng, mạnh dạn, tự tin, bình tĩnh trước tập thể.
- Thông qua việc rèn luyện đọc diễn cảm, giáo viên còn bồi dưỡng thêm
năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
SGK Tiếng Việt 4 gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị ứng với một chủ điểm,
học trong 3 tuần (riêng chủ điểm Tiếng sáo diều học trong 4 tuần).
Nếu như ở các lớp dưới, chủ điểm học tập xoay quanh những lĩnh vực rất
gần gũi với học sinh thì ở lớp 4 chủ điểm là những vấn đề đời sống tinh thần của
con người như tính cách, đạo đức, năng lực, sở thích,..
* Quy trình dạy tiết tập đọc
a. Kiểm tra bài cũ:
GV cho 2 - 3 HS đọc thành tiếng hoặc đọc thuộc lòng bài tập đọc hoặc bài
học thuộc lòng trước đó, sau đó đặt một số câu hỏi về nội dung bài để kiểm tra
kĩ năng đọc - hiểu.
b. Dạy bài mới:
- Giới thiệu bài: Nêu nhiệm vụ cần thực hiện trong tiết học. Đối với bài
Tập đọc thuộc chủ điểm mới, trước hết GV cần giới thiệu vài nét chính về
chủ điểm.
c. Hướng dẫn luyện đọc và tìm hiểu bài:
- Luyện đọc:
+ HS đọc thành tiếng từng đoạn văn (khổ thơ)
Ě Đọc nối tiếp nhau trước lớp: mỗi HS đọc 1 đoạn theo trình tự các đoạn
trong bài (lặp lại nhiều vòng sao cho mỗi HS trong lớp đều được đọc ít nhất 1
đoạn).
Ě Đọc theo cặp hoặc đọc trong nhóm: mỗi HS đọc một đoạn theo trình tự
các đoạn trong bài (lặp lại nhiều vòng sao cho mỗi HS đều được đọc tất cả các
đoạn trong bài).
2



Ě 1 – 2 HS đọc lại toàn bài
+ GV đọc mẫu toàn bài
- Tìm hiểu bài:
GV hướng dẫn HS đọc và trả lời từng câu hỏi trong SGK theo các hình
thức dạy học thích hợp.
- Đọc diễn cảm (với văn bản nghệ thuật) hoặc luyện đọc lại (với các văn
bản phi nghệ thuật)
+ Hướng dẫn HS đọc từng đoạn văn (khổ thơ):
Ě Một số HS đọc: mỗi em đọc 1 đoạn theo trình tự các đoạn trong bài
Ě GV hướng dẫn, điều chỉnh cách đọc cho các em sau mỗi đoạn
+ Hướng dẫn kĩ cách đọc 1 đoạn văn (khổ thơ)
Ě GV dùng lời nói hoặc lời nói kết hợp ghi bảng, sử dụng đồ dùng dạy
học để hướng dẫn HS cách đọc.
Ě HS đọc đoạn văn (thơ) đã được GV hướng dẫn cách đọc
Ě GV sửa lỗi cho các em
+ HS thi đọc diễn cảm trước lớp
- Học thuộc lòng với những bài có yêu cầu thuộc lòng
+ HS tự nhẩm HTL các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn theo chỉ định trong
SGK.
+ GV tổ chức thi đọc thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn vừa học
thuộc
d. Củng cố, dặn dò
- Hướng dẫn HS chốt lại nội dung chính hoặc ý nghĩa của bài tập đọc
- Nêu nhận xét tiết học
2. Thực trạng của việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4
a. Về phía giáo viên
Trước đây, phân môn Tập đọc của môn Tiếng Việt ở chương trình cũ vẫn
còn đề cao quá mức về cảm thụ văn học nên một số giáo viên đã biến tiết Tập

đọc thành giờ giảng văn. Trong tiết học, giáo viên quá lạm dụng phần tìm hiểu
bài, giảng giải là chính còn học sinh chỉ nghe, ít có thời gian để luyện đọc; hậu
quả là có một số em học hết chương trình Tiểu học mà vẫn chưa đọc thông thạo.
Song ở chương trình tiếng Việt Tiểu học mới hiện nay, nội dung các bài đọc
trong sách giáo khoa tương đối phù hợp với nhận thức của học sinh, các bài đọc
được sắp xếp khá lôgic, chặt chẽ theo từng chủ điểm, đa dạng các thể loại và nội
dung phong phú ; hơn nữa giáo viên đã nắm được chuẩn cần đạt về kĩ năng đọc
và hiểu của học sinh. Vì thế, trong quá trình dạy phân môn Tập đọc thì người
giáo viên đã hướng dẫn các em thực hiện khá nhịp nhàng giữa các hoạt động.
Mặt khác giáo viên còn chưa hiểu rõ được vai trò của đọc diễn cảm trong
phân môn tập đọc lớp 4. Chưa biết phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ
học từ đó hạn chế hiệu quả giảng dạy. Đa số các bài đọc lớp 4; 5 tương đối dài
mà thời gian một tiết học quá ít nên hầu như giáo viên chỉ mới dừng lại ở luyện
đọc đúng cho các em, bước hướng dẫn các em đọc diễn cảm còn ít. Chính vì thế,
việc yêu cầu các em tham gia thể hiện đọc diễn cảm trước lớp chỉ thực hiện
được ở một số học sinh đọc tốt.
b. Về phía học sinh
3


