MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn SKKN
2
2. Mục đích nghiên cứu
4
3. Đối tượng nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
4
5. Phạm vi nghiên cứu
4
B. NỘI DUNG SKKN
I. Cơ sở lý luận của SKKN
5
II. Cơ Sở thực tiễn
6
1. Thực tiễn về sách giáo khoa
6
2. Thực tiễn dạy Tập làm văn hiện nay
7
3. Thực trạng của việc học văn miêu tả ở lớp 4
8
III. Các biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả
9
1. Giúp học sinh biết quan sát
9
2. Giúp học sinh lập dàn ý cho bài văn miêu tả
10
3. Giúp học sinh xây dựng đoạn văn, liên kết đoạn văn
thành bài văn miêu tả
12
IV. Kết quả sáng kiến
14
C. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
16
2. Bài học kinh nghiệm
16
3. Kiến nghị và đề xuất
17
1
A.MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN SKKN:
Quá trình nhận thức của loài người diễn ra theo quy luật: “ Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Đây
chính là con đường biện chứng để nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực khách
quan. Quá trình nhận thức của học sinh về cơ bản cũng diễn ra theo quy luật
nhận thức chung của loài người. Tuy nhiên, quá trình nhận thức của học sinh lại
có những điểm riêng, nó chứa đựng các khâu: củng cố, kiểm tra, đánh giá tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo. Quá trình nhận thức của học sinh thể hiện ở tính giáo dục.
Quá trình dạy học nói chung, dạy học Tập làm văn nói riêng cần vận dụng kết
quả nghiên cứu Tâm lí học lứa tuổi về quá trình nhận thức, tiếp thu tri thức,
hình thành kĩ năng, kĩ xảo của học sinh. Quá trình nhận thức của học sinh thể
hiện ở tính giáo dục. Qua đó, hình thành dần dần cơ sở thế giới quan khoa học,
bồi dưỡng phẩm chất con người mới. Dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy Tập
làm văn nói riêng có liên quan chặt chẽ với tâm lí học, đặc biệt là tâm lí học lứa
tuổi.
Nhận thức của học sinh có thể đạt tới mức độ khác nhau, từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp. Tập làm văn trong trường Tiểu học được hình thành
và phát triển dần từ các lớp đầu cấp đến các lớp cuối cấp. Song song với sự
phát triển đó, khả năng sản sinh văn bản của học sinh cả hai hình thức nói và
viết cũng phát triển từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Phân môn Tập làm văn lớp 4 là một nội dung cụ thể hóa mục tiêu của
môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu học. Không chỉ trang bị kiến thức và rèn luyện kỹ
năng làm văn mà còn mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn,
cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Phân môn Tập làm văn lớp 4 rèn các kĩ năng sản sinh ngôn bản nói và
viết phù hợp với mục đích giao tiếp trên cơ sở kiến thức sơ giản thuộc các thể
loại: kể chuyện, miêu tả, và một số loại văn bản khác bao gồm: Viết thư; Trao
đổi ý kiến; Giới thiệu hoạt động (Giới thiệu nét mới về địa phương); Tóm tắt
2
tin tức; Điền vào giấy tờ in sẵn. Ngoài ra, cùng với các môn học khác, Tập làm
văn lớp 4 phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy lô gíc, tư
duy trừu tượng cho học sinh.
Học Tập làm văn lớp 4, học sinh được rèn luyện các kỹ năng làm văn:
Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp: (Nhận diện đặc điểm loại văn; Phân
tích đề bài, xác định yêu cầu). Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp:
(Xác định dàn ý; Quan sát đối tượng, tìm ý sắp xếp ý thành dàn). Kĩ năng thực
hiện hóa hoạt động giao tiếp: (Xây dựng đoạn văn: chọn từ, tạo câu, viết đoạn;
Liên kết đọan thành bài văn). Kĩ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp:
(Đối chiếu; sửa lỗi bài viết cho phù hợp).
Thông qua phân môn Tập làm văn giúp học sinh: mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho
học sinh.
Nội dung các bài Tập làm văn lớp 4 thường gắn với chủ điểm đang học ở
các bài Tập đọc. Quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện các kĩ năng phân tích
đề, quan sát, tìm ý, viết đoạn là cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống
theo chủ điểm đang học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, quan sát đối
tượng...góp phần phát triển năng lực phân tích, tổng hợp....Tư duy trừu tượng
của học sinh cũng được rèn luyện và phát triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân
hóa.... khi viết văn.
