Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng sử dụng phép so sánh trong văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.62 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong nội dung chương trình của cấp Tiểu học hiện nay, mỗi môn học đều có
một vị trí quan trọng góp phần vào sự hình thành phát triển nhân cách của trẻ. Với
tư cách là một môn học công cụ, Tiếng Việt là môn học có một vai trò đặc biệt quan
trọng.
Trong đó, phân môn Tập làm văn của môn Tiếng Việt có vai trò quan trọng
nhất bởi nó tiếp nối tự nhiên các phân môn khác như: Tập đọc, Luyện từ và câu,...
nhằm giúp cho học sinh có một năng lực mới: năng lực sản sinh văn bản (nói và
viết). Nhờ năng lực này mà các em sử dụng được Tiếng Việt văn hóa làm công cụ
tư duy, giao tiếp và học tập để phát triển một cách toàn diện.
Dạy Tập làm văn ở trường tiểu học là giúp cho học sinh có kĩ năng nói và
viết văn bản; biết huy động kiến thức về nhiều mặt như: hiểu biết cuộc sống, kiến
thức về khoa học và văn học; biết sử dụng các kĩ năng viết bài như: dùng từ, đặt
câu, dựng đoạn, kỹ năng sử dụng từ chính xác kết hợp với cách sử dụng các biện
pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ... để sản sinh nhiều bài văn giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc gây rung động tâm hồn người đọc. Từ đó tâm hồn của các em ngày càng
phát triển phong phú hơn.
Phân môn Tập làm văn có tầm quan trọng như vậy, mà quan trọng và gần gũi
với các em hơn cả là thể loại văn miêu tả. Thể loại này các em được làm quen từ
lớp 2 dưới hình thức: quan sát tranh; đến lớp 3 các em được học để viết thành một
bài văn với các kiểu bài: kể về cây cối, đồ vật, ... Lên lớp 4, yêu cầu các em biết
huy động kiến thức để làm bài văn hoàn chỉnh hơn, giàu hình ảnh và giàu cảm xúc
hơn. Vì vậy việc giúp học sinh lớp 4 biết miêu tả sự vật, hiện tượng gần gũi với các
em là vô cùng cần thiết. Trong đó, giúp học sinh có phương pháp viết văn, nối kết
kiến thức ở các lớp trước và sử dụng các biện pháp tu từ - đặc biệt là phép so sánh
trong khi miêu tả để viết được những câu văn, bài văn giàu những rung động mạnh
mẽ của tâm hồn; giúp các em có hành trang cần thiết để học tốt các môn học nói
chung và học tốt phân môn Tập làm văn nói riêng ở lớp 4 và các lớp tiếp theo là
một việc làm đặc biệt quan trọng.
Tóm lại, nhiệm vụ của dạy Tập làm văn (thể loại miêu tả) ở Tiểu học là giúp


học sinh biết quan sát, miêu tả sự vật gần gũi với các em. Qua đó, học sinh nắm
được phương pháp quan sát đối tượng miêu tả, phát triển năng lực phân tích, tổng
hợp; đồng thời năng lực tưởng tượng – liên tưởng qua việc sử dụng biện pháp so
sánh, năng lực cảm thụ cái đẹp của sự vật, năng lực bộc lộ cảm xúc cá nhân cũng
được tạo lập và phát triển. Từ đó giúp các em viết được những bài văn giàu hình
ảnh, giàu cảm xúc làm rung động tâm hồn người đọc, giúp các em có hành trang
cần thiết để học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 4 và các lớp tiếp theo. Đồng thời,
các em có cơ hội làm giàu vốn sống của mình, bồi dưỡng tâm hồn và phát triển
1


nhân cách con người Việt Nam mới.
Mặc dù nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn quan trọng như vậy, song việc
dạy và học phân môn này hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: Bài làm của học sinh
viết còn sơ sài, rời rạc, thiếu cảm xúc, ít sử dụng biện pháp tu từ. Bên cạnh đó, vẫn
còn một số giáo viên chưa thực sự coi trọng việc hướng dẫn sử dụng biện pháp tu
từ (đặc biệt là biện pháp so sánh) để viết văn cho học sinh. Theo họ, các em cứ
viết được bài văn đủ bố cục, tả đủ các chi tiết của sự vật là được. Còn việc viết bài
văn sao cho sinh động, giàu hình ảnh thì chưa cần, vì lên lớp trên các em sẽ được
học tiếp. Từ các vấn đề nêu trên dẫn đến hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm văn
trong những năm qua chưa đạt được yêu cầu đặt ra.
Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng sử dụng phép so
sánh trong văn miêu tả cho học sinh lớp 4” để làm đề tài nghiên cứu của mình.
Vào năm học 2015 – 2016, tôi tiến hành áp dụng những biện pháp đã tìm tòi,
nghiên cứu vào quá trình giảng dạy (cụ thể là lớp 4A - trường Tiểu học Thiệu
Nguyên) với mục đích giúp học sinh yêu thích môn học hơn, viết được bài văn
miêu tả sinh động, sáng tạo, thấm đượm cảm xúc riêng, có hồn và độc đáo.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
+ Tìm hiểu việc dạy Tập làm văn (thể loại miêu tả) của giáo viên trong khối; Thực
trạng sử dụng các biện pháp tu từ (đặc biệt là biện pháp so sánh) trong bài văn của

học sinh khối lớp 4.
+ Trao đổi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để tìm được phương pháp tốt
nhất, giúp học sinh có khả năng sử dụng biện pháp so sánh trong văn miêu tả.
+ Xây dựng hệ thống bài tập giúp học sinh sử dụng biện pháp so sánh khi viết văn
miêu tả, tạo hứng thú cho học sinh khi viết văn, góp phần tháo gỡ những khó khăn
trong dạy học văn miêu tả.
+ Rút kinh nghiệm sau mỗi biện pháp để nâng cao kĩ năng sử dụng biện pháp so
sánh trong làm văn cho học sinh lớp 4 nói riêng và cho học sinh tiểu học nói chung.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
+ Khái niệm về biện pháp so sánh (ở mức cơ bản).
+ Tác dụng của biện pháp so sánh trong văn miêu tả (phạm vi lớp 4 cấp Tiểu học).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
+ Nghiên cứu lí luận:
Đọc sách giáo khoa phân môn, tham khảo các tài liệu có liên quan đến việc
dạy Tập làm văn (thể loại miêu tả) đặc biệt là các phương pháp rèn kĩ năng sử dụng
phép tu từ ( chú trọng biện pháp so sánh) trong việc làm bài của học sinh; Tìm hiểu
những cơ sở khoa học cùng những vấn đề tài liệu đã đưa ra mà chưa được ứng
dụng triệt để trong giảng dạy.
+ Nghiên cứu bằng điều tra, khảo sát thực tế: Điều tra thực trạng giảng dạy của
giáo viên và thực trạng bài làm Tập làm văn của học sinh trong khối 4 trường Tiểu
học Thiệu Nguyên; của học sinh lớp chủ nhiệm (4A).
2


+ Nghiên cứu bằng thực nghiệm:
So sánh đối chiếu bài làm của học sinh trước và sau khi nghiên cứu để rút
kinh nghiệm, từ đó đưa ra bài học cho bản thân để áp dụng trong các năm học sau.
+ Nghiên cứu bằng phân tích, tổng hợp:
Phân tích, tổng hợp những khó khăn và lỗi thường gặp của học sinh khi sử dụng
biện pháp so sánh để viết văn.