- Thực tế, trong những năm giảng dạy khối 4 tôi thấy kĩ năng đọc của học
sinh giữa các lớp chưa đồng đều. Đa số các em chỉ mới đọc đúng, số học sinh
biết đọc diễn cảm còn rất ít; số học sinh đọc chưa lưu loát và sai lỗi vẫn còn.
- Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của môn học chưa đúng, các
em thích học môn Toán hơn môn Tiếng Việt nên nhiều em còn ngại đọc bài và
chưa có ý thức tự rèn đọc diễn cảm mà chỉ mới mang tính chất chiếu lệ, đối phó.
- Như chúng ta đã biết, học sinh ở địa bàn ta phần lớn là người dân tộc
Thái, giao tiếp chủ yếu bằng tiếng dân tộc dẫn đến vốn từ ngữ của các em còn
quá ít ỏi, chưa hiểu hết nghĩa các từ, cụm từ trong bài đọc.
- Giọng đọc của học sinh còn nhỏ; nhiều em chưa nắm được nội dung của

bài đọc nên khi đọc, tôi thấy các em chưa bộc lộ được cảm xúc của bài đọc qua
giọng đọc hoặc nếu có thì chỉ mang tính chất bắt chước giáo viên hoặc bạn bè.
- Qua thực tế giảng dạy những năm học trước, tôi nhận thấy khi dạy học
sinh đọc diễn cảm giáo viên và học sinh gặp rất nhiều khó khăn.
* Khảo sát thực trạng
Xuất phát từ các nguyên nhân trên, hàng năm cứ vào đầu mỗi năm học,
sau khi ổn định tổ chức lớp xong, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng hai môn
Toán, Tiếng Việt để nắm được chất lượng đại trà từng môn của lớp; sau đó tôi
tiếp tục đưa ra một đoạn văn ngắn yêu cầu các em đọc để khảo sát kĩ năng đọc
của từng học sinh. Kết quả khảo sát đầu năm học 2015 - 2016 là :
Thời gian
kiểm tra
KSCL đầu
năm

Đọc chưa lưu loát
SL
10

TL%
45,5

Đọc đúng
SL
10

TL%
45,5

Đọc hay

(có diễn cảm)
SL
TL%
2
9,0

Dựa vào kết quả khảo sát trên, tôi đã phân loại các đối tượng đọc gồm :
* Đối tượng 1: Những học sinh đọc đúng, đọc hay (đọc diễn cảm).
* Đối tượng 2: Những học sinh đọc đúng song chưa diễn cảm.
* Đối tượng 3: Những học sinh đọc chưa lưu loát và còn chậm.
3. Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4
Sau khi phân loại học sinh, để rèn cho các em có kĩ năng đọc diễn cảm
tốt, tôi đã tiến hành các bước như sau:
a. Trong giờ tập đọc
* Rèn kỹ năng đọc thầm
- Đọc thầm là hình thức đọc không thành tiếng, người đọc dùng mắt để
nhận biết văn bản và vận dụng năng lực tư duy để thông hiểu và tiếp nhận nội
dung thông tin của văn bản.
- Đọc thầm chỉ được thực hiện khi người đó đã biết đọc thành tiếng một
cách thành thạo. Khi đọc thầm, do không phải phát âm thành tiếng nên người
đọc đỡ hao tốn sức lực hơn so với đọc thành tiếng, tốc độ nhanh hơn, người đọc
có điều kiện tập trung tư tưởng để tìm hiểu ý tứ nội dung văn bản đọc. Vì thế
đọc thầm giúp người đọc thông hiểu, tiếp nhận tốt hơn nội dung thông tin của
văn bản.
4


- Chính vì thế mà để dạy đọc hiểu được cho học sinh thì giáo viên cần rèn
cho các em kỹ năng đọc thầm. Khi tổ chức cho học sinh đọc thầm, theo chúng ta
cần chú ý.

- Tư thế ngồi đọc của học sinh ngồi ngay ngắn khoảng cách giữa mắt và
sách từ 30 đến 50 cm.
- Thường xuyên củng cố cho học sinh về cách đọc thầm, đọc hoàn toàn
bằng mắt, không mấp máy mắt, không phát ra tiếng. Lúc đầu có thể di chuyển
mắt theo que trỏ hoặc ngón tay, khi đạt thành thạo chỉ có mắt di chuyển mà thôi,
và quan trọng hơn là mắt đọc nhưng đầu phải suy nghĩ về những điều mình đang
đọc.
- Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh. Quy định thời gian đưa
ra câu hỏi (đơn giản) yêu cầu học sinh trả lời về hình thức về nội dung của bài
đọc.
* Yêu cầu học sinh đọc đúng, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa
các bài đọc
Muốn đọc diễn cảm một tác phẩm trước hết đòi hỏi các em cần phải biết
đọc đúng, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm đó. Vì khi đọc
đúng, các em sẽ phát âm chính xác các từ ngữ, biết ngắt nghỉ giọng đúng chỗ
trong từng câu, từng đoạn để giúp người nghe hiểu đúng nghĩa các từ ngữ cũng
như các câu văn của bài đọc. Còn khi các em nắm được nội dung, ý nghĩa bài
đọc sẽ giúp các em biết nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm và tự xác định được
giọng đọc phù hợp cho từng đoạn hay cả bài đọc đó. Vì thế, đây là một yếu tố
rất quan trọng, là cơ sở ban đầu của việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho các em.
a.1. Luyện đọc đúng:
Việc giúp các em luyện đọc đúng, lưu loát tôi thực hiện chủ yếu ở bước
luyện đọc. Trong quá trình đọc, tôi thường gọi các em thuộc đối tượng 1 và 2
đọc trước; sau đó yêu cầu các em tiếp tục giúp đỡ, kèm cặp các bạn đọc còn
chậm, chưa lưu loát tiến đến đọc đúng và lưu loát hơn.
Đối với học sinh lớp 4 thì việc rèn luyện đọc đúng được rèn luyện như
sau:
- Trước khi tiến hành luyện đọc, chia văn bản thành các đoạn đọc. Tôi căn
cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để chia văn bản thành các đoạn, sao
cho các đoạn không quá dài, cách ngắt đoạn không quá chi li, gây khó khăn cho

học sinh theo dõi và đọc nối tiếp.
- Dựa vào số đoạn tôi chỉ định trước số học sinh tham gia đọc nối tiếp ở
mỗi vòng đọc. Học sinh có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn sàng đọc
nối tiếp.
- Để củng cố kĩ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới, tôi hướng dẫn
học sinh đọc nối tiếp qua 3 vòng:
+ Vòng 1: Qua những học sinh đọc nối tiếp, giáo viên nghe và phát hiện
những hạn chế về cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện pháp
hướng dẫn đối với cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để học sinh đạt
yêu cầu đọc đúng và rành mạch.