Học các tiết Tập làm văn, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp
của con người, thiên nhiên đất nước, có cơ hội bộc lộ cảm xúc cá nhân, mở
rộng tâm hồn và phát triển nhân cách con người Việt Nam mới.
Xuất phát từ mục tiêu của bậc học cũng như mục tiêu của môn học, ở lớp
4 việc học sinh học Tập làm văn hiện nay gặp nhiều khó khăn, và còn nhiều
hạn chế. Vì vậy, người giáo viên cần lựa chọn nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học phù hợp để nâng cao chất lượng Dạy - Học Tập làm văn
lớp 4 hiện nay. Tôi xin mạnh dạn đề xuất “Một số biện pháp giúp học sinh lớp
4 học tốt văn miêu tả”
3
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Sáng kiến này nghiên cứu không những nhằm giúp học sinh của trường có
kĩ năng vận dụng, thực hành tốt khi học tập làm văn. Từ đó tạo nên nền tảng
vững chắc cho học sinh và là bàn đạp thúc dẩy các em có đủ tự tin, vững bước
trên con đường học tập của chính mình, đáp ứng với yêu cầu đổi mới ngày càng
cao của đất nước hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu dạy học Tập làm văn 4, cách sử dụng các phương pháp dạy
tập làm văn theo hướng đổi mới.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp đọc tài liệu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Sáng kiến tập trung nghiên cứu đối tượng trong phạm vi giáo viên và
học sinh lớp 4 trường Tiểu học, với việc dạy học Tập làm văn ở lớp 4 theo
phương pháp mới đạt hiệu quả.
4
B. NỘI DUNG SKKN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SKKN:
Nhìn chung việc dạy Tiếng Việt mà nhất là phân môn Tập làm văn ở Tiểu
học nói chung và ở lớp 4 nói riêng là một việc làm rất khó. Để các em viết
được một bài văn hay thì yêu cầu các em phải biết quan sát, tìm ý. Nắm và hiểu
nghĩa của từ rõ ràng, chính xác thì các em mới viết được câu văn đúng. Từ đó
biết sắp xếp ý một cách lô gíc.
Tóm lại: Muốn học tốt môn Tập làm văn phải học tốt tập đọc, từ ngữ và
ngữ pháp, chính tả, cùng với có quan sát tinh tế, có tâm hồn trong sáng, yêu
thiên nhiên và mọi cảnh vật xung quanh ta.
Một bài văn bất kì ở thể loại nào đều phải dùng lời nói có hình ảnh và có
cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về
người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài hay không
những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng mà còn thể hiện
được trí tưởng tượng, óc sáng tạo của người viết. Các bài văn ở Tiểu học đa
phần chỉ yêu cầu kể, tả những đối tượng mà các em yêu mến, yêu thích. Vì vậy
qua bài làm, các em được gửi gắm tình cảm của mình với đối tượng được viết
tới.
Tập làm văn là một phân môn của Tiếng Việt. Do đó, dạy học Tập làm
văn phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ với rèn luyện tư duy.
- Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp.
- Nguyên tắc chú ý đến trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh.
- Nguyên tắc kết hợp rèn luyện cả hai hình thức dạng nói và dạng viết.
Ngoài ra, dạy Tập làm văn còn phải đảm bảo nguyên tắc đặc trưng của
phân môn như sau:
- Phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình dạy học Tập làm văn.
- Phải coi trọng yêu cầu thực hành trong suốt quá trình dạy.
- Phải giúp học sinh viết văn có cảm xúc và chân thực.
5
Dạy học Tập làm văn cần sử dụng các phương pháp đặc trưng trong dạy
học Tiếng Việt như sau:
- Phương pháp dạy học theo tình huống giao tiếp.
- Phương pháp rèn luyện theo mẫu.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
Ngoài ra, cần sử dụng phương pháp đặc trưng của phân môn như:
- Phương pháp quy nạp để nhận biết đặc điểm các loại bài văn.
- Phương pháp quy chiếu với chủ đề bài văn.
- Phương pháp tổ chức, quan sát đối tượng.
- Phương pháp cá thể hoá sản phẩm văn bản nói, viết của học sinh.
- Phương pháp cùng tham gia.
- Phương pháp luyện tập, thực hành.
Tuy nhiên, không có phương pháp nào là tối ưu cả, để đạt hiệu quả cao
trong giờ học, người giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp một cách
linh hoạt.