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Để giúp học sinh "viết văn hay" giàu cảm xúc là cả một quá trình rèn luyện
kiên trì, liên tục (từ lớp 2, lớp 3 đến lớp 4, lớp 5). Văn không thể hay được nếu học
sinh chưa có hứng thú học văn và chưa có phương pháp học tập tốt. Vì vậy, mỗi
giáo viên chúng ta cần tích cực tìm tòi, học hỏi để giúp học sinh có phương pháp
học tập tốt và ham thích học phân môn Tập làm văn. Theo đó, việc rèn kĩ năng viết
văn hay vừa nhằm mục đích nâng cao năng lực viết bài vừa nâng cao ý thức tự rèn
luyện ở mỗi học sinh.
Ở thể loại văn miêu tả, để có được bài văn hay, học sinh cần có: vốn từ, kĩ
năng quan sát thực tế một cách tinh tế nhất. Sau đó cần có sự kết hợp giữa hình ảnh
tả thực và hình ảnh sáng tạo nhờ sự liên tưởng một cách phong phú; kết hợp với kĩ
năng sử dụng ngôn ngữ, các biện pháp tu từ (đặc biệt là biện pháp so sánh) để bài
viết của các em giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mang đậm màu sắc của cuộc sống
xung quanh và hấp dẫn người đọc; khiến cho các sự vật thiên nhiên trở nên sống
động, có tâm hồn như con người. Nhờ có kĩ năng sử dụng biện pháp này mà trong
cuộc sống, chúng ta gặp một số nhà văn với các hình ảnh sáng tạo khiến cho tâm
hồn ta rung động mãi.
Chẳng hạn:
"Mặt biển sáng trong như một tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú Nam)
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có cách so sánh độc đáo:
"Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời"
(Trích "Trăng ơi ... từ đâu đến?"
Hay:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Trong một số tác phẩm văn học, ta bắt gặp cách so sánh một cách rất riêng, rất

"thần kì": Nhìn bầu trời đầy sao, Ga- ga- rin – nhà du hành vũ trụ người Nga- so
sánh nó "như những hạt giống mới mà loài người gieo vào vũ trụ"; còn Vích- to
Huy- gô - đại văn hào Pháp lại so sánh nó "giống như một cánh đồng lúa chín, ở đó
người gặt đã bỏ quên lại một cái liềm con - là vành trăng non". Còn Nam Cao nhà văn Việt Nam ta - thì ví "Trăng là cái lưỡi liềm vàng trên cánh đồng đầy sao".
(Lược trích "Chữ nghĩa trong văn miêu tả"- Phạm Hổ)
3


Chỉ có những tâm hồn giàu cảm xúc cùng với kĩ năng sử dụng phép so sánh
tuyệt vời mới có những câu văn, câu thơ có "hồn" như vậy. Nhờ phép so sánh sinh
động, giàu hình ảnh đó mà những sự vật tưởng như "vô hồn" quanh ta được nâng
lên lung linh tuyệt đẹp. Quả là tả không phải chỉ để tả mà là để "ngụ tình".
Do vậy, dạy cho học sinh viết "văn hay" thuộc thể loại miêu tả, chúng ta những giáo viên tiểu học cần giúp các em hiểu và sử dụng tốt biện pháp so sánh để
làm giàu nhận thức của mỗi em, giúp các em thêm yêu thiên nhiên xung quanh, yêu
con người và yêu cuộc sống, đồng thời biết rung cảm trước vẻ đẹp của cuộc sống
và viết được bài văn mang nét mới, có "hồn" và độc đáo.
2.2 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN:
2.2.1. Những thuận lợi và khó khăn:
a. Những thuận lợi:
- Đời sống của nhân dân xã Thiệu Nguyên ngày càng được nâng cao, phong
trào xã hội hóa giáo dục được thực hiện có hiệu quả. Vì vậy, đa số phụ huynh rất
quan tâm đến việc học tập của con em mình.
- Nề nếp dạy và học ở trường Tiểu học Thiệu Nguyên được thực hiện nghiêm
túc, trình độ giáo viên ngày càng được nâng cao. Ban giám hiệu thực sự quan tâm,
tạo mọi điều kiện cho các giáo viên đem hết khả năng của mình để nâng cao chất
lượng dạy và học. Việc đổi mới phương pháp dạy học đang được áp dụng và ngày
càng hoàn thiện.
- Lớp chủ nhiệm là lớp mà 100% học sinh có Năng lực và Phẩm chất đều
Đạt. Các em chăm học, có ý thức tự giác học tập. Về học lực: khả năng tiếp thu
tương đối đồng đều. Do vậy, giáo viên có điều kiện tốt để củng cố kiến thức cơ bản

và bồi dưỡng thêm kiến thức cho các em.
b. Những khó khăn:
- Bên cạnh các thuận lợi đã nêu vẫn còn một số gia đình chưa thực sự quan
tâm đến việc học tập của con cái. Lớp 4A do tôi chủ nhiệm có hơn 90% học sinh
thuộc con gia đình nông dân, trong đó có 2 em thuộc hộ nghèo, 3 em thuộc hộ cận
nghèo, 2 em có hoàn cảnh đặc biệt (bố mất, mẹ đi làm xa). Đa số các em đều ở với
ông bà đã già yếu, nhờ ông bà nuôi nấng, chăm sóc. Do vậy, các em thiếu sự quan
tâm, kèm cặp của bố mẹ; việc học tập chủ yếu nhờ vào sự dạy dỗ của thầy cô.
- Vẫn còn một số ít giáo viên chưa coi trọng việc dạy Tập làm văn, đặc biệt
là dạy các em sử dụng biện pháp so sánh để viết văn. Chưa nghiên cứu kĩ tính chất
liên môn trong các phân môn của Tiếng Việt. Theo họ, các em cứ tả đủ đặc điểm
các chi tiết của sự vật, không lạc đề là được. Còn việc viết văn cho sinh động, giàu
hình ảnh có sử dụng các biện pháp tu từ thì chưa cần vì lên lớp trên các em sẽ được
học và còn phụ thuộc vào năng khiếu của mỗi em. Do vậy, hiện tượng cả lớp viết
bài văn cứ na ná giống nhau (Mở bài giống nhau, so sánh giống nhau, kết bài cùng
một mẫu, ...) vẫn còn tồn tại.
4


- Học sinh lớp chủ nhiệm đạt mức "hoàn thành tốt" chủ yếu ở môn Toán và
các môn khác, còn ở môn Tiếng Việt chỉ đạt "hoàn thành" và vẫn còn một vài em
chưa hoàn thành. Đặc biệt phân môn Tập làm văn chỉ ở mức biết viết đủ bố cục
nhưng nội dung bài làm còn quá sơ sài. Tâm lí các em có đến 90% thích học Toán
còn Tiếng Việt thì rất ngại học.
2.2.2 Tiến hành điều tra và khảo sát:
a. Khảo sát kĩ năng sử dụng biện pháp so sánh:
Sau khi học xong bài Luyện tập miêu tả đồ vật (tiết 2- tuần 16), tôi tiến hành
điều tra thực trạng về việc học phân môn Tập làm văn (coi trọng kĩ năng sử dụng
biện pháp so sánh trong bài viết) của các em thông qua bài làm:
Đề bài: Viết một đoạn văn tả cái cặp sách của em.

Kết quả chưa được như mong muốn: Các em viết bài với việc liệt kê một loạt
đặc điểm của cái cặp, đoạn văn thiếu hình ảnh, thiếu cảm xúc riêng của các em
(Mặc dù tôi đã gợi ý cách sử dụng các biện pháp tu từ, đặc biệt là biện pháp so
sánh). Toàn bộ bài làm của các em là: vật phải tả có những đặc điểm gì các em kể
hết vào bài theo kiểu tả sinh vật, rất ít hình ảnh, chưa có cảm xúc riêng.
b. Phân loại học sinh:
Tôi tiến hành phân loại học sinh (theo tiêu chí sử dụng các biện pháp so
sánh) như sau:
Phân loại học sinh (tổng 30 em)
Sử dụng tương đối chính xác:
Sử dụng nhưng thiếu chính xác:
Chưa biết sử dụng biện pháp so sánh:

Số lượng
4 em
14 em
12 em

Tỉ lệ
13.3 %
46.7 %
40 %

c. Nguyên nhân
Sau khi phân loại học sinh, tôi đã tìm hiểu và biết được các nguyên nhân dẫn
đến thực trạng trên như sau:
- Những em biết viết câu văn có hình ảnh bằng cách sử dụng các biện pháp
tu từ (so sánh) là do các em biết cách quan sát sự vật, biết liên tưởng và so sánh các
sự vật một cách chính xác, sinh động. Mặt khác, các em rất ham đọc sách, thích
học văn, tham gia viết báo và được gia đình quan tâm đúng cách.