5


+ Vòng 2: Học sinh đọc nối tiếp kết hợp nắm nghĩa của từ được chú giải
trong SGK, nó có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc hiểu. Nếu học sinh
đọc sai giáo viên vẫn tiếp tục hướng dẫn, sửa chữa.
+ Vòng 3: Học sinh đọc nối tiếp để giáo viên đánh giá sự tiến bộ, tiếp tục
hướng dẫn hoặc nhắc nhở.Việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp tạo điều kiện cho
nhiều học sinh được thực hành đọc. Qua thực hành mà học sinh được giáo viên
hướng dẫn, uốn nắn hay động viên, khích lệ để đạt được vững chắc kĩ năng đọc,
chuẩn bị luyện tập kĩ năng mới: Đọc diễn cảm.
Với những học sinh phát âm chưa đúng, giáo viên cần sửa phát âm cho
học sinh. Cụ thể:
Ví dụ: Khi dạy bài Hoa học trò học sinh phát âm sai từ “nỗi niềm”, “lá me
non”, “lúc nào”, “làm sao” thành các từ “lỗi liềm”, “ná me lon”, “núc lào”, “nàm
sao”… Đây là lỗi sai khi nói lẫn lộn phụ âm đầu l/n do cách phát âm của địa
phương. Đối với những lỗi như thế này tôi gọi một hoặc hai học sinh đọc chuẩn
đọc lại hoặc tôi đọc lại từ đó và yêu cầu học sinh phát âm theo. Nếu học sinh
không sửa được tôi dùng cách trực quan mô tả âm vị và hướng dẫn học sinh

quan sát, tự kiểm tra. Vì âm “n” là âm mũi khi phát âm sờ tay vào mũi thấy
rung. Tôi yêu cầu học sinh đọc lại các từ “nỗi niềm”, “lá me non”, “lúc nào” một
cách chính xác. Ngược lại, khi bịt mũi học sinh không thể đọc được “ nỗi niềm”.
Đối với những học sinh đọc sai dấu thanh: thanh “hỏi” thành thanh
“nặng”, thanh “ngã” thành thanh “sắc”.
Ví dụ: Khi đọc “đỏ rực” thành “đọ rực”, “xã hội” thành “ xá hội”, “đưa
đẩy” thành “đưa đậy”, “mạnh mẽ” thành “mạnh mé”.
Đây là những lỗi sai rất khó sửa nên tôi đã rất kiên trì đồng thời phải có sự
phối hợp tích cực giữa học sinh, phụ huynh. Tôi hướng dẫn học sinh cách đặt vị
trí của đầu lưỡi khi phát âm “đỏ”, “đẩy” đầu lưỡi đặt lên vị trí hàm trên hai môi
khép kín khi đọc lưỡi bật xuống và phát âm. Còn nếu học sinh phát âm sai “đọ”,
“đậy” trong khi phát âm nếu khép hai môi như trên thì không thể phát âm được.
Tôi cũng hướng dẫn cho phụ huynh cách luyện thêm ở nhà cho các em. Đối với
từng bài tôi tìm ra những tiếng khó, từ khó để các em luyện đọc.
a.2. Các hình thức luyện đọc:
* Để hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng, tôi tổ chức cho học
sinh hoạt động theo các hình thức sau:
- Đọc cá nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc trước lớp hoặc
đọc theo cặp).
- Đọc đồng thanh (theo nhóm hoặc tổ, lớp) khi cần để khắc sâu ấn tượng
về nhịp điệu của đoạn văn, bài thơ; giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ đoạn, bài cần
thuộc lòng, tạo không khí hào hứng cho lớp học.
- Đọc theo phân vai (nhiều học sinh hợp tác đọc theo lời nhân vật mình
đóng vai, tham gia các trò chơi luyện đọc).
+ Sau khi hướng dẫn các em khai thác nội dung các câu hỏi trong sách
giáo khoa, tôi đã nêu thêm một vài câu hỏi mở để giúp các em hiểu sâu sắc hơn
về ý nghĩa của bài đọc đó.
* Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài:
6



- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trao đổi kĩ năng đọc - hiểu, góp
phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn cảm.
Nắm được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc chung của
đoạn của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, mạnh mẽ...
- Giáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm (đoạn, bài)
và trả lời đúng nội dung. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm khổ thơ 3
trong bài thơ “Mẹ ốm” (lớp 4) để trả lời câu hỏi: Sự quan tâm chăm sóc của xóm
làng đối với mẹ bạn nhỏ được thể hiện qua những câu thơ nào?
- Với trình độ học sinh trong lớp, tôi chia câu hỏi thành các ý nhỏ để học
sinh dễ thực hiện.
Ví dụ: Câu hỏi 1 trong bài “Tre Việt Nam” (lớp 4) tôi tách thành 3 ý nhỏ
để học sinh dễ trả lời.
+ Những hình ảnh nào của tre gợi lên phẩm chất cần cù của người Việt
Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất đoàn kết của người Việt Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất ngay thẳng của người Việt
Nam?
- Bằng nhiều hình thức khác nhau (làm việc cá nhân, theo cặp hoặc theo
nhóm..), tôi tạo điều kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực. Trong quá
trình tìm hiểu bài, tôi rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi, trao đổi ý kiến.
- Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ
điệu phù hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm
của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung, ý
nghĩa bài đọc. Tôi yêu cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn văn nhằm “thăm dò”
khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh. Qua kết
quả đọc của học sinh, tôi dẫn dắt, gợi ý để học sinh phát huy những ưu điểm,
khắc phục những hạn chế và tìm ra cách đọc hợp lí.
- Muốn tìm hiểu được ngữ điệu đọc phải bắt đầu từ hiểu và cảm thụ nội dung
bài.