Giáo viên cần chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học đó là:
- Dạy học dựa vào các hoạt động tích cực, chủ động của học sinh với sự
hỗ trợ của các hình thức dạy học cá nhân, theo nhóm nhỏ, theo lớp và các
phương pháp kĩ thuật như: Thảo luận, báo cáo, động não, điều tra, đóng vai...
- Dạy cho học sinh cách học và hiểu rõ mục đích học: học để biết, để
làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực tiễn về sách giáo khoa:
1.1. Thời gian học:
- Mỗi tuần học 2 tiết.
- 8 tiết dành cho ôn tập, kiểm tra giữa kì và cuối kì.
- Một năm học sinh học 35 tuần với tổng cộng 62 tiết.
1.2. Nội dung chương trình:
1.2.1. Văn kể chuyện:
19 tiết.
6
1.2.2. Văn miêu tả:
30 tiết.
1.2.3. Văn viết thư:
3 tiết
1.2.4. Văn thuyết trình: 3 tiết (Trao đổi ý kíến: 1 tiết; Giới thiệu hoạt động: 2
tiết).
1.2.5. Điền vào giấy tờ in sẵn:
3 tiết.
Các loại văn trên được xen kẽ dạy ở hai loại lớn đó là kể chuyện và miêu tả.
Nhìn chung việc chỉnh lý SGK không gây nhiều xáo trộn trong việc dạy
và học phân môn Tập làm văn. Các tác giả vẫn tôn trọng nội dung chương trình
và theo sát bản hướng dẫn phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Quy trình cấu trúc cơ bản của một tiết Tập làm văn cũng như một kiểu bài vẫn
được quán triệt (các đề bài được luyện tập nhiều lần qua các thao tác rèn luyện
kỹ năng Nội dung chỉnh lý SGK, có những điểm mới: Bổ sung thêm loại bài
văn viết thư, văn thuyết trình, văn nhật dụng. Nội dung này đòi hỏi phải có
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mới phù hợp đạt hiệu quả cao. Ngoài
ra, chương trình còn sắp xếp lại quy trình dạy 1 kiểu bài để tăng cường hơn nữa
việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho các em khi làm
bài viết tốt.
Đối với quy trình về một kiểu bài, việc sắp xếp lại cấu trúc hợp lý hơn,
tạo điều kiện để học sinh chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng, mở rộng vốn
hiểu biết....
Tóm lại: Chương trình Tập làm văn lớp 4 hiện nay rất phù hợp với lứa tuổi
học sinh, nhằm hình thành nhân cách và phát triển con người toàn diện phù hợp với
hiện nay.
Trên đây là toàn bộ nội dung chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4.
Song vì điều kiện thời gian có hạn tôi chỉ điều tra, nghiên cứu chương trình Tập làm
văn với các loại bài: Văn miêu tả; Văn thuyết trình ( Một loại bài mới được đưa vào
chương trình).
2. Thực tiễn dạy Tập làm văn hiện nay:
7
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ của đồng nghiệp tôi thấy giáo viên và
học sinh rất hào hứng với chương trình mới. Nhiều giáo viên chú tâm và mang
nhiều năng lực nghiệp vụ cho việc thực hiện nội dung chương trình mới bằng
những biện pháp dạy học với những hình thức dạy học phù hợp. Song vì phân
môn Tập làm văn là một phân môn khó nên bên cạnh những tiết dạy thành công
vẫn không tránh khỏi những tiết học chưa đạt yêu cầu. Phương pháp dạy học và
hình thức tổ chức hoạt động của giáo viên và học sinh còn nhiều hạn chế. Giáo
viên chưa linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp cũng như sự kết hợp sử
dụng đồ dùng học tập chưa mang lại hiệu quả cao, nhiều hình thức tổ chức
chưa phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Vì vậy mà kết quả học tập
Tập làm văn của học sinh chưa cao.