- Những em biết sử dụng biện pháp so sánh nhưng chưa chính xác là do các
em chưa biết cách quan sát, chưa hiểu rõ biện pháp nên liên tưởng thiếu chính xác,
làm cho cách so sánh trong câu văn, bài văn trở nên khập khiễng, thiếu hợp lí, thiếu
thực tế.
- Những em chưa sử dụng biện pháp so sánh vì các em chưa thực sự thích
học văn, đến tiết Tập làm văn là ngại nên bài làm còn ngắn, ý văn nghèo nàn, thiếu
sự liên tưởng sáng tạo. Bên cạnh đó, các em rất ít quan sát thiên nhiên xung quanh.
Ham xem ti vi và chơi các trò chơi điện tử. Do vậy, các em thấy gì viết nấy, bài làm
5


chỉ dừng lại ở việc liệt kê tính chất, đặc điểm của sự vật mà chưa mang tính tả văn
học. Bên cạnh đó, gia đình chưa thực sự quan tâm, các em phải làm giúp bố mẹ
nhiều việc. Vì thế, các em không có thời gian để học chưa nói đến việc đọc sách
tham khảo hay quan sát chi tiết, kĩ càng các đối tượng miêu tả.
Từ thực tế như vậy, tôi thấy cần phải giúp các em chăm học (đặc biệt là phân
môn Tập làm văn), các em hiểu và sử dụng tốt biện pháp so sánh – một phép tu từ
rất cần khi miêu tả sự vật để bài văn của các em giàu hình ảnh, thấm đượm tình
cảm hồn nhiên tuổi thơ các em và để có "hành trang" mà học tốt môn học này ở
các lớp tiếp theo.
2.3 CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Biện pháp1: Tổ chức và xây dựng nề nếp học tập cho học sinh.
Như giáo viên chúng ta thường nói: "nề nếp là chất lượng". Vì vậy để nâng
cao chất lượng giáo dục, việc làm cần thiết và quan trọng là xây dựng nề nếp học
tập cho học sinh.Từ đầu năm học, căn cứ vào lực học và khả năng tiếp thu của học
sinh, tôi đã phân loại học sinh để có phương pháp dạy học phù hợp. Đồng thời
trong từng nhóm đó, tôi phân cặp thi đua để các em đua nhau học tập. Sau mỗi tuần
học, các em tổng hợp việc làm tốt được tuyên dương trừ đi việc phạm lỗi (quên đồ
dùng, sách vở, chưa thuộc bài, …) để biết bạn nào đã tiến bộ hơn, bạn nào còn cần
phải cố gắng. Cách thi đua này do từng nhóm bàn có sổ theo dõi thực hiện và bình

xét, công bố kết quả vào giờ sinh hoạt cuối tuần.
Ngoài ra, khi thấy một số em chưa có sự tiến bộ rõ rệt, tôi đã phát động phong
trào "Đôi bạn cùng tiến" với mục đích: cử học sinh học tốt hơn kèm cặp thêm cho
bạn trước giờ vào học cũng như khi tự học ở nhà.
Bên cạnh đó, trong những lúc thích hợp, tôi giúp học sinh rèn luyện để có
động cơ học tập đúng đắn: học để hiểu biết, học để sống tốt hơn và học để tự khẳng
định mình. Từ đó, các em học sinh chăm chỉ, ham thích học tập hơn.
Cuối mỗi tháng, tôi thường ra đề kiểm tra để kiểm định việc làm của mình và
đồng thời động viên khuyến khích học sinh: Em nào làm bài tốt nhất nhóm (nhóm
đồng trình độ) tôi có phần thưởng cho các em. Biện pháp này đã được các phụ
huynh rất đồng tình ủng hộ và từng bước nâng cao được nề nếp học tập của lớp
cũng như ý thức học tập của từng học sinh.
Biện pháp 2: Giáo viên cần nắm chắc kiến thức về biện pháp so sánh tu từ.
a. Về khái niệm và cấu tạo của phép so sánh tu từ:
Ở trường sư phạm và một số tài liệu nghiên cứu về biện pháp so sánh đã cho
chúng ta một khái niệm như sau: "so sánh là đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng
vào các quan hệ nhất định nhằm tìm ra các sự giống nhau và khác biệt giữa
chúng". Đó là cách định nghĩa về so sánh nói chung. Trên thực tế tồn tại hai loại so
sánh là so sánh tu từ và so sánh luận lí (so sánh logic); đối với văn học và đặc biệt
là với học sinh Tiểu học, chúng ta không thể ôm đồm nhiều, chỉ cố gắng giúp các
em hiểu và sử dụng tốt loại so sánh tu từ trong nói và viết văn bản. Muốn vậy,
6


chúng ta cần hiểu một cách cụ thể về cấu tạo của so sánh:
Một mô hình so sánh đầy đủ bao gồm 4 yếu tố:
+Yếu tố 1: Yếu tố được (bị) so sánh (tùy theo việc so sánh là tích cực hay tiêu cực)
+Yếu tố 2: Yếu tố chỉ phương diện so sánh (chỉ tính chất, đặc điểm của sự vật hay
trạng thái của hoạt động).
+ Yếu tố 3: Yếu tố quan hệ so sánh (quan hệ ngang bằng hoặc không ngang bằng).

+ Yếu tố 4: Yếu tố chuẩn (được đưa ra làm chuẩn để so sánh).
Ví dụ:
Yếu tố 1
Yếu tố 2
Yếu tố 3
Yếu tố 4
Bạn Hải
nhanh
tựa
một con sóc
Cây bưởi
cần mẫn
như
một người mẹ
Trong thực tế, không phải lúc nào so sánh sự vật cũng cần có cả 4 yếu tố
trên. Nó có thể thiếu vắng một hoặc hai yếu tố (trong đó yếu tố 1 và yếu tố 4 không
thể thiếu. Nếu vắng yếu tố 1, ta có phép ẩn dụ - chưa đưa vào cấp tiểu học):
Ví dụ: Cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới. (Vũ Tú Nam)
b. Về các loại so sánh tu từ:
Có nhiều căn cứ để chia ra các loại so sánh:
- Căn cứ vào từ ngữ chỉ quan hệ so sánh, có thể chia so sánh ra các loại sau đây:
+ So sánh ngang bằng (không có từ so sánh):
Ví dụ:
Trường Sơn: chí lớn ông cha.
Hoặc so sánh ngang bằng có từ chỉ so sánh (như, giống như, hệt, y hệt, tựa,
bao nhiêu - bấy nhiêu, ...)
Ví dụ:
Con gà trống bước đi như một ông tướng.(câu văn của học sinh)
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.
(Tố Hữu)

+ So sánh hơn:
Ví dụ: Áo rách khéo vá hơn lành vụng may. (Tục ngữ)
+ So sánh kém:
Ví dụ:
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con. (Trần Quốc Minh)
- Căn cứ vào đối tượng, hiện tượng so sánh, ta có các loại:
+ So sánh vật với con người:
Ví dụ: Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một người lính gác khổng lồ.
+ So sánh người với người.
Ví dụ: Bà hiền như một bà tiên trong truyện cổ tích.
+ So sánh người với các con vật:
Ví dụ: Trông anh ta như một con gấu và cần mẫn làm việc như một con la.
+ So sánh người với cây cối.
Ví dụ: Chấm cứ như một cây xương rồng. ( Đào Vũ)
7


