Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Giúp học sinh lớp 6 nắm vững dấu hiệu chia hết thông qua việc tổ chức một số trò chơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.52 KB, 14 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT QUAN SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÚP HỌC SINH LỚP 6 NẮM VỮNG DẤU HIỆU CHIA HẾT
THÔNG QUA VIỆC TỔ CHỨC MỘT SỐ TRÒ CHƠI

Người thực hiện: Hoàng Ngọc Thắng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH&THCS Thị trấn
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Toán

THANH HÓA, NĂM 2017


Mục lục
TT
1
2
3
4
5
7
8
9
10
11
12
13
14


15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30

Nội dung
Mục lục
1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận
2.2 Thực trạng
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1 Khái niệm trò chơi toán học
2.3.2 Tác dụng của trò chơi toán học

2.3.3 Cách thức tổ chức trò chơi toán học
2.3.4 Giới thiệu một số trò chơi đã áp dụng
Trò chơi 1
Trò chơi 2
Trò chơi 3
Trò chơi 4
Trò chơi 5
Trò chơi 6
Trò chơi 7
Trò chơi 8
Trò chơi 9
Trò chơi 10
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
2. Đề xuất kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang


1.MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Muốn học cái gì cho tốt thì sớm muộn cũng phải đạt đến sự tự giác học
tập, say sưa hứng thú học tập. Đó là những điều cơ bản đầu tiên. Nhưng tất cả
vấn đề là ở chỗ làm sao cho học sinh có được sự tự giác học tập, say sưa học tập.
Những học sinh kém toán, học bài không hiểu, làm bài không ra, thì chỉ có sợ
toán, chứ làm gì có sự say sưa học toán. Nhưng ở đời không thiếu những ví dụ
về những cái lúc đầu thì sợ, dần dần bớt sợ đi đến làm quen, cuối cùng là thích
và say mê.

Trong chương trình toán ở THCS đặc biệt là lớp 6 việc phát triển năng lực
toán học của học sinh nói chung và tạo cho các em sự say mê với môn toán là
một điều thật cấp bách. Bởi vì, kiến thức về số học rất rộng, đối tượng học sinh
còn nhỏ tuổi, các em chưa quen với phương pháp học tập ở THCS, khả năng tiếp
thu bài, sự sáng tạo, lòng yêu thích say mê môn toán cần được người thầy hướng
dẫn chăm lo chu đáo để tạo nền móng kiến thức vững vàng cho các em trong
quá trình học tập sau này điều đó vô cùng quan trọng. Vì vậy người thầy phải
nắm rõ được đối tượng học sinh của mình, định ra được nội dung kiến thức và
phương pháp phù hợp để học sinh dễ hiểu. Bồi dưỡng năng lực toán học giúp
học sinh nắm vững kiến thức có hệ thống và logic tạo tiền đề cho học sinh tiếp
thu những kiến thức cao hơn nhằm phát huy tối đa năng lực toán học của các
em.
Dạy “Các dấu hiệu chia hết” cho học sinh lớp 6 là một mạch kiến thức vô
cùng quan trọng, giúp học sinh có kỹ năng nhận biết một số bất kỳ nào đó chia
hết cho 2, 3, 5, 9 hay không? Dựa vào một số dấu hiệu cần thiết không cần thực
hiện phép tính. Đây là một vấn đề quan trọng giúp học sinh học tốt hơn bộ môn
toán
Đối với học sinh các em chỉ được học các dấu hiệu chia hết trên cơ sở
được phát hiện, giới thiệu và tự phát biểu trong sách giáo khoa. Học sinh tự giác
thông báo các kết quả đó và làm theo chứ không được chứng minh. Vì vậy các
em chưa có kỹ năng vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo vào việc giải các
bài toán đòi hỏi sự tư duy nhanh nhạy mà không cần phải tính toán. Dạy – học
tốt về các dấu hiệu chia hết hết 2, 3, 5, 9 nó không chỉ giúp các em có khả năng
nhận biết một số có chia hết cho 2 (hoặc 3, 5, 9 hay không?) mà còn cần giúp
các em vận dụng vào việc học về phân số ở các chương sau và nó cần làm cơ sở
để giúp các em học tốt môn toán ở lớp trên.
Dấu hiệu chia hết rất nhiều, song vì mục tiêu giáo dục cũng như yêu cầu
đối với môn toán mà ở lớp 6 các em chỉ được học các dấu hiệu cơ bản như: Dấu
hiệu chia hết cho 2, cho 3, cho 5, và cho 9. Đôi khi trong quá trình dạy học tôi
thấy học sinh của tôi đôi khi việc nhớ được các dấu hiệu và vận dụng dấu hiệu

các em hay bị nhầm lẫn giữa các dấu hiệu chia hết. Đặc biệt là đối tượng học
sinh yếu, kém. Bởi vậy trong quá trình dạy học và trong các buổi ngoại học tự
chọn tôi đã cung cấp thêm cho các em học sinh khá, giỏi một số dấu hiệu chia
hết khác nữa và đồng thời đã lồng ghép các trò chơi liên quan đến dấu hiệu chia
1