3. Thực trạng của việc học văn miêu tả ở lớp 4:
Xuất phát từ thực tế dạy - học phân môn Tập làm văn lớp 4, trong những
năm qua, tôi nhận thấy: Học sinh lớp 4 khi thực hiện bài văn miêu tả (đồ vật,
cây cối, con vật) còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng bài làm chưa cao: Nguyên
nhân chủ yếu là do vốn sống, vốn hiểu biết của các em chưa phong phú, vốn từ
của các em còn nghèo nàn, lại chưa biết chắt lọc, việc sử dụng biện pháp tu từ
chưa phù hợp. Chẳng hạn: khi miêu tả cây cối, học sinh viết: Vỏ cây mít xù xì,
thô ráp như da ông em ngoài 70 tuổi. Hoặc tả cây có bóng mát, một học sinh tả
cây bàng như sau: Thân cây to bằng nắm tay em.... Bên cạnh đó, nhiều em còn
chưa nắm vững cách làm các kiểu bài văn miêu tả, còn yếu trong kĩ năng xây
dựng bố cục, chọn ý và sắp xếp ý, trong dùng từ, diễn đạt... Vì vậy bài văn của
các em thường bị rơi vào tình trạng bài văn ngắn, ý cụt ngủn. Kết quả là nhiều
bài văn miêu tả sơ sài, đối tượng miêu tả chưa được thể hiện cụ thể, chi tiết.
Sau khi tìm hiểu được thực trạng của vấn đề năm học 2015 - 2016, tôi đã áp
dụng biện pháp của mình và thử nghiệm ngay trên lớp chủ nhiệm (lớp 4E Trường tiểu học Thiệu Dương). Tôi tiến hành kiểm tra kĩ năng làm văn của học
sinh ngay sau học phần miêu tả đồ vật. Kết quả như sau:
8
Tổng số HS
33 em
Tỉ lệ %
Hoàn thành tốt
(Đạt điểm 9, 10)
3 em
9,1 %
Hoàn thành
(Đạt điểm 5,6,7,8)
22 em
66,7 %
Chưa hoàn thành
(Đạt điểm dưới 5)
7 em
21,2 %
Để giúp học sinh khắc phục những khó khăn trong khi viết văn miêu tả.
Bên cạnh việc vận dụng các phương pháp giảng dạy vào việc tổ chức các hình
thức dạy học cho học sinh tôi đã suy nghĩ, tìm tòi kết hợp một số biện pháp cụ
thể nhằm giúp học sinh viết văn miêu tả tốt hơn. Bởi vì muốn làm tốt văn miêu
tả học sinh phải có kĩ năng quan sát.
III. CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 HỌC TỐT VĂN MIÊU TẢ.
Để giúp học sinh từng bước khắc phục những hạn chế nói trên khi làm văn
miêu tả, giáo viên cần chú ý một số biện pháp sau:
1. Giúp học sinh biết quan sát:
- Khi làm bài văn miêu tả phải có yếu tố tưởng tượng, nhưng bất kì một
sự tưởng tượng nào cũng đều bắt nguồn từ thực tế nên hình ảnh được miêu tả
phải có tính chân thực, bắt đầu bằng sự quan sát, Phải quan sát bằng nhiều giác
quan, và xác định đối tượng quan sát kĩ. Khi viết văn học sinh chưa biết xác
định trọng tâm nên tập trung tả vào bộ phận nào. Chẳng hạn tả cây ăn quả cần
tả trọng tâm là quả, hình dáng của quả, hương vị của quả, ích lợi của quả,...Tả
cây có bóng mát thì trọng tâm cần phải tả là tán lá, cành lá,... không tô hồng
quá, không bót méo và quá hư cấu. Muốn quan sát đạt kết quả thì giáo viên
phải hướng cho học sinh cách chọn một điểm nhìn, một góc nhìn hợp lí. Từ đó
sẽ đem đến những sản phẩm quan sát với những hình ảnh khác nhau.
Cách nhìn của trẻ thơ khác với người lớn, của trẻ nông thôn khác với trẻ
thành phố. Góc nhìn, cách nhìn còn là quan điểm, thái độ riêng của mỗi học
sinh, song cần hướng cho học sinh thể hiện nó bằng nhãn quan thẩm mĩ, kết
hợp nhiều giác quan.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh quan sát (đồ vật, cây cối, con vật).
9
Có thể tổ chức cho học sinh quan sát vật thật (đồ chơi, đồ dùng học tập,
cây cối xung quanh sân trường.....) hoặc cho học sinh quan sát tranh, ảnh do
giáo viên sưu tầm.
- Chọn được đối tượng quan sát rồi giáo viên phải hướng dẫn học sinh
tìm vị trí thích hợp để quan sát.