+ So sánh vật với vật, cảnh với cảnh:
Ví dụ: Những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng.
(Vũ Tú Nam)
- Căn cứ cách thức, ta có những hiện tượng so sánh sau:
+ So sánh theo hướng thu nhỏ lại:
Ví dụ: Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ lửng giữa không trung.
+ So sánh theo hướng phóng đại lên:
Ví dụ: Rệp bò lổm ngổm như xe cóc - Muỗi lượn nghênh ngang tựa máy bay.
(Hồ Chí Minh)
+ So sánh theo hướng cụ thể hóa:
Ví dụ: Mặt trời nhô lên như một quả bóng bay mềm mại.
Còn rất nhiều căn cứ để chia ra các tiểu loại so sánh. Tuy nhiên, ở Tiểu học,

giáo viên cần chọn và giúp học sinh tạo lập và sử dụng một số cách so sánh dễ hiểu,
gần gũi với các em (như đã nêu ở trên).
c. Về chức năng và vài trò của biện pháp so sánh tu từ:
Biện pháp so sánh tu từ có hai chức năng chủ yếu là chức năng nhận thức và
chức năng biểu cảm. Chức năng nhận thức được thể hiện ở chỗ: nó đem lại cho
chúng ta những hiểu biết tri giác mới mẻ, hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng, tính
chất, trạng thái, ...trong thế giới quan qua hình ảnh so sánh. Phần lớn các phép so
sánh đều lấy cái không cụ thể hoặc kém cụ thể để so sánh với cái cụ thể nhằm giúp
mọi người hình dung được sự vật cần miêu tả.
Ví dụ:
Công cha như núi Thái Sơn. (Ca dao)
Còn chức năng biểu cảm thể hiện cụ thể như sau: qua bất kì một phép so sánh tu từ
nào, chúng ta cũng đều nhận ra thái độ của người nói và viết với đối tượng miêu tả:
đó là sự yêu, ghét, khen, chê, .... Chính chức năng này sẽ giúp ta tạo nên những
hình ảnh sống động, gợi cảm; tạo ra những cách nói mới mẻ, giúp ta diễn đạt một
cách biểu cảm hơn, sinh động hơn. Đồng thời qua cách sử dụng hình ảnh so sánh sẽ
bộc lộ được thái độ, tình cảm của người nói và viết với đối tượng miêu tả.
So sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong Tiếng Việt, nhưng chỉ trong văn
chương nó mới thể hiện đầy đủ nhất khả năng tạo hình cũng như khả năng biểu
cảm của nó. Vì vậy, chúng ta mới có cách cảm nhận đầy biểu cảm của một Trần
Đăng Khoa với:
"Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng".
d. Về cơ chế tạo ra biện pháp so sánh tu từ:
So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng, tưởng tượng. Khi quan sát một
đối tượng nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc, hình dáng tới kích thước,
trạng thái, ...) thường gợi cho người quan sát nghĩ tới những hình ảnh khác có một
nét tương đồng nào đấy (dĩ nhiên, mỗi người có một cách liên tưởng riêng thì sẽ tạo
ra một hình ảnh so sánh độc đáo, mới mẻ). Chính sự liên tưởng so sánh này làm
8



cho trang văn miêu tả hay hơn, đối tượng miêu tả rõ hơn, đẹp hơn và hấp dẫn hơn.
Do đó, chúng ta cần giúp học sinh biết quan sát, liên tưởng để tạo ra hình ảnh
so sánh mới, mang nét thơ ngây, hồn nhiên và trong sáng của các em mà không bắt
chước một cách máy móc, cứng nhắc và sáo rỗng theo văn mẫu.
Biện pháp 3: Giúp học sinh hiểu "Thế nào là biện pháp so sánh".
a. Qua các đoạn văn, thơ trong môn Tiếng Việt
Do ở lớp 3, các em đã được làm quen với phép so sánh từ tuần 1 và được học
trong suốt học kì I ở phân môn Luyện từ và câu, nên đã có kiến thức cụ thể về so
sánh. Điều này giúp học sinh sớm vận dụng được biện pháp so sánh trong cách nói
và viết làm cho câu văn trở nên sinh động hơn, có hình ảnh hơn. Tuy nhiên, hầu
như các em chỉ biết nói, viết theo câu mẫu và cứ có các từ như, giống, tựa, ... là đã
so sánh rồi. Theo đó, thế nào là so sánh thì các em chưa được học ở mức khái niệm
khái quát. Vì vậy, ở lớp 4, giáo viên cần phải tiếp tục lồng ghép dạy trong các phân
môn của môn Tiếng Việt để các em hiểu được thế nào là phép so sánh nhằm giúp
các em sử dụng tốt "công cụ" này khi làm văn.
* Ví dụ: Bài "Cây bút máy" (SGK Tiếng Việt 4 tập 1- trang 170)
- Giáo viên cần chỉ cho học sinh nhận ra phép so sánh qua các câu văn:
"Thân bút tròn, nhỏ nhắn, bằng ngón tay trỏ."
"Bút cùng em làm việc chăm chỉ như chiếc cày của bác nông dân cày trên
đồng ruộng."
- Giáo viên hỏi học sinh:
+Trong hai câu văn trên, tác giả đã dùng những hình ảnh nào khiến ta hình dung sự
vật (cái bút) cụ thể hơn, đẹp hơn và sinh động hơn?
+ Tác giả đã sử dụng biện pháp gì khi miêu tả?
Qua đó, giáo viên cung cấp cho học sinh khái niệm: " Các em ạ! Khi nói hay
viết, người ta thường so sánh sự vật này với sự vật khác có nét giống nhau để cho
lời nói, câu văn sinh động, gợi cảm; giúp cho người đọc, người nghe hình dung sự
vật một cách cụ thể hơn . Đó chính là ta đã sử dụng biện pháp so sánh."

* Trong đoạn văn (trang 172- SGK Tiếng Việt 4 tập1): Giáo viên có thể hỏi
thêm (ngoài câu hỏi của bài tập) "Tìm hình ảnh so sánh trong đoạn văn tả cái cặp
của Ngô Xuân Hương":
+ Học sinh đã tìm được hình ảnh so sánh:
"Đó là chiếc cặp màu đỏ tươi, chỉ nhỉnh hơn chiếc bảng con một chút"
"Cặp có hai mắt khóa mạ kền giống như hai con mắt sáng long lanh"
* Tôi chọn ra một số đoạn thơ văn, yêu cầu học sinh phát hiện biện pháp so
sánh mà tác giả đã sử dụng:
Chẳng hạn:
"Những ngôi sao trên trời
Như cánh đồng mùa gặt
Vàng như những hạt thóc
Phơi trên sân nhà em " (Nguyễn Hưng Hải)
9


+Tôi hỏi học sinh: "Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?"
(Các em nêu: biện pháp so sánh).
+Yêu cầu nâng cao hơn: "Vì sao em biết?"
Học sinh trả lời: Vì tác giả đã nói "ngôi sao" vàng như "hạt thóc" phơi trên sân.
Hay bài: Cây dừa của Trần Đăng Khoa:
" Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao,
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh."
Cũng với câu hỏi trên, học sinh nêu được: Tác giả đã sử dụng biện pháp so
sánh vì tác giả đã ngầm viết: Quả dừa như đàn lợn con, tàu dừa như chiếc lược....
Để hấp dẫn học sinh, trong những lúc thích hợp, tôi thường tổ chức trò chơi
"Ai tìm nhanh" để học sinh thi đua tìm biện pháp so sánh trong hai đoạn văn, thơ có
hình ảnh so sánh tương đương. Học sinh khác sẽ phát vấn bạn "Vì sao bạn biết đó

là biện pháp so sánh ?". Yêu cầu nâng cao hơn: "Cách so sánh ấy có gì hay?"
Ví dụ: Thi tìm hình ảnh dùng phép so sánh trong hai khổ thơ bài Bè xuôi sông La:
A
B
Sông La ơi sông La
Bè đi chiều thầm thì
Trong veo như ánh mắt
Gỗ lượn đàn thong thả
Bờ tre xanh im mát
Như bầy trâu lim dim
Mươn mướt đôi hàng mi.
Đằm mình trong êm ả.
(Vũ Duy Thông)
Từ tuần 22 trở đi, trong các bài tập đọc, các đoạn văn trong tiết Tập làm văn,
có rất nhiều hình ảnh so sánh độc đáo - là điểu kiện để giáo viên giúp học sinh hiểu
hơn về biện pháp so sánh tu từ trong văn miêu tả. Nhờ cách này mà học sinh có
hứng thú học trong từng tiết học, đa số các em đã hiểu được thế nào là biện pháp so
sánh và bước đầu hiểu được tác dụng của biện pháp so sánh trong miêu tả. Bên
cạnh đó, học sinh tích cực học tập, không khí lớp học trở nên sôi nổi hẳn lên.
b. Qua các môn học khác:
- Cho học sinh tìm sự giống nhau và khác nhau giữa các con vật, cây cối, hoa quả
trong các môn Khoa học, Kĩ thuật.
- So sánh hình ảnh của sự vật trong môn Đạo đức, Kể chuyện.
Việc giúp các em so sánh sự vật ở các môn học này mặc dù chỉ mang tính
chất sinh học, song qua quan sát, so sánh, các em sẽ kết nối được đặc điểm các sự
vật với nhau. Từ đó, giúp các em rèn kĩ năng so sánh, biết so sánh một cách chính
xác và chân thực.
Biện pháp 4: Giúp học sinh nhận biết tác dụng của biện pháp so sánh trong
miêu tả.
Khi các em đã hiểu về biện pháp so sánh, tôi giúp các em phát hiện ra giá trị