- Trong mỗi tiết học, giáo viên là người giúp các em nắm vững nội dung
bài, những từ ngữ gợi tả bằng cách đặt câu hỏi, gợi mở, dẫn dắt, từ đó các em sẽ
cảm thụ và rung động trước cái hay, cái đẹp của bài văn.
- Trong các bài thơ bài văn miêu tả trữ tình tôi giúp học sinh tìm ra các từ
“chìa khoá” những từ tạo nên giá trị nghệ thuật của bài. Vậy làm thế nào để học
sinh có thể nhận ra được những từ có tín hiệu nghệ thuật ấy? Theo tôi, chúng ta
nên bắt đầu bằng những ví dụ thật cụ thể để làm sao cho học sinh thấy được
rằng: Những từ có tín hiệu nghệ thuật thường là những từ giàu mầu sắc biểu cảm
như các từ láy, những từ đa nghĩa, những từ mang nghĩa bóng có sự chuyển
nghĩa văn chương, những từ có kết hợp bất thường, những từ bộc lộ cảm xúc.
Ví dụ: bài (Con chuồn chuồn nước - Tiếng việt 4).
+ Với từ thung thăng tôi phải đặt từ đó vào câu để giải thích. (Rồi những cảnh
tuyệt đẹp của đất nước hiện ra: cánh đồng với những đàn trâu thung thăng đang gặm
cỏ; dòng sông với những đoàn thuyền ngược xuôi). Ngoài ra trong giảng dạy tôi giúp
các em học sinh hiểu được các nghĩa của câu từ (nghĩa đen và nghĩa bóng).
7


- Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu rõ nghĩa của từ, chúng ta cần giúp học
sinh hiểu rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật, cảm nhận được
những giá trị nổi bật, những điều tế nhị sâu sắc, đẹp đẽ của từ ngữ, câu văn, câu
thơ, đoạn văn, đoạn thơ, câu chuyện…
- Việc phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật là một trong những phần
quan trọng trong việc cảm thụ bài văn. Vì vậy, ngay từ đầu giáo viên cần bổ
sung cho các em hiểu biết thêm về các biện pháp tu từ như: biện pháp so sánh,
nhân hoá và dấu hiệu nhận biết, tác dụng của các biện pháp đó. Đồng thời, các
em cần tìm ra sự tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ.
- Muốn có được những cảm nhận đó, các em cần có một trí tưởng tượng
phong phú, một khả năng nhận diện cảm xúc nhậy bén,… giáo viên chính là
người phát hiện và bồi dưỡng những khả năng này ở các em.

Ví dụ: Khi dậy bài “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” - Tiếng việt 4 tập
2 trang 71.
- Để giúp các em hiểu rõ nội dung và cảm thụ được bài thơ giáo viên cần
đặt câu hỏi:
+ Những hình ảnh nào trong bài thơ nói nên tinh thần dũng cảm và lòng
hăng hái của những chiến sỹ lái xe?
+ Tình đồng chí, đồng đội của những người chiến sỹ được thể hiện trong
câu thơ nào?
+ Hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra trận giữa bom
đạn của kẻ thù gợi cho em cảm nghĩ gì?
- Qua hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính vì bom giật bom
rung sẽ giúp các em hiểu rõ hơn những khó khăn, nguy hiểm trên đường ra trận
và tinh thần dũng cảm lạc quan của các chiến sỹ lái xe trong những năm tháng
chống mỹ cứu nước. Đó cũng là khí thế quyết chiến, quyết thắng Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước của hậu phương lớn miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh
chống đế quốc Mỹ.
- Hiểu và cảm thụ được vẻ đẹp cái hay của bài thơ (thể hiện qua những
hình ảnh gợi tả, biện pháp tu từ …) các em sẽ có được niềm cảm thông sâu sắc
bởi đã hoà mình được vào dòng cảm xúc của tác giả. Từ đó các em không chỉ
đọc đúng mà còn có thể truyền tải được cả tình cảm của tác giả trên cơ sở mình
cảm nhận được.
Khi đọc những câu thơ trong bài “Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ
”, Tiếng việt 4 tập 2 trang 49 của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.
Ta cảm thấy thật xúc động bởi tình yêu của mẹ đối với con, đối với cách
mạng thật lớn lao, cao cả. Chính vì vậy, giáo viên cần giúp cho các em tìm ra
các yếu tố gây xúc động trong những câu thơ ấy. Trên cơ sở đó, các em sẽ đọc
tốt.
Tóm lại: Tìm được cái gì đó làm mình cảm xúc, tức là các em đã cảm thụ
được bài văn.
Kết luận: Việc hiểu, đặc biệt là cảm thụ được bài văn là việc làm hết sức

quan trọng trong việc học sinh có thể đọc diễn cảm. Đặc biệt với học sinh lớp 4
thì việc hiểu và cảm thụ bài văn lại càng quan trọng vì đó là cơ sở giúp các em
học tốt hơn môn Tiếng Việt. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý ở bậc Tiểu học
8