- Hướng dẫn học sinh quan sát theo một trình tự nhất định: Nhìn bao quát
bên ngoài rồi đến quan sát từng bộ phận (bên ngoài / bên trong, bên trên / bên
dưới, đầu/ mình / chân / tay... hay gốc / rễ / thân / cành / lá...)
- Hướng dẫn học sinh quan sát bằng nhiều giác quan:
+ Quan sát bằng thị giác: Xem hình dáng, kích thước, màu sắc... của đồ
vật, (con vật, cây cối).
+ Quan sát bằng xúc giác: cho học đến gần dùng tay để nhận biết đồ vật
mềm hay cứng, nhẵn nhụi hay thô ráp, trơn hay xù xì...
+ Quan sát bằng thính giác: dùng tai để nghe đồ vật khi sử dụng có phát
ra tiếng động không, tiếng động đó như thế nào?
+ Quan sát bằng khiếu giác, vị giác: Để nhận biết hương thơm của cây
hoa, vị chua, ngọt của quả...
Để có những sự vật quan sát sinh động, hấp dẫn, giàu hình ảnh, giáo viên
phải hướng dẫn cho học sinh sưu tầm hoặc chủ động chuẩn bị để đem đến lớp.
Giáo viên cần sử dụng một cách có hiệu quả đồ dùng dạy học, đó là tranh minh
hoạ hình ảnh Cái cối tân (bộ tranh dạy Tập làm văn lớp 4. Màu sắc đẹp, rõ nét,
học sinh quan sát dễ,…minh họa để phục vụ cho học sinh quan sát trong khi
hình thành kiến thức (Tranh “Cái cối tân”): hay chủ yếu ở phần luyện tập.(Hoa
sầu đâu( Hoa xoan), Quả vải tiến vua, Hoa mai vàng) (Tuần 23). Ảnh minh họa
cũng được đưa ra giúp học sinh quan sát trước khi viết bài văn kiểm tra: Miêu
tả cây cối (Tuần 29).
Sau khi học sinh thực hành quan sát xong, giáo viên hướng dẫn học sinh
dựa vào kết quả quan sát để tìm ý, sắp xếp ý thành dàn ýcho bài văn.
2. Giúp học sinh lập dàn ý cho bài văn miêu tả:
10
Da vo tng bi c th m giỏo viờn hng dn hc sinh xõy dng
dn ý chi tit trc khi vit bi vn.Tuy nhiờn dn ý mt bi vn miờu t u
c xõy dng theo kt cu chung:
Dn ý bi vn miờu t
Dn ý bi vn miờu t
vt
cõy ci
1. M bi:
1. Mở bài:
Dn ý bi vn miờu t
con vt
1. M bi:
Gii thiu vt nh Giới thiệu cây muốn Gii thiu con vt nh
t.
tả.
t.
2.Thõn bi:
2.Thõn bi:
2.Thân
bài:
(Tả
từng bộ phận của
- T bao quỏt vt: cây hoặc tả từng - T bao quỏt hỡnh dỏng
hỡnh dỏng, mu sc, thời kí phát triển bờn ngoi.
của cây)
ln...
- T tng b phn ca - Tả bao quát .
- T tng b phn ca
vt.
con vt.
- Hot ng, cụng dng
- Tả thói quen sinh
ca vt.
- Tả từng bộ phận hoạt
của cây.
và
một
vài
hoạt động chính
3. Kết bài: Nêu
của con vật.
cảm nghĩ của em
3. Kết bài: Nêu
với đồ vật đợc tả.
ích lợi của con vật,
3. Kết bài: Nêu ích
lợi của cây, nêu cảm
nêu cảm nghĩ của
em.
nghĩ của em.
11
Học sinh lập được dàn ý tương đối đầy đủ cũng chính là đã biết sắp xếp
ý theo trình tự đúng với bố cục. Tuy nhiên để không bị rơi vào tình trạng bài
văn ngắn, ý cụt lủn, tôi đã đưa ra bốn cách phát triển ý trong bài văn miêu tả
nhằm giúp học sinh biết kết hợp tưởng tượng và liên tưởng làm cho bài văn
giàu hình ảnh, sống động.
Cách 1: Quan sát kĩ đồ vật (cây cối, con vật) cần miêu tả vào một thời
điểm cụ thể để nhận ra các đặc điểm của đồ vật (cây cối, con vật).
Ví dụ: Tả chiếc cặp sách hằng ngày cùng em đến trường.