nghệ thuật của biện pháp này trong miêu tả như sau:
10


a. Tác dụng gợi tả:
* Khi tả màu sắc của chiếc bút mực (Tả đồ vật), có bạn đã viết:
+ Chiếc bút của em có hai màu: màu xanh và màu trắng.
+ Chiếc bút của em có màu trắng pha xanh rất đẹp.
+ Chiếc bút của em màu trắng pha xanh như một cái áo tuyệt đẹp.
- Giáo viên chép các câu văn lên bảng, yêu cầu học sinh so sánh xem câu văn nào
hay hơn? Vì sao?
- Cuối cùng giáo viên kết luận và giúp học sinh hiểu rằng:
+ Câu thứ nhất đã nêu được màu sắc cụ thể của cái bút. Câu văn thứ hai diễn đạt
hay hơn vì biết dùng cụm từ "màu trắng pha xanh". Nhưng câu văn thứ ba mới là
câu hay nhất bởi đã biết so sánh màu của bút như chiếc áo đẹp. Qua câu văn này,
người đọc hình dung được một cái bút có chiếc áo đẹp với màu sắc rực rỡ.
Như vậy, nhờ biết sử dụng phép so sánh mà cái bút hiện lên trước mắt người đọc
cụ thể hơn, sinh động hơn và đẹp hơn.
* Hay qua bài Sầu riêng (Tập đọc tuần 22), sau khi giúp học sinh tìm hiểu
bài, tôi đã đặt câu hỏi giúp các em hiểu tác dụng của biện pháp so sánh:
+ Chúng ta hãy xem cách miêu tả hương vị độc đáo trong trái sầu riêng của nhà
văn Mai Văn Tạo thông qua phép so sánh "Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín
quyện với hương bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của mật ong già hạn."
Cách miêu tả đó có gì hay?
Tôi giúp HS phân tích để thấy cái "thần kì" của phép so sánh trong miêu tả: Việc
so sánh hương vị của trái sầu riêng với hàng loạt các mùi vị thân thuộc, gần gũi (là
mít chín, hương bưởi, trứng gà, mật ong) khiến người đọc như được cùng nếm,
cùng thưởng thức hương vị đặc biệt đó qua từng từ ngữ, từng hình ảnh mà tác giả
dùng để miêu tả; giúp cho người đọc dù chưa một lần được ngửi hay ăn trái sầu
riêng hình dung được mùi vị của nó như quen quen, như đã được nếm lần nào rồi.

Cũng miêu tả hương vị trái sầu riêng mà chúng ta chỉ nói rằng: sầu riêng rất thơm
và rất ngon, thì liệu người đọc có hình dung ra hương vị đặc biệt của loại trái cây
này chăng?
Như vậy, biện pháp so sánh khi sử dụng chính xác sẽ làm cho người đọc
hình dung vật được miêu tả một cách rõ ràng, cụ thể. Từ đó, mỗi câu văn, câu thơ,
cả bài miêu tả sẽ sinh động, hấp dẫn và rung động tâm hồn người đọc.
b. Tác dụng gợi cảm:
Bằng cách sử dụng phép so sánh, người viết còn bộc lộ được cảm xúc của
mình với sự vật được miêu tả:
* Trở lại với "hương vị trái sầu riêng" của nhà văn Mai Văn Tạo, tôi giúp học
sinh hiểu: Qua cách so sánh hương vị của trái sầu riêng với mùi vị thân thuộc như
hương cau, hương bưởi, trứng gà, mật ong, tác giả không chỉ giúp chúng ta hình
dung được hương vị độc đáo của trái sầu riêng mà còn bộc lộ được tình cảm yêu
mến, đam mê hương vị sầu riêng của chính tác giả. Người đọc nhận ra rằng: tác giả
11


miêu tả trái sầu riêng bằng cả tâm hồn trân quí của mình; đồng thời, cách miêu tả
đó còn giúp người đọc thấy sự hấp dẫn, lôi cuốn của mùi vị trái sầu riêng mà thêm
yêu quí, trân trọng nó, mong muốn được thưởng thức mùi vị quyến rũ đó.
* Trong đoạn văn Cây sồi già (Lép Tôn - xtôi), sau khi cho học sinh tìm hình
ảnh so sánh trong bài, tôi gợi ý:
+ Khi so sánh cây sồi "như một con quái vật già nua, cau có và khinh khỉnh",
tác giả đã bộc lộ cảm xúc gì?
Học sinh đã phát hiện: tác giả chẳng yêu quí gì cái cây sồi này cả và còn giúp
người đọc hình dung cây sồi già này thật xấu xí và đáng ghét.
Tóm lại, sử dụng biện pháp so sánh trong miêu tả, không chỉ đem lại cho các
em sự nhận thức chính xác, mới mẻ về sự vật được miêu tả mà còn giúp các em
biết thể hiện một cách sâu sắc thái độ, tình cảm của mình trong từng hình ảnh so
sánh sự vật. Đồng thời bài viết của các em trở nên độc đáo, sáng tạo, sinh động và

hấp dẫn hơn.
Biện pháp 5: Tập viết câu văn có sử dụng biện pháp so sánh hợp lí.
Sau khi các em thấy được tác dụng của biện pháp so sánh trong miêu tả, tôi
cho các em luyện viết các câu văn có sử dụng biện pháp so sánh theo các cách:
a. Dạng bài tập thứ nhất:
Tập dùng biện pháp so sánh
Ví dụ: Cho các câu văn sau:
- Cái khoá cặp sáng bóng.
- Bông hoa thắm tươi.
- Cái mào gà đỏ rực.
- Tán bàng xanh che mát cả sân trường.
Em hãy sử dụng biện pháp so sánh để viết câu văn trên thành các câu văn
giàu hình ảnh, hấp dẫn người đọc.
Ở dạng bài tập này, ngoài yêu cầu các em biết dùng biện pháp so sánh chính
xác mà còn phát triển tính sáng tạo mang tâm hồn riêng của mỗi em.
Các em đã viết những câu sau:
- Hai chiếc khoá cặp sáng long lanh như cặp mắt luôn nhìn em trìu mến.
- Bông hoa hồng thắm tươi như cười với gió xuân.
- Cái mào gà đỏ rực như cái mũ của một võ quan.
- Tán bàng xoè ra như một chiếc ô khổng lồ che mát cả sân trường.
b. Dạng bài tập thứ hai:
Sửa câu
Bài1: Hãy nhận xét cách dùng biện pháp so sánh trong các câu văn sau và sửa lại
cho đúng:
- Chiếc bút chì của em chỉ to hơn cái thước một chút. (Tả đồ vật)
- Thân cây chuối mật nhà em to như cái cột đình. (Tả cây cối)
- Con lợn nhà em to hơn con lợn nhà bác Diệp. (Tả con vật).
* Yêu cầu thứ nhất: Các em tìm ra cách so sánh chưa chính xác:
Chiếc bút chì mà so sánh với cái thước đã hợp lí chưa?
12