việc giảng giúp các em hiểu và cảm thụ bài văn nhằm mục đích lớn nhất là để
các em đọc diễn cảm được tốt hơn do đó không nên biến một giờ lên lớp thành
một giờ giảng văn.
a.3. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm (còn gọi là đọc hay) là một hình thức bộc lộ cảm thụ văn
bản. Qua đọc diễn cảm, người giáo viên sẽ đo được mức độ cảm thụ của học
sinh. Vì thế có thể nói: “Đọc diễn cảm là một kĩ xảo của quá trình đọc”.
Luyện đọc diễn cảm cho học sinh tức là hướng dẫn cho các em khi đọc
biết cách thể hiện ngữ điệu, trường độ, cao độ qua giọng đọc của mình. Muốn
thể hiện tốt giọng đọc diễn cảm cho một bài đọc hay một đoạn trong bài đọc thì
người giáo viên cần căn cứ vào nội dung, phong cách bài đọc để dẫn dắt, gợi mở
học sinh tìm ra cách đọc và tập thể hiện bằng giọng đọc của chính mình.
Thông thường, ở lớp 4, bước đọc diễn cảm được thực hiện sau bước tìm
hiểu bài và không đòi hỏi học sinh phải thực hiện đọc cả bài mà chỉ yêu cầu đọc
diễn cảm 1- 2 đoạn trong bài đọc. Vì thế, sau khi các em tìm hiểu bài xong, tôi
đã tiến hành luyện đọc diễn cảm cho các em theo quy trình:
+ Đọc nối tiếp từng đoạn trong bài.
+ Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (thường là những đoạn tiêu biểu và khó
đọc nhất trong bài đọc).
+ Đọc mẫu.
+ Yêu cầu học sinh nêu giọng đọc phù hợp cho đoạn trên.
+ Luyện đọc diễn cảm theo nhóm.
+ Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp.
Với quy trình trên, tôi thường giao việc cụ thể cho từng đối tượng HS như sau:

- Với các em thuộc đối tượng 1 (những HS đọc hay): Tự đọc để phát hiện
cách đọc; nêu giọng đọc phù hợp nhất và tiến hành đọc diễn cảm đoạn đó.
- Với các em thuộc đối tượng 2 (những HS đọc đúng): Nêu chỗ ngắt nghỉ
giọng cho câu văn (đặc biệt trong câu văn dài) hay nhịp điệu của dòng thơ, câu
thơ; nêu các từ ngữ cần nhấn giọng để bước đầu biết đọc diễn cảm.
- Với các em thuộc đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát, còn chậm):
Đọc đúng các từ ngữ thường phát âm sai, nêu được một số từ ngữ cần nhấn
giọng để luyện đọc trôi chảy (trường hợp này chỉ dừng lại ở luyện đọc đúng,
không yêu cầu đọc diễn cảm).
Thực tế, không phải bài nào tìm hiểu bài xong mới tiến hành luyện đọc
diễn cảm mà tùy theo từng bài và tùy từng đối tượng học sinh, tôi có thể hướng
dẫn các em thể hiện đọc diễn cảm ngay từ bắt đầu luyện đọc đoạn. Điều này rất
tốt, tạo hứng thú trong quá trình học tập của học sinh.
Ví dụ:
+Khi dạy bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Tiếng Việt 4- tập 2, trang 71)
Trước hết tôi gọi một em đọc toàn bài thơ, yêu cầu các em dưới lớp theo
dõi và nhận xét nhịp điệu, sắc thái của bài thơ này rồi yêu cầu các em dựa vào
nội dung của bài thơ để xác định giọng đọc phù hợp. Sau khi học sinh nêu, tôi
bổ sung thêm và hướng dẫn các em nhấn giọng ở các từ gợi tả trong bài. Qua đó,
tôi thấy đa số các em biết thể hiện giọng đọc diễn cảm cho toàn bài thơ ngay từ
lúc bắt đầu bước vào phần luyện đọc đúng với giọng vui, hóm hỉnh nhằm toát
9


lên được tinh thần dũng cảm, lạc quan, coi thường khó khăn, gian khổ của các
chiến sĩ lái xe trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với cách làm như trên,
khi chuyển sang bước luyện đọc diễn cảm, các em sẽ chủ động hơn trong việc
đọc diễn cảm từng đoạn của bài thơ.
Trong chương trình Tập đọc, yếu tố đọc diễn cảm đối với lớp 4 chỉ yêu
cầu ở mức độ vừa phải (tức là chỉ bước đầu biết đọc diễn cảm); còn đối với lớp

5 thì yếu tố này đòi hỏi ở mức độ cao hơn như: biết đọc diễn cảm đoạn văn,
đoạn thơ dễ nhớ trong bài; biết đọc diễn cảm bài văn phù hợp với nội dung và
tính cách nhân vật…
Vậy: Có phải bài đọc nào cũng hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm không?
Giọng đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng gì đến việc hướng dẫn học sinh đọc
diễn cảm?
Theo tôi, không phải bài đọc nào cũng thực hiện đọc diễn cảm. Đối với
văn bản nghệ thuật thì mới hướng dẫn đọc diễn cảm, còn đối với các văn bản
khác thì chỉ hướng dẫn luyện đọc lại. Đồng thời, trong thực tế, không phải giáo
viên nào cũng biết đọc diễn cảm nên giọng đọc mẫu của giáo viên có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm, nó không những giúp
các em cảm nhận được ngay từ đầu cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà còn tạo
hứng thú trong suốt giờ học của các em. Chính vì thế, khi dạy, tôi yêu cầu các
em xác định bài đọc đó có phải là văn bản nghệ thuật hay không? Còn khi tiến
hành đọc diễn cảm, tôi luôn nhắc các em phải biết thể hiện rõ ngữ điệu, trường
độ, cao độ của giọng đọc trong từng bài. Đối với mỗi bài đọc, tôi luôn khuyến
khích các em tự trình bày giọng đọc hay nhất thông qua ngữ điệu, độ to nhỏ,
trầm bổng hay nhanh chậm của âm thanh, câu, từ.
- Trong quá trình soạn bài, tôi đã phân loại các văn bản nghê thuật trong
chương trình Tập đọc lớp 4 thành 3 thể loại cơ bản sau:
(1) Văn xuôi; (2) Thơ; (3) Truyện, kịch.
Ở mỗi thể loại, tôi hướng dẫn cách đọc diễn cảm khác nhau. Cụ thể:
* Đối với văn xuôi
Hướng dẫn các em xác định về sắc thái giọng đọc, biết lựa chọn cách ngắt
nghỉ giọng và nêu được những chỗ cần nhấn giọng phù hợp trong từng câu của
đoạn, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh được giọng đọc của bản thân khi đọc. Ngoài
việc khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, tôi còn cho các em tìm hiểu
thêm về giá trị nghệ thuật trong đoạn cần đọc diễn cảm để các em dễ dàng tìm
đúng giọng đọc cho đoạn đó.
Ví dụ: Khi dạy bài “Hoa học trò” (Tiếng Việt 4 - tập 2, trang 43)