Yêu cầu: Em quan sát để nhận ra đặc điểm của chiếc cặp đã đồng hành
cùng em về hình dáng, màu sắc, chất liệu, dây đeo, khoá… các bộ phận bên
trong: khi mở cặp ra, âm thanh của khoá phát ra như thế nào? Cặp có mấy
ngăn?... cặp đã cùng em chia sẻ những gì?... (đang trải những ý nghĩ của em lên
trang vở thành những câu văn giàu hình ảnh...)
Cách 2: Đặt đồ vật (cây cối, con vật) cần miêu tả trong các thời điểm
khác nhau:
Ví dụ: Em nhớ lại ngày mới mua về cặp có đặc điểm ra sao? Còn sau
này em tưởng tượng cặp sẽ như thế nào, còn giúp em những điều gì nữa?
Cách 3:
Đặt đồ vật (cây cối, con vật) cần miêu tả trong mối quan hệ
với các sự vật xung quanh.
Ví dụ: Từ ngày có chiếc cặp này, đồ dùng học tập, sách vở của em được
bảo vệ như thế nào? Cùng với những đồ dùng khác, chiếc cặp cùng em đón
nhận kết quả học tập như thế nào?
Cách 4:
Đặt đồ vật (cây cối, con vật) cần miêu tả trong mối quan hệ
“họ hàng” với các đồ vật (cây cối, con vật) cùng loại để so sánh, liên tưởng,
làm nổi bật
Ví dụ: Em so sánh chiếc cặp đang dùng với các chiếc cặp đã có từ
trước, em so sánh với chiếc cặp của bạn ngồi cùng bàn...
12
Trên đây là bốn cách phát triển ý, giúp các em khỏi bị “tắc ý” khi làm
bài. Nhiều học sinh vận dụng bốn cách này mà đã có những đoạn văn, bài văn
hay. Nội dung miêu tả sinh động, đối tượng miêu tả cụ thể, chi tiết, nổi bật.
3. Giúp học sinh xây dựng đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài văn miêu tả:
Đây là bước học sinh thể hiện sản phẩm một cách trọn vẹn, muốn xây
dựng đoạn văn đúng với bố cục và hay, học sinh phải nắm được đoạn văn đang
xây dựng thuộc phần nào trong bố cục bài văn.
Nếu là đoạn mở bài có hai cách xây dựng: Mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp.
Nếu là đoạn kết bài thì cũng có hai cách kết bài: Kết bài mở rộng và kết
bài không mở rộng.
Qua thực tế cho thấy học sinh thường lúng túng khi xây dựng đoạn mở
bài và kết bài vì thường lẫn lộn giữa Mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp (Kết
bài mở rộng và kết bài không mở rộng). Do đó mỗi khi xây dựng đoạn văn yêu
cầu đầu tiên là học sinh phải hiểu thế nào là Mở bài trực tiếp? Mở bài gián tiếp?
Kết bài mở rộng? Kết bài không mở rộng?
Từ hiểu biết trên mà học sinh phân biệt được mình đang xây dựng đoạn
văn theo cách nào.
Ví dụ:
Hãy viết:
- Phần mở bài theo kiểu gián tiếp.
- Kết bài theo kiểu mở rộng.
Cho đề bài: “Tả một đồ dùng học tập của em”. (Tiết 6 - ôn tập - TV4 Tr.176).
Các bước thực hiện:
- HS đọc kĩ đề bài, xác định rõ yêu cầu.
- HS nhắc lại thế nào là Mở bài gián tiếp? Kết bài mở rộng?
- HS thực hành viết đoạn văn. Viết xong đọc đoạn văn .
- HS cùng giáo viên nhận xét về cách mở bài và kết bài.
- Giáo viên củng cố: Đưa ra một số cách mở bài, kết bài hay.
13
Ví dụ: Mở bài theo kiểu gián tiếp:
“Đã một năm trôi qua, thế mà mỗi lần nghĩ đến giây phút có cái bút
Trạng Nguyên - một cái bút máy, tôi vẫy cảm thấy nôn nao, bồn chồn đến lạ.
Cái thời điểm ấy đi vào kí ức tôi như một kỉ niệm khó phai mờ”.
Hoặc: “Tôi ao ước có một cái bút máy như của Mai, của Dung nhưng mẹ
tôi bảo: Bao giờ lên lớp Bốn hãy dùng con ạ!”. Rồi một hôm mẹ đi công tác về,
mẹ gọi tôi lại đưa cho tôi một cái bút còn nằm trong cái hộp nhỏ chưa bóc tem.