Cây chuối mật có to bằng cái cột đình không nhỉ?
Con lợn nhà em to bằng con lợn nhà bác Diệp thì người đọc (không biết con
lợn nhà bác Diệp) có hình dung nó to bằng chừng nào chưa?
Học sinh sẽ phát hiện ra cái chưa hợp lí của mỗi cách so sánh trên.
* Yêu cầu thứ hai: Các em phải sửa lại cho đúng.
Học sinh sẽ thi đua lên sửa câu. Tôi là người giúp các em chọn câu sửa lại đúng
nhất, hay nhất.
Bài 2: Yêu cầu tương tự, nhưng câu sai lấy ngay trong bài làm của học sinh trong
lớp để cùng sửa.
- Loại bài này tiến hành làm trong tiết "Trả bài" của phân môn Tập làm văn.
Thông qua các bài tập này, kĩ năng nhận biết và sử dụng biện pháp so sánh
ngày càng được nâng cao trong mỗi em. Lúc đầu các em còn lúng túng, tôi kiên trì
gợi mở cho các em từng bước một, các em đã có tiến bộ rõ rệt.
Biện pháp 6: Rèn kỹ năng sử dụng phép so sánh thông qua quan sát sự vật.
Khi học sinh đã biết sử dụng biện pháp so sánh tương đối chính xác trong
các câu văn, tôi đã hướng dẫn các em sử dụng ngay trong các bài Tập làm văn ở lớp
4.
* Ở bài Tả đồ vật: Tả một đồ dùng học tập mà em thích.
Khi quan sát đồ vật, muốn cho học sinh biết sử dụng và sử dụng chính xác
biện pháp so sánh thì bước đầu tiên quan trọng là giúp các em biết quan sát rồi liên
tưởng so sánh các chi tiết đã quan sát được với sự vật gần gũi hơn - từ đó các em so
sánh một cách hợp lí, sinh động mà không bị gượng ép hoặc sáo rỗng.
Ví dụ:
+ Nhìn thấy chiếc bút có đai sắt ở giữa thân, gợi cho em nghĩ tới hình ảnh gì?
(Giống như cái thắt lưng của con người.)
+ Cái vòng sắt trên nắp bút cùng cái gài bút bằng kim loại giúp em liên tưởng đến
sự vật nào đẹp? ( Giống như một chiếc mũ bút đội trên đầu)
+ Cái ngòi bút trông giống cái gì? ( Như cái lá tre). .....

+ Hãy dùng biện pháp so sánh để tả cái bút theo ý trên.
Học sinh đã làm được một đoạn văn sau:
" Cái bút của em có màu trắng pha xanh như được mặc một chiếc áo đẹp. Trên
nắp bút, một cái vòng kim loại để gắn gài bút trông giống như cái mũ xinh xinh.
Giữa thân bút là một chiếc thắt lưng bằng kim loại sáng bóng trông rất oai. Mở
nắp bút ra, một cái ngòi y hệt hình lá tre xinh xắn xuất hiện ...".
Như vậy, qua quan sát, liên tưởng, các em đã biết so sánh các sự vật, khiến
cho bài văn sinh động và hấp dẫn người đọc hơn.
* Ở bài Tả cây cối: Cây bóng mát
Để giúp học sinh quan sát cây cối và so sánh chính xác, tôi đã gợi ý bằng hệ
thống câu hỏi sau:

13


+ Khi nhìn thấy thân cây xù xì, các mắt bàng to u ra, em liên tưởng tới hình ảnh
nào? (Cây bàng như một lực sĩ...)
+ Mỗi khi gió thổi, lá bàng chuyển động thế nào?( Như những bàn tay vẫy vẫy
theo làn gió)
+ Ánh nắng chiếu xuống mặt lá bàng tạo nên hình ảnh gì đẹp? (lá lấp lóa như
được dát bạc).
+ Hãy dùng biện pháp so sánh để tả cây bàng theo ý trên.
Mỗi khi có gió thổi, các lá bàng như những bàn tay vẫy vẫy theo làn gió.
Nắng chan hòa dịu dàng ôm ấp cây bàng, từng chiếc lá lấp loá như được dát bạc...
Như vậy, qua quan sát, liên tưởng, các em đã biết so sánh các sự vật, khiến
cho sự vật đó hiện ra lung linh trước mắt người đọc. Đoạn văn, bài văn trở nên sinh
động và gợi tả, gợi cảm hơn.
* Còn ở bài: Tả con mèo nhà em. Tôi gợi ý:
+ Cái đầu của mèo cần so sánh với sự vật nào gần gũi? (quả cam, quả bóngnhỏ.)
+ Đôi mắt mèo giúp em liên tưởng tới sự vật nào? (hòn bi ve, viên ngọc xanh, ...)

+ Đưa tay vuốt bộ lông của nó, em có cảm giác gì? Như vuốt vào vật nào?
(thấy rất êm, như vuốt vào cuộn bông mềm mại....)
Tôi đã giúp các em: Đặt câu có sử dụng phép so sánh tả về con mèo và đọc
trước lớp - sửa chữa rồi liên kết thành đoạn, thành bài.
Đây là một đoạn văn của học sinh:
" Chú mèo nhà em tuyệt đẹp. Chú có bộ lông màu xám vện cau, mềm mại
như một cuộn bông. Cái đầu tròn như quả cam lúc nào cũng nghiêng nghiêng
trông rất ngộ. Đặc biệt là đôi mắt của chú, nó y như hai viên ngọc màu xanh lúc
nào cũng long lanh rất đẹp...."
Tóm lại, nhờ biết dùng phép so sánh chính xác mà các em đã miêu tả các con
vật, khiến chúng trở nên đáng yêu hơn bao giờ hết. Qua đó, người đọc dễ rung cảm
và nhớ mãi những đoạn văn, bài văn đầy "chất văn", "hơi văn" ấy.
Biện pháp 7: Tập thể hiện thái độ, tình cảm thông qua sử dụng biện pháp so
sánh khi miêu tả.
Sau khi học sinh biết quan sát đối tượng miêu tả và biết liên tưởng so sánh
hợp lí, tôi tiếp tục giúp các em tập bộc lộ cảm xúc của mình thông qua việc sử dụng
biện pháp so sánh. Từ đó, giúp các em thêm yêu quí sự vật xung quanh, yêu cuộc
sống đồng thời góp phần bồi dưỡng tâm hồn cho các em.
Đây là một biện pháp cần kiên trì thực hiện vì rất khó để học sinh làm tốt
ngay được. Nhưng nếu rèn luyện cho các em có được kỹ năng này, bài làm của các
em sẽ thấm đượm cảm xúc chân thực, làm rung động tâm hồn người đọc.
Ví dụ: Khi học bài Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối (Tiết 2 tuần 22)
Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh tả gốc bàng như sau:
+ Cây bàng là loài cây có ích, không chỉ tạo cho cảnh trường thêm đẹp mà nó
còn là một cây che bóng mát cho các em khi hè về. Em sẽ tả cây bàng như thế nào
14


để bộc lộ tình cảm của mình dành cho cây?
Học sinh quan sát và đã nêu được một số hình ảnh so sánh sau:

+ Cây bàng đứng đó, sừng sững như một người lính khổng lồ, cần mẫn
canh gác cho mái trường.
+ Cây bàng như một người mẹ dịu hiền, cố sức xòe rộng tay mình che nắng
cho chúng em vui chơi.
+ Thân bàng xù xì, thô ráp, nổi cơ bắp cuồn cuộn như một lực sĩ.
+ Lá bàng tươi xanh như một cô gái đang khoe vẻ duyên dáng của mình.
Như vậy, bước đầu các em đã biết bộc lộ tình càm yêu quý của mình dành cho
cây bàng ở sân trường. Đó là kết quả đáng mừng, khích lệ tôi tiếp tục áp dụng biện
pháp này trong các tiết dạy tiếp theo.
Ví dụ: Khi bài Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật.
(Tiết 1 tuần 31)
Tôi gợi ý cho các em làm bài tập 3 như sau:
+ Khi tả một con mèo đáng yêu, em cần sử dụng phép so sánh như thế nào để
bộc lộ điều đó?
Học sinh trả lời theo cảm xúc của mỗi em, tôi luôn trân trọng, khen ngợi cảm xúc
riêng đó, rồi nhẹ nhàng giúp em sửa lại những hình ảnh so sánh chưa hợp lí. Từ đó,
các em mạnh dạn, tự tin bộc lộ cảm xúc chân thực của mình. Đây là một số câu văn
của học sinh:
- Chú mèo nhà em có bộ lông trắng tinh, mượt mà như nhung.
- Bộ ria của chú vểnh ra hai bên oai như một vị quan võ.
- Miu Miu có đôi mắt tròn, to trong sáng như thủy tinh, lúc nào cũng nhìn em
nũng nịu. Tròng mắt như hạt nhãn lấp lánh ánh sáng xanh lam.
- Khi chú nghịch ngợm làm đổ mực, em mắng chú, chú tiu nghỉu cụp đuôi như
người biết lỗi.
+ Bắt chuột là nhiệm vụ của mèo, em thấy chú mèo làm việc thế nào?
+ Con chuột đáng ghét ra sao?
+ Hãy sử dụng biện pháp so sánh kết hợp bộc lộ thái độ của em để tả hai con
vật đó!
Các em đã tạo lập được một số hình ảnh so sánh sau:
- Miu làm nhiệm vụ rình chuột như một người đầy trách nhiệm với công việc của