hết nhằm giúp các em có thể tự tổ chức các trò chơi này nhằm giúp các em có sự
say mê môn toán và từ đó các em có thể nhớ được các dấu hiệu chia hết và vận
dụng một cách thành thạo. Do đó qua quá trình dạy học tôi đúc rút kinh nghiệm
và tôi đã chọn đề tài: “Giúp học sinh lớp 6 nắm vững dấu hiệu chia hết thông
qua việc tổ chức một số trò chơi ”
1.2 Mục đích nghiên cứu:
- Ngiên cứu thực trạng việc dạy và học: các dấu hiệu chia hết của học sinh lớp 6
- Đề xuất, đưa ra giải pháp dạy học nhằm đạt hiệu quả tốt hơn khi dạy và học về
các dấu hiệu chia hết ở lớp 6.
- Giúp học sinh có khả năng vận dụng các dấu hiệu chia hết vào giải các bài toán
trong SGK và ôn thi HSG.
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 6 trường TH&THCS Thị trấn Quan Sơn.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu SGK, SBT và các tài liệu liên quan.
- Điều tra thực trạng
- Khảo sát học sinh
- Thực nghiệm.

2



2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lý luận:
2.1.1 Cơ sở thực tiễn:
- Từ thực tiễn của nhà trường như vậy bản thân tôi là một giáo viên, tôi
thấy cần phải tạo ra cho các em có niềm yêu thích say mê học tập, luôn tự đặt
câu hỏi và tự mình tìm ra câu trả lời và đặc biệt hơn là các em biết cách học môn
toán, biết làm một bài toán sao cho hoàn chỉnh và rồi các em cảm thấy yêu thích
và say mê môn toán. Dấu hiệu chia hết là tiền đề để học sinh lĩnh hội kiến thức
của số học nói riêng và của toán học nói chung. Đặc biệt là học sinh lớp 6 các
em mới bước vào THCS cách học có đôi chút khác với ở bậc tiểu học, do đó để
học sinh thấy yêu thích môn toán là trách nhiệm của người thầy.
- Xuất phát từ thực tiễn các em học sinh của nhà trường lĩnh hội kiến thức
dấu hiệu chia hết còn nhiều hạn chế và hay bị nhầm lẫn giữa các dấu hiệu chia
hết.
2.2.1 Cơ sở khoa học: Một số kiến thức kiên quan đến tính chia hết
2.2.1.1 Định nghĩa:cho hai số tự nhiên a và b (b ≠ 0). Ta nói a chia hết cho b
nếu tồn tại số tự nhiên q sao cho a = b.q . Ta còn nói a là bội của b hoặc b là ước
của a, hoặc a chia hết cho b.
2.2.1.2 Các tính chất về chia hết :
* Tính chất chung :
a) Số 0 chia hết cho mọi số b ≠ 0.
b) Mọi số a ≠ 0 đều chia hết cho chính nó.
c) Tính chất bắc cầu : Nếu a⋮b, b⋮c thì a⋮c.
+ Tính chất chia hết của một tổng, một hiệu.
d) Nếu a⋮m, b⋮m thì tổng a + b⋮m, a - b⋮m.
+ Hệ quả :
Nếu (a + b)⋮m (hoặc a - b⋮m) và a⋮m thì b⋮m.
Nếu (a + b)⋮m (hoặc a - b⋮m) và b⋮m thì a⋮m.
e) Nếu a⋮m, b⋮m thì a + b⋮m, a - b⋮m ;
Nếu a⋮m, b⋮m thì a + b⋮m, a - b⋮m.

f) Nếu một thừa số của tích chia hết cho m thì tích chia hết cho m.
+ Hệ quả: Nếu a⋮m thì an⋮m (n là số tự nhiên ≠ 0).
g) Nếu a⋮m, b⋮n thì ab⋮mn
+ Hệ quả : nếu a⋮b thì an⋮bn.
h) Nếu A⋮B thì mA +nB⋮B , mA – nB⋮B.
i) Nếu một tích chia hết cho một số nguyên tố p thì tồn tại một thừa số
của tích chia hết cho p.
+ Hệ quả: nếu an⋮p (p là số nguyên tố) thì a⋮p.
j) Nếu ab⋮m, b và m, n guyên tố cùng nhau thì a⋮m.
3