Mẹ dặn: Mẹ tặng con chiếc bút Nét Hoa này. Nhớ phải học cho giỏi, con nhé!
Đó là cài bút máy đã theo tôi từ học kì hai năm lớp Ba đến bây giờ”.
- Kết bài mở rộng:
“Đã gần một năm rồi mà cái bút Nét hoa của tôi vẫn còn như mới. Bút
đã cùng tôi làm việc chăm chỉ ngày ngày như chiếc cày của bác nông dân mở
mang đồng ruộng, giúp tôi học mỗi ngày một tiến bộ hơn. Sự thực thì tôi đã
thực hiện rất tốt lời dặn của mẹ tôi - Tôi trở thành một học sinh Hoàn thành
xuất sắc nội dung các môn học. Một học sinh viết chữ đẹp cấp thành phố .
Thành tích đó có một phần đóng góp không nhỏ của cây bút Nét hoa”.
“Hộp bút tuy là đồ vật bé nhỏ nhưng nó đã giúp em rất nhiều trong học
tập. Một mình nó đã cất giữ bao nhiêu là thứ. Nhờ có hộp bút mà mỗi khi cần
đến đồ dùng nào em lại có ngay. Em luôn giữ gìn hộp cẩn thận. Thỉnh thoảng
em lại dùng khăn mềm lau nó thật sạch rồi cất vào cặp sách. Em nâng niu,
chăm chút nó từng li từng tí”.
Hoạt động trên là sự tổng hợp các bước riêng lẻ nên đòi hỏi học sinh cần
biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhiều hình thức tư duy để
lựa chọn sắp xếp từ ngữ, câu văn trong đoạn cho phù hợp với bố cục bài văn.
Việc liên kết các đoạn văn thành bài văn là bước tổng hợp cuối cùng của
một đề bài miêu tả. Nó mang tính chất khái quát cao. Học sinh phải biết liên kết
các đoạn văn đã xây dựng thành một khối thống nhất nhưng phải đảm bảo tính
hệ thống, tính lôgíc.
14
Trên đây là một số biện pháp để giúp học sinh học văn miêu tả ở lớp 4
tôi đã thực hiện.
IV. KẾT QUẢ SÁNG KIẾN:
Qua thực tế giảng dạy những năm gần đây, qua nghiên cứu tình hình cụ
thể ở lớp mình phụ trách và thực tế đã đưa ra các "biện pháp cụ thể giúp học
sinh học tốt Tập làm văn lớp 4” để bổ trợ cho quá trình dạy và học của giáo
viên và học sinh tôi đã thấy bước đầu có hiệu quả hơn. Chất lượng môn Tập
làm văn do lớp tôi phụ trách được nâng lên rõ rệt. Cụ thể:
Tôi tiến hành kiểm tra lần 2 vào tuần 28, kết quả như sau:
Tổng số HS
33 em
Tỉ lệ %
Hoàn thành tốt
(Đạt điểm 9, 10)
8 em
24,3 %
Hoàn thành
(Đạt điểm 5,6,7,8)
23 em
69,7 %
Chưa hoàn thành
(Đạt điểm dưới 5)
2 em
6%
15
C. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Nhìn vào kết quả của học sinh, tôi khẳng định rằng để nâng cao chất
lượng ở phân môn Tập làm văn lớp 4 ngoài việc giáo viên phải tổ chức xây
dựng hệ thống phương pháp, hình thức tổ chức linh hoạt, dạy đúng đến từng
đối tượng học sinh thì giáo viên cần phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu có
tính riêng biệt.Tuy nó chỉ mang tính hỗ trợ cho quá trình dạy - học nhưng lại
góp phần tích cực trong việc tiếp thu kiến thức và nâng cao chất lượng dạy và
học cho giáo viên và học sinh.
2. Bài học kinh nghiệm:
Qua một số việc làm trên tôi nhận thấy chất lượng phân môn Tập làm văn
của lớp tôi đã phần tiến bộ. Các em đã nắm được một số kỹ năng cơ bản trong
môn Tập làm văn. Bởi nó là một phân môn có tính tổng hợp, đòi hỏi học sinh
phải bộc lộ cả năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực cảm thụ, thái độ
của bản thân.