Ở bước tìm hiểu bài, tôi đặt các câu hỏi:
+ Vẻ đẹp của hoa phượng có gì đặc biệt? (câu hỏi 2 SGK)
+ Màu hoa phượng thay đổi như thế nào theo thời gian? (câu hỏi 3 SGK).
Sau đó, tôi mới đặt câu hỏi: Tại sao tác giả lại gọi hoa phượng là “hoa học
trò” (câu hỏi 1 SGK). Tiếp đó, tôi nêu thêm một số câu hỏi dành cho HS khá,
giỏi giúp các em tìm hiểu về giá trị nghệ thuật có trong đoạn đầu để thấy hết vẻ
đẹp đặc biệt của hoa phượng.
+ Đoạn đầu, tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả
vẻ đẹp của hoa phượng? (so sánh, điệp ngữ).
10


+ Hãy nêu những hình ảnh so sánh (So sánh là những tán hoa lớn xoè ra
như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau).
+ Những biện pháp đó có tác dụng gì? (giúp người đọc hình dung và nhấn
mạnh rõ hơn vẻ đẹp của cả chùm hoa phượng, cả cây phượng).
+ Để nhấn mạnh được vẻ đẹp ấy, đoạn này, ta cần đọc như thế nào?
(giọng nhẹ nhàng, nhấn giọng những từ được dùng một cách ấn tượng để tả vẻ
đẹp của hoa phượng: không phải, cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ
rực, muôn ngàn con bướm thắm).
Tôi chọn đoạn 1 để hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Tôi tiến hành như sau:
HOẠT ĐÔNG CỦA GIÁO VIÊN

HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH

- Gọi 3 HS đọc nối tiếp toàn bài văn.
- Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (đoạn
1) Treo bảng phụ và gọi HS đọc mẫu.
+ Để đọc hay đoạn này, em cần đọc với
giọng như thế nào ?

- Thống nhất giọng đọc cho đoạn này :
đọc với giọng nhẹ nhàng, cảm hứng
ca ngợi và nhấn giọng các từ gợi tả,
gợi cảm. (có thể đọc mẫu lại )
- Luyện đọc diễn cảm theo nhóm
- Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp
Nhận xét, Tuyên dương HS.

- 3 HS đọc nối tiếp; Cả lớp đọc thầm
- 1 HS đọc to (HS khá, giỏi); Lớp theo
dõi.
- Nêu các từ cần nhấn giọng, chỗ ngắt
hơi sau các cụm từ (ĐT2 + 3) ; nêu
giọng đọc phù hợp nhất cho đoạn
(ĐT1).
- Chú ý lắng nghe.
- Đọc theo nhóm đôi (2’)
- 3- 4 HS thi đọc ( theo từng cặp cùng
nhóm đối tượng đọc).

* Đối với thơ
Ngoài sắc thái giọng đọc và cách nhấn giọng, tôi thường hướng dẫn các
em biết lựa chọn nhịp điệu cho từng dòng thơ, câu thơ trong các khổ thơ. Tuỳ
theo nội dung của từng bài để tôi hướng dẫn các em đọc diễn cảm.
Ví dụ: Dạy bài “Tre Việt Nam” (TV4- tập 1, trang 41).
HOẠT ĐÔNG CỦA GIÁO VIÊN

HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH

Vì bài này độ dài của các đoạn gần

bằng nhau nên sau khi tìm hiểu bài
xong, tôi hỏi:+ Bài thơ này có mấy
đoạn ?

+ 4 đoạn
- 4 HS đọc, mỗi em 1 đoạn.
+ 3- 4 HS nêu kết hợp giải thích.
- Đọc diễn cảm đoạn đã chọn theo
một trong các hình thức sau:
. Đọc cá nhân.
. Đọc theo nhóm ngẫu nhiên trong tổ.
. Đọc theo nhóm ngẫu nhiên trong lớp.
+ 2 - 3 HS (hoặc nhóm) thi đọc đoạn.
+ 1- 2 em đọc thuộc lòng cả bài.
- Dưới lớp bình chọn bạn đọc hay nhất.

- Gọi HS đọc nối tiếp bài thơ.
+ Em thích nhất là đoạn nào ? Vì sao ?
- Tổ chức luyện đọc diễn cảm.
- Tổ chức thi đọc diễn cảm kết hợp đọc
=> NX, Tuyên dương.

11


- Đối với các bài thơ thuộc thể thơ tự do, nhịp thơ không ổn định nên tôi
luôn nhắc các em phải dựa vào ý thơ giữa các dòng để ngắt đúng nhịp từng dòng
thơ hoặc đọc theo cách vắt dòng (tức là đọc liền mạch với các dòng sau).
* Đối với truyện- kịch
- Với thể loại này, khi hướng dẫn đọc diễn cảm thì trước hết tôi giúp các