k) Nếu a⋮m, a⋮n thì a⋮BCNN(m,n) .
+ Hệ quả :
- Nếu a⋮m, a⋮n, (m,n) = 1 thì a⋮mn
- Nếu a chia hết cho các số nguyên tố cùng nhau đôi một thì a
chia hết cho tích của chúng.
2.2.1.3 Bổ sung một số dấu hiệu chia hết :
Ngoài các dấu hiệu chia hết cho 2, cho 3, cho 5, cho 9 mà HS đã được
học trong chương trình SGK, cần bổ sung thêm một số dấu hiệu sau:
a) Dấu hiệu chia hết cho 4, cho 25 :
Một số chia hết cho 4 (hoặc cho25) khi và chỉ khi số đó có hai chữ số
tận cùng chia hết cho 4 ( hoặc cho 25).
b) Dấu hiệu chia hết cho 8, cho 125 :
Một số chia hết cho 8 (hoặc cho125) khi và chỉ khi số đó có ba chữ số
tận cùng chia hết cho 8 ( hoặc cho 125).
c) Dấu hiệu chia hết cho 10:
Một số chia hết cho 10 khi và chỉ khi số đó có chữ số tận cùng là 0.
d) Dấu hiệu chia hết cho 11 :
Một số chia hết cho 11 khi và chỉ khi hiệu giữa tổng các số đứng ở vị trí

lẻ và tổng các chữ số đứng ở vị trí chẵn (kể từ phải sang trái) chia hết chia 11.
2.2.1.4 Bổ sung kiến thức về ƯCLN và BCNN :
a) Thuật toán Ơclit :
+ Nếu a⋮b thì ƯCLN(a,b) = b.
+ Nếu a⋮b thì ƯCLN(a,b) = ƯCLN(b,r).
(r là số dư trong phép chia a cho b)
b) ƯCLN(a,b). BCNN(a,b) = ab.
2.2 Thực trạng:
Có nhiều phương pháp dạy học để tạo hứng thú cho học sinh. Tuy nhiên
trong một tiết dạy, giáo viên thường phải tuân theo một trình tự nhất định, điều
đó dễ gây ra sự nhàm chán cho học sinh. Vì thế, trong các giờ học toán, học sinh
thường tiếp thu thụ động, nhất là những học sinh ngại phát biểu, tiếp thu chậm.
Cuối giờ học học sinh thường uể oải, thiếu tập trung chú ý vào bài học vì đặc
điểm của học sinh là: Dễ nhớ, mau quên, chóng chán, học sinh thường hiếu
động và dễ nhớ hơn trong các hoạt động.
Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy đa số giáo viên chưa vận dụng được việc
đưa các trò chơi vào trong tiết học toán. Sở dĩ có tình trạng trên là do giáo viên
chưa tìm hiểu hết tác dụng của trò chơi trong giờ học toán, một số giáo viên
thường nghĩ tổ chức trò chơi thường tốn thời gian, gây ồn ào, một số khác chưa
nắm được cách thức tổ chức.
Môn số học là khởi đầu của toán học THCS nói riêng và bậc phổ thông
nói chung. Trong đó dấu hiệu chia hết là một phần của toán học. Tuy nhiên nó
4


lại là tiền đề để nghiên cứu các môn học khác của toán học. Tuy nhiên do ý thức
học tập, phương pháp học tập của các em từ bậc tiểu học chưa phù hợp với điều
kiện học tập ở cấp THCS. Trong thực tế giảng dạy còn nhiều em lúng túng trong
việc tiếp cận và vận dụng giải các bài toán về dấu hiệu chia hết mà nguyên nhân
khách quan là do các em chưa thật sự hiểu rõ về bản chất của dấu hiệu chia hết.

Bởi vậy trong quá trình dạy học về dấu hiệu chia hết, các tiết luyện tập
đặc biệt là các tiết tự chọn tôi đã lồng ghép các trò chơi trong đó có sử dụng dấu
hiệu chia hết để gây hứng thú học tập cho các em.
Theo điều tra nghiên cứu tôi thấy số học sinh nắm vững các dấu hiệu và
sử dụng thành thạo các dấu hiệu chia hết ở các năm học như sau:
Tổng số học sinh
Số học sinh vận
Năm học
Tỉ lệ %
điều tra
dụng thành thạo
2014 – 2015

20

8

40

2015 – 2016

20

10

50

Qua kết quả trên tôi nhận thấy rằng chất lượng học tập của các em còn
thấp, số lượng học sinh biết vận dụng thành thạo dấu hiệu vào làm toán còn ít.
Trong giờ học các em chưa thật sự tập trung vào việc học, nắm kiến thức còn

chậm dẫn đến mất nhiều thời gian.
Từ thực trạng trên, để việc dạy và học đạt hiệu quả cao, giúp các em nắm
vững kiến thức hơn và tạo ra hứng thú học tập cho học sinh. Tôi đã mạnh dạn
cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy, đưa những kiến thức khô khan
của môn toán thành những trò chơi học tập nhằm giúp các em học mà chơi, chơi
mà học.
2.3 Những giải pháp và tổ chức thực hiện:
2.3.1 Khái niệm trò chơi toán học:
Trò chơi toán học thường gồm một số người chơi sao cho:
- Những người chơi thay phiên nhau thực hiện những bước đi trên hữu
hạn đối tượng đếm được và theo một qui tắc cho trước;
- Người cuối cùng thực hiện được bước đi cuối cùng là người thắng cuộc.
2.3.2 Tác dụng của trò chơi toán học:
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với
kiến thức kĩ năng có được trong hoạt động học tập, gần với nội dung bài học
giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi. Thông qua