mình. Chú ngồi im, đến một cái lông cũng không động đậy. Chỉ có bộ ria là cử
động liên tục như một cái ra - đa dò tìm "sóng" chuột.
- Một thằng chuột nhắt mắt la mày lét y hệt một tên trộm xuất hiện. Rồi sành sỏi
như gã trộm chuyên nghiệp, hắn lẻn ngay vào thùng gạo.
- Chuột như một tên trộm hợm hĩnh, tự tiện chui vào thùng gạo.
- Hệt một chú lính lành nghề, trong nháy mắt, mèo ta tóm gọn con chuột.
Như vậy, qua gợi ý của giáo viên, bước đầu học sinh đã biết sử dụng biện
pháp so sánh kết hợp bộc lộ thái độ, tình cảm riêng của mình với đối tượng được
15


miêu tả. Từ đó, các em viết được những bài văn giàu cảm xúc với cảm nhận riêng
đầy nét chân thực, giúp các em thêm yêu sự vật, yêu thiên nhiên xung quanh.
Biện pháp 8: Xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng sử dụng biện pháp so
sánh trong văn miêu tả cho học sinh.
Các biện pháp nêu trên được áp dụng xen kẽ, bổ sung trong các tiết học (khi
có điều kiện). Mặc dù đã có được hiệu quả khả quan, song vẫn rất cần một hệ thống
bài tập để giúp các em rèn luyện thêm kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh trong văn
miêu tả, nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh trong điều kiện thời gian
tiết học trên lớp không cho phép. Tuy nhiên, để tránh quá tải, gây áp lực cho học
sinh, các dạng bài tập xây dựng cần đảm bảo nguyên tắc nhẹ nhàng, có hiệu quả,
gắn với nội dung đã học trong chính khóa.
a. Loại bài tập nhận diện và phân tích tác dụng của biện pháp so sánh:
* Mục đích của bài tập: Thông qua các bài tập này, giáo viên giúp học sinh
phân tích, tổng hợp để có kỹ năng nhận diện hình ảnh so sánh có trong mỗi đoạn
văn thơ, đồng thời giúp các em thấy được tác dụng của biện pháp so sánh trong văn
miêu tả. Từ đó, học sinh học tập cách sử dụng biện pháp này khi viết văn miêu tả.
Bài 1: Trong mỗi đoạn văn dưới đây, tác giả đã so sánh sự vật gì với nhau? Tìm từ
dùng để so sánh.
- Chúng tôi đang đi bên những thác trắng xóa tựa mây trời, những rừng cây âm

âm, những bông hoa huối rực lên như ngọn lửa. Tôi lim dim mắt ngắm mấy con
ngựa đang ăn cỏ trong một vườn đào ở ven đường.
(Đường đi Sa Pa- Nguyễn Phan Hách)
- Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng chú lấp
lánh. Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh
như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.
(Con chuồn chuồn nước - Nguyễn Thế Hội)
Bài 2: Tìm hình ảnh so sánh, từ so sánh và nêu tác dụng của biện pháp so sánh
trong các đoạn văn sau đây:
- Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông
hoa là hàng ngà ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ánh nến
trong xanh. Tất cả đều lóng lánh, lung linh trong nắng.
(Cây gạo - Vũ Tú Nam)
- Khi cá vàng khẽ uốn lưng thì đuôi xòe rộng như một dải lụa màu da cam còn
khoan thai uốn lượn mãi.
( Theo Trần Hoài Dương)
Bài 3: Chỉ ra các hình ảnh so sánh có trong đoạn văn. Theo em, cách so sánh bộc lộ
cảm xúc gì của tác giả?
- Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương cau,
hương bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà. Cánh hoa nhỏ
như vảy cá, hao hao giống cánh sen con.( Sầu riêng- Mai Văn Tạo)
16


- Chỉ vài hôm, lộc non đã tràn đầy trên bàn tay mùa đông của cây bàng. Dáng mọc
của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đã thả ngàn vạn búp lá
nhỏ xíu từ trên trời, xanh biếc chi chít đầy cành. Lá non lớn nhanh, đứng thẳng,
cuộn tròn như những chiếc tai thỏ.
(Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Bài 4: Tìm những câu thành ngữ, tục ngữ có sử dụng biện pháp so sánh.

Ở bài tập này, giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi "Ai nhanh, ai
đúng". Nhóm nào thắng cuộc, giáo viên cần có hình thức tuyên dương, khen ngợi
để gây hứng thú cho các em.
*Lưu ý: Loại bài tập này được giao cho các em làm sau khi học các tiết có bài văn,
thơ chứa mỗi đoạn trích trong từng bài tập trên.
b. Loại bài tập chữa lỗi khi dùng biện pháp so sánh:
* Mục đích của bài tập: Loại bài tập này nhằm củng cố thêm kiến thức về
so sánh, đồng thời giúp các em phát hiện ra những lỗi thường gặp, những điều chưa
hợp lí để bản thân tự điều chỉnh và tránh được những lỗi đó.
Bài 1: Tìm các hình ảnh so sánh chưa chính xác trong các câu văn sau rồi sửa lại:
- Tán lá của cây bàng trông như cái bánh đa to tướng.
- Bông hồng nhà em xòe to như cái bát to.
- Khóa cặp được mạ kền sáng loáng như hai con mắt của chú mèo.
- Mắt của chú gà con sáng như sao, to như hai viên bi ve.
- Đầu của chủ Trống Tía y hệt quả cam mẹ thường mua.
Bài 2: Chỉ ra những chỗ hình ảnh so sánh chưa hợp lí va sửa lại cho đúng thực tế:
- Mắt của chú mèo sáng như hai chiếc đèn pin rọi vào lũ chuột.
- Hàm răng của chú sáng bóng như người ta đánh vét ni ở tủ.
- Lúc chị gió bay qua, lũy tre kêu lên ken két như người nghiến răng.
* Lưu ý: Loại bài tập này được tổng hợp qua thực tiễn khảo sát bài làm của học
sinh. Vì vậy, giáo viên nên giúp các em tập luyện trong tiết chữa bài của phân môn
Tập làm văn.
c. Loại bài tập chữa lỗi sử dụng biện pháp so sánh thể hiện thái độ tình cảm
chưa hợp lí.
* Mục đích bài tập:
Loại bài tập này ngoài việc nhằm củng cố cách sử dụng biện pháp so sánh
cho học sinh còn giúp các em bộc lộ thái độ, tình cảm với đối tượng miêu tả một
cách hợp lí, chân thực, tránh sự gượng ép, bắt chước một cách sáo rỗng.
Bài 1:
Đọc các câu văn sau và chỉ ra chỗ chưa hợp lí rồi chữa lại cho đúng:

- Cặp là người bạn thân thiết của em, nó luôn chia sẻ niềm vui nỗi buồn cùng em.
Những lúc vui nó như một đứa trẻ nhảy nhót trên lưng làm em cảm thấy khó chịu.
- Vừa nghe tiếng của em, Mích liền phóng vụt ra. Nó nhảy cẫng lên như một người
bị thần kinh.
17