em phân biệt rõ giữa lời kể và lời các nhân vật, giữa lời các nhân vật với nhau;
phân biệt nhân vật chính - phụ để các em thể hiện tốt lời nói, ngữ điệu theo từng
tuyến nhân vật nhằm tăng giá trị biểu cảm của tác phẩm. Đồng thời, tổ chức đọc
diễn cảm theo cách phân vai kết hợp với sự phụ trợ của nét mặt, ánh mắt, điệu
bộ, cử chỉ,…cho từng nhân vật. Vì vậy, trong quá trình rèn đọc, tôi yêu cầu các
em nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm, nhận biết được tính cách của từng nhân vật,
…để xác định giọng đọc phù hợp với từng nhân vật trong câu chuyện hay đoạn
kịch.
- Khi tổ chức đọc diễn cảm loại bài này, tôi đã kết hợp gọi cả ba đối tượng
học sinh cùng tham gia đọc, như:
+ Đối tượng 1 và 2 (những HS đọc đúng, đọc hay): các em nhập vai
những nhân vật có tính cách mạnh mẽ; vai người dẫn chuyện hay những vai có
lời thoại dài, cần thể hiện nhiều cảm xúc.
+ Đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát và còn chậm): các em nhập
vai một số nhân vật có tính cách trầm, nhẹ nhàng hoặc những vai có lời thoại
ngắn, đơn giản nhằm tạo hứng thú học tập cho các em và giúp các em có cơ hội
được bộc lộ, từ đó các em sẽ cố gắng rèn đọc dần dần ở những bài sau.
Ví dụ: Dạy bài “Người ăn xin” (Tiếng Việt 4- tập 1).
* Luyện đọc:
- Tổ chức cho các em đọc nối tiếp từng đoạn hay toàn bộ đoạn kịch theo
phân vai. Khi các em đọc lời đối thoại các nhân vật trong đoạn kịch thì tôi nhắc
các em cần phải:
+ Phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái
độ, hành động của nhân vật.
+ Thể hiện đúng tình cảm, thái độ của các nhân vật qua lời nói và tình
huống truyện.
- Yêu cầu các em nêu giọng đọc phù hợp với nội dung từng đoạn. (Đoạn
kể và tả hình dáng của ông lão ăn xn đọc với giọng chậm rãi, thương cảm). Nhấn
giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
- Yêu cầu các em nêu giọng đọc phù hợp với từng nhân vật. Cụ thể:

. Lời cậu bé: giọng xót thương ông lão
Lời ông lão: xúc động trước tình cảm chân thành của cậu bé
- Hướng dẫn các em cách đọc diễn cảm đoạn kịch theo phân vai.
* Đọc diễn cảm:
HOẠT ĐÔNG CỦA GIÁO VIÊN

HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH

+ Đọc từng đoạn.
+ Đọc diễn cảm đoạn : Tôi chẳng
biết làm cách nào……… nhận được
chút gì cuả ông lão

- 3 HS nối tiếp đọc 3 đoạn của bài
- 3 HS đối tượng 1, 2 đọc theo cách phân
vai
- HS luyện đọc diễn cảm theo cách phân vai

12


- HS thi đọc diễn cảm
Lớp NX và bình chọn bạn thể hiện hay
nhất.

Như vậy, để rèn cho các em đọc diễn cảm có hiệu quả, trong các giờ Tập
đọc tôi luôn cho các em xác định bài đọc đó thuộc thể loại nào, từ đó các em sẽ
định dạng cho mình về cách thể hiện cảm xúc đối với bài đọc đó một cách tốt
nhất, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho các em. Hơn nữa, vì thời
gian luyện đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc rất ít nên để đáp ứng cho nhiều đối

tượng học sinh được đọc diễn cảm, tôi đã tiến hành tổ chức cho các em luyện
đọc thêm các tiết Hướng dẫn học (buổi chiều).
Tổ chức các hình thức rèn đọc diễn cảm cho học sinh:
Đối với học sinh Tiểu học, bất kì học môn học nào hoặc tham gia một
phong trào gì đó thì tâm lí các em đều thích được bộc lộ, thích khen và luôn có
tính thi đua. Vì thế, trong quá trình lên lớp, để giúp các em luyện đọc diễn cảm
có hiệu quả, đảm bảo thời gian và tạo cho tất cả các em đều có cơ hội bộc lộ khả
năng của chính mình, tôi đã thường xuyên tổ chức các hình thức đọc diễn cảm
khác nhau. Và tuỳ theo từng bài, từng thể loại để tổ chức cho các em đọc diễn
cảm một đoạn hay cả bài. Cụ thể:
* Văn xuôi và thơ:
- Đối với những bài mà giữa các đoạn có độ dài, độ khó tương đương
nhau thì tôi có thể cho các em tự chọn đoạn theo ý thích để luyện đọc diễn cảm.
Trong quá trình luyện đọc, tôi thường tổ chức hình thức đọc cá nhân hoặc đọc
theo nhóm ngẫu nhiên có cùng đoạn đọc.
- Đối với các bài có đoạn dễ - đoạn khó; đoạn ngắn - đoạn dài thì tôi sẽ ấn
định đoạn cần luyện đọc diễn cảm cho các em (thường là đoạn tiêu biểu nhất
trong bài). Trường hợp này tôi thường tổ chức các hình thức đọc giống như quy
trình nêu trên, gồm: cá nhân đọc mẫu, đọc theo nhóm đôi, thi đọc trước lớp. Nếu
em học sinh đó đọc mẫu chưa đạt yêu cầu thì tôi sẽ đọc lại đoạn đó để định
hướng cho tất cả các em có giọng đọc đúng và phù hợp với đoạn trên.
* Truyện - Kịch:
Nếu nội dung của câu chuyện, đoạn kịch đó ngắn thì tôi hướng dẫn các
em luyện đọc cả bài. Ngược lại câu chuyện, đoạn kịch đó dài thì tôi chọn đoạn
có lời thoại hay, nhiều câu văn dài, khó để hướng dẫn các em đọc diễn cảm và tổ
chức hình thức đọc theo phân vai.
Tuy nhiên không phải bài tập đọc nào cũng tổ chức đọc diễn cảm sau khi
các em đã luyện đọc đúng và tìm hiểu bài. Có những bài tôi đã định hướng cách
đọc diễn cảm cho các em ngay ở phần luyện đọc đúng. Qua các hình thức tổ
chức trên nhằm phát huy tính độc lập (đọc cá nhân), tính hợp tác (đọc theo

nhóm, đọc theo phân vai) và tính thi đua (thi đọc trước lớp) trong học sinh; đồng
thời giúp tôi phân loại các đối tượng đọc một cách dễ dàng, từ đó tôi tiếp tục có
kế hoạch bồi dưỡng, giúp các em học ngày càng tiến bộ nhằm nâng cao chất
lượng đọc diễn cảm nói riêng và chất lượng giảng dạy nói chung.
b. Ngoài giờ tập đọc
13