Chương trình đưa ra nhiều dạng bài mới, vì vậy giáo viên có những
phương pháp, hình thức dạy học mới: Phương pháp rèn theo mẫu, học sinh phải
trải qua một số thao tác nhận diện hiện tượng, so sánh, liệt kê, phân tích, tổng
hợp,... rèn cho học sinh kĩ năng định hướng trong giao tiếp bằng phương pháp
giao tiếp. Bên cạnh đó còn phải coi trọng tính chất thực hành, luyện tập. Bởi
các kĩ năng sản sinh văn bản của học sinh chỉ trở nên thành thạo khi học sinh
được luyÖn tập nói - viết nhiều lần, nói - viết để thuyết minh, để giao tiếp
thông thường.
Phân môn Tập làm văn có những khó khăn như vậy cho nên là người
giáo viên tôi xác định cho mình phải cần tìm tòi và đầu tư nghiên cứu nhiều
hơn để có phương pháp, tìm nhiều biện pháp hữu ích giúp học sinh học tốt hơn.
16
Người giáo viên cần phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong hoạt
động dạy học cần tích cực hoá được hoạt động học tập của học sinh, tìm mọi
hình thức tạo điều kiện cho mọi học sinh, được tự mình làm việc, tự mình sáng
tạo ra những sản phẩm ngôn ngữ, thể hiện đúng nhận thức, thể hiện tình cảm
thật của các em một cách tự nhiên không gò ép.
Trong công tác giáo dục và giảng dạy, giáo viên phải hết lòng yêu
thương học sinh, có trách nhiệm cao với nghề nghiệp. Bản thân người giáo viên
có hiểu biết rộng về ngôn ngữ, hiểu biết về cuộc sống thực tế của xã hội, có
phẩm chất đạo đức chuẩn mực. Trong giảng dạy cần nắm bắt được tâm tư, tình
cảm của học sinh, gần gũi các em để tìm hiểu và giúp đỡ các em trong học tập,
lao động.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy
phân môn Tập làm văn. Thời gian qua tôi đã cố gắng tìm tòi và nghiên cứu để có
được kinh nghiệm trong việc giảng dạy phân môn Tập làm văn. Song những cố
gắng đó là do chủ quan của bản thân tôi, cho nên sự cố gắng đó còn rất nhỏ bé.
Sáng kiến này là do sự thực hiện và đánh giá của cá nhân tôi. Tôi nghĩ sẽ
không thể tránh khỏi những hạn chế mà bản thân tôi chưa nhìn thấy hết được.
Qua đây, tôi rất mong các đồng chí thông cảm, mạnh dạnh xây dựng và
góp ý cho tôi để tôi có hướng đi tốt hơn trong việc giảng dạy phân môn Tập
làm văn của lớp 4.
3. Kiến nghị và đề xuất:
Với giáo viên: Cần kết hợp vận dụng linh hoạt hệ thống phương pháp
dạy học, tạo nhiều tình huống hay, hấp dẫn, tạo niềm đam mê và hứng thú trong
học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn tập làm văn nói riêng. Khi dạy nội
dung kiến thức mới, giáo viên nên đặt ra các tình huống có vấn đề để học sinh
tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức. Sử dụng đồ dùng trực quan theo yêu cầu
từng bài tập sao cho phù hợp. Sử dụng tốt các biện pháp thực hành kĩ năng nói
- viết.
17
Đề nghị nhà trường cung cấp thêm nhiều tài liệu, sách tham khảo phục vụ
chuyên môn cho giáo viên, để chúng tôi được học hỏi nâng cao hơn về kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ.
Đề nghị Phòng Giáo dục cũng như các ban ngành địa phương tạo điều
kiện về cơ sở vật chất cũng như tinh thần để giáo viên yên tâm giảng dạy. Hàng
năm có tổng kết, báo cáo kinh nghiệm, có phương pháp cải tiến dạy học để giáo
viên các trường trong thành phố có thể học hỏi những kinh nghiệm hay, những
sáng kiến giỏi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Xác nhận của Hiệu trưởng nhà trường Thiệu Dương, ngày 8 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
của người khác
Người viết
Đào Thị Thanh
Huyền
18
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Sách Tiếng Việt 4 (tập 1 + Tâp 2) của Nhà xuất bản Giáo dục.
2.Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông - Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên), Phạm
Minh Diệu
3.Bài tập nâng cao Từ và Câu lớp 4 -Nhà xuất bản Đại học sư phạm
4.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 4 của Nhà xuất bản Giáo
dục
5.Tập làm văn 4 - Đặng Mạnh Thường
19