- Chị gà nhà em rất đẹp. Bộ lông vàng mượt. Cái mào đỏ chót luôn rung rinh theo
nhịp chân đi. Bộ mỏ nhọn hoắt, lúc nào cũng khoằm xuống trông như mỏ diều hâu.
Bài 2: Hãy chỉ ra chỗ sử dụng biện pháp so sánh chưa đúng trong mỗi câu văn sau
rồi chữa lại cho thích hợp:
- Mỗi buổi sáng, chiếc đồng hồ như một người bạn trung thành, đều đặn gọi em
dậy học bài. Tiếng kêu của nó như còi tàu, inh cả tai, nhức cả óc.
- Trên những cành hồng, từng hàng gai như đội lính gác sẵn sàng cào rách tay em.
- Buổi sáng, lũ chim đậu trên mái nhà làm ầm ĩ như người cãi nhau.
- Mùa đông, cây bàng trụi trơ thân cành như người sắp chết.
* Lưu ý: Để tránh sự nhàm chán, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh luyện tập
dưới hình thức trò chơi, giúp các em tiếp thu bài một cách tích cực.
d. Loại bài tập tạo lập hình ảnh so sánh:
* Mục đích bài tập: Thông qua việc giải bài tập, giáo viên giúp học sinh
hình thành kỹ năng tạo lập các câu văn, đoạn văn có hình ảnh so sánh. Yêu cầu học
sinh dựa vào vốn kiến thức về so sánh để viết được những câu văn có hình ảnh, có
cảm xúc khiến câu văn, đoạn văn sinh động, gợi cảm hơn.
Bài 1: Chọn từ thích hợp điền vào chỗ chấm để tạo thành câu có hình ảnh so sánh:
- Ngang lưng trống quấn hai vành đai như cái ............... nom rất oách.
- Cổ áo sơ mi như .................... trông thật dễ thương.
- Mặt trăng đầu tháng trông như ........... ai bỏ quên trên cánh đồng.
- Tiếng ve râm ran trên lùm cây như ..........
* Lưu ý: Lúc đầu, giáo viên cho sẵn các từ ngữ cần điền để học sinh chọn lựa: thắt
lưng, cái liềm, hai chiếc lá, một dàn đồng ca, ... Sau đó, yêu cầu nâng cao hơn là

học sinh tự tìm từ ngữ để điền vào chỗ trống nhằm tạo điều kiện cho học sinh sáng
tạo hình ảnh so sánh mới mẻ, mang cảm xúc riêng.
Bài 2: Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để tạo thành những câu văn có hình
ảnh so sánh:
- Sương sớm long lanh như .........
- Chùm cà chua đầu mùa chín lúc lỉu như .....................
- Ánh mắt dịu hiền của chị gà mái hệt như ...........................
- Hoa phượng nở dày đặc trên cây tựa ................................
Bài 3: Thêm hoặc thay từ ngữ thích hợp để tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh:
- Cái đuôi của chú gà trống cong cong.
- Lá cây lay động trong nắng trông thật đẹp.
- Hoa đào có năm cánh phớt hồng, rất mỏng.
- Bầy chim đậu trên cây hót líu lo.
Dựa vào cấu trúc bài tập trên, giáo viên có thể xây dựng thêm nhiều bài tập
cho mỗi dạng bài để luyện tập thêm cho các em. Đặc biệt, giáo viên khuyến khích
học sinh lập sổ tay văn học để các em tự ghi chép câu văn hoặc hình ảnh so sánh
hay, độc đáo nhằm tích lũy "vốn" về so sánh, khi cần có thể sử dụng linh hoạt.
18


2.4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, VỚI BẢN
THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.
Sau khi đã tìm hiểu, học hỏi và tìm ra được các biện pháp trên, tình trạng
miêu tả theo kiểu liệt kê ở bài làm của các em giảm dần, thay vào đó là những bài
viết có sử dụng tốt các biện pháp tu từ (đặc biệt là biệp pháp so sánh) khiến cho bài
văn của học sinh thực sự có "hồn", mang được cảm xúc hồn nhiên ngây thơ của các
em. Theo đó, kĩ năng quan sát, liên tưởng để so sánh sự vật của các em ngày càng
tiến bộ.
Qua một thời gian nghiên cứu và sử dụng các biện pháp trên, tôi đã ra đề
khảo sát lại chất lượng phân môn Tập làm văn (chủ yếu là văn miêu tả và coi trọng

kĩ năng sử dụng biện pháp so sánh trong bài viết) của học sinh thông qua bài làm:
Đề bài: Em hãy tả một con vật mà em yêu thích.
Kết quả việc sử dụng phép so sánh trong văn miêu tả của các em như sau:
Phân loại học sinh (30em)
Sử dụng chính xác, hợp lí, có cảm xúc.
Sử dụng chính xác.
Sử dụng nhưng thiếu chính xác.

Số lượng
14 em
13 em
3 em

Tỉ lệ
46.7 %
43.3 %
10 %

Từ kết quả đạt được như trên, tôi nhận thấy dù thời gian nghiên cứu và áp
dụng đề tài chưa nhiều nhưng kết quả môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập
làm văn của lớp tôi dạy từng bước đã được nâng lên rõ rệt. Điều đó giúp tôi có thể
tự tin khẳng định rằng: nếu cứ áp dụng đề tài này vào quá trình dạy học một cách
kiên trì, thường xuyên thì chất lượng môn Tiếng Việt của lớp 4A sẽ đạt được mục
tiêu, yêu cầu về kiến thức kỹ năng đã đề ra. Và nếu được Ban giám hiệu tạo điều
kiện, trong năm học tới, chúng tôi tiếp tục mở rộng phạm vi nghiên cứu sáng kiến
kinh nghiệm trong tổ 4, 5 của trường nhằm góp phần nâng cao chất lượng phân
môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung trong nhà trường.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN:

Qua việc tìm tòi, học hỏi và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm nêu trên, tôi rút ra
một số kinh nghiệm sau:
+ Để học sinh nhận biết và sử dụng chính xác biện pháp so sánh khi miêu tả,
giáo viên phải hiểu rõ về biện pháp tu từ này. Sau đó hướng dẫn các em từng bước,
kiên trì áp dụng kết hợp trong các tiết Tập đọc, Luyện từ và câu và Tập làm văn.
+ Dạy sử dụng biện pháp so sánh, giáo viên cần giúp các em quan sát cuộc
sống và thiên nhiên xung quanh các em. Vì từ khả năng quan sát trực tiếp các em
mới có sự liên tưởng để so sánh một cách cụ thể nhất, chân thực và chính xác nhất.
19


Nếu không sự so sánh sẽ trở nên gượng ép và sáo rỗng.
+ Khi giúp học sinh sử dụng biện pháp so sánh, giáo viên cần hướng dẫn các
em biết gửi gắm tình cảm của mình qua cách so sánh bằng các từ ngữ thích hợp,
để bài văn miêu tả là tả ngụ tình mang đầy vẻ hồn nhiên của tuổi thơ các em.
+ Giáo viên cần phải khuyến khích động viên học sinh kịp thời khi các em
tiến bộ (dù là tiến bộ một chút thôi) để các em tự tin và gây hứng thú học văn ở các
em, bồi dưỡng tâm hồn và tạo "hành trang" cần thiết giúp các em học tốt môn này ở
các lớp tiếp theo.
+ Điều quan trọng là: nên kết hợp cùng gia đình quan tâm, tạo điều kiện và
động viên các em học tập.
KIẾN NGHỊ:
+ Để nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt
nói chung, tôi rất mong Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với chính quyền địa
phương thực hiện tốt phong trào xã hội hoá giáo dục để có phòng chức năng với
đầy đủ đồ dùng dạy học cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – tiêu chuẩn
quan trọng nhất để trường Tiểu học Thiệu Nguyên tiến tới đạt chuẩn Quốc gia giai
đoạn II.
+ Đồng thời, kính mong Ban giám hiệu phối kết hợp với Hội phụ huynh học
sinh của trường nâng cao vai trò của Hội phụ huynh các lớp để họ quan tâm hơn

nữa đến việc học tập của con em mình, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên và học
sinh các lớp thực hiện tốt Câu lạc bộ Văn tuổi thơ nhằm bồi dưỡng năng khiếu văn
học cho học sinh, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy và học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm về tìm “Một số biện pháp rèn kỹ năng sử
dụng phép so sánh trong văn miêu tả cho học sinh lớp 4” mà tôi đã rút ra được
trong quá trình dạy học. Chắc chắn rằng đây không phải là những kinh nghiệm khả
quan nhất. Vì vậy, tôi rất mong các cấp lãnh đạo trong ngành và bạn bè đồng
nghiệp đọc, góp ý cùng trao đổi để chúng ta đi đến mục đích chung nhất: thực hiện
tốt sự nghiệp “Trồng người” mà Đảng và nhân dân giao cho.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

................................................................
của ................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................

Thanh Hoá, ngày 20 / 4 / 2016.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người thực hiện

Đỗ Thị Vượng

20




×