Ngoài việc học trên lớp, tôi thường phát động học sinh mỗi tuần phải đọc
một bài thơ hay một câu chuyện ở báo thiếu niên, để đến giờ sinh hoạt có thể
đọc thơ hoặc kể chuyện cho cả lớp cùng nghe, tuyên dương những em học sinh
có giọng đọc hay, kể chuyện hấp dẫn.
- Trong buổi học thứ hai tôi thường đọc cho các em nghe một bài thơ, bài văn
hay.
- Tổ chức cho học sinh thi đọc trước lớp để các em tự đánh giá, cùng chọn
ra bạn có sự tiến bộ để động viên, tuyên dương, làm gương cho cả lớp noi theo.
4. Hiệu quả của các sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động Giáo dục,
với bản thân đồng nghiệp và nhà trường
Các biện pháp trên qua thực tế thực nghiệm ở trường Tiểu học Sơn Hà đã
thu được kết quả khả quan: chất lượng đọc của học sinh trong lớp được nâng lên
rõ rệt. Một vài học sinh đầu năm đọc còn yếu (đọc ngọng, ngắt nghỉ tuỳ tiện thì
nay đọc đã được lưu loát, biết lên giọng, hạ giọng, nhấn giọng ở những từ ngữ
cần nhấn giọng một cách hợp lý. Biết ngắt giọng đúng ở sau những dấu câu và
những câu dài. Các em không chỉ tiến bộ ở phân môn Tập đọc mà còn phát triển
cả về khả năng diễn đạt trong phân môn Kể chuyện và Tập làm văn. Kết quả cụ
thể chất lượng đọc giữa học kỳ II vừa qua như sau:
Thời gian
Kiểm tra
Giữa kỳ
II


Đọc chưa lưu
loát
SL
TL%
4
18,2

Đọc đúng
SL
11

TL%
50,0

Đọc hay
(có diễn cảm)
SL
TL%
7
31,8

Có được kết quả như trên bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên ý thức vươn
lên trong học tập của học sinh còn có sự chỉ đạo nhiệt tình sát sao của Ban giám
hiệu nhà trường và các cấp lãnh đạo Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục Đào tạo …
Mà giờ đây một giờ tập đọc không còn là một giờ dạy khó như nhiều giáo viên
vẫn ngại.

14



PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với những biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh mà tôi đã áp
dụng và đạt được kết quả như đã nêu trên, tôi thấy rằng để đạt được hiệu quả giờ
lên lớp, học sinh đọc hay, đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên phải đọc
diễn cảm. Bản thân mỗi giáo viên phải tích cực khắc phục những hạn chế về kĩ
năng đọc của mình, thường xuyên luyện đọc diễn cảm để hướng dẫn học sinh
đọc tốt.
Khi dạy đọc cho học sinh, ta phải hết sức chú ý việc chữa lỗi phát âm cho
học sinh, về cách ngắt giọng, về ngữ điệu, tốc độ đọc, cường độ, cao độ,...
Sử dụng nhiều biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh theo các bước:
- Cung cấp mẫu, giúp học sinh tri giác các chỉ số âm thanh của bài đọc
một cách cụ thể, từ đó có ý thức luyện tập theo mẫu.
- Phân tích các chỉ số âm thanh của giọng đọc mẫu giúp học sinh hiểu rõ
các yêu cầu trong giọng đọc mẫu một cách có ý thức, từ đó tránh bắt chước
giọng đọc mẫu một cách máy móc.
- Luyện theo giọng đọc mẫu giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm
theo định hướng của mẫu. Bước này chiếm nhiều thời gian và được xem là trọng
tâm của biện pháp luyện đọc theo mẫu.
- Nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh, khái quát hóa về cách đọc của bài đọc
giúp học sinh điều chỉnh, sửa chữa, ý thức sâu sắc về cách đọc diễn cảm bài đọc.
2. Kiến nghị
Trên thực tế dạy học ở trường Tiểu học Sơn Hà - Quan Sơn - Thanh Hóa,
tôi có một số đề xuất sau:
- Đối với nhà trường: Nhà trường cần tổ chức thêm nhiều hoạt động
ngoại khóa như: thi đọc diễn cảm, thi kể chuyện, thi làm người dẫn chương
trình… để các em có cơ hội giao lưu với nhau. Ngoài ra nhà trường cũng nên
tăng cường các tiết thao giảng để học hỏi đồng nghiệp về phương pháp dạy học.
- Đối với phòng giáo dục: Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia

giao lưu học tập, sinh hoạt chuyên môn liên trường, tập huấn về đổi mới
phương pháp dạy học, bố trí nhiều tiết dạy mẫu…để giáo viên vận dụng một
cách linh hoạt trong việc giảng dạy với từng đối tượng học sinh.
Trên đây là một vài biện pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp
4 mà tôi đã áp dụng trong công tác giảng dạy và bước đầu tôi thấy đem lại kết
quả đáng kể. Vì thời gian và trình độ có hạn trong bài viết này của tôi chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự trao đổi đóng góp
ý kiến của bạn bè đồng nghiệp để sao cho các em ngày càng đọc tốt hơn.
XÁC NHẬN
Quan Sơn, ngày 15 tháng 04 năm 2016
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép nội dung của người khác
Người thực hiện
Phạm Thị Hà
15


……………………………………………………………………………
……………………………

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học (Tác giả Lê Phương Nga
– Nguyễn Trí, Nhà xuất bản Giáo dục – Đại học Sư phạm).
2. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 – Tập 1, 2 (Nhà Xuất bản Giáo dục).
3. Sách Giáo viên Tiếng Việ 4 – Tập 1, 2 (Nhà xuất bản Giáo dục).
4. Sách Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 4 – Tập 1, 2 (Nhà xuất bản Hà Nội).

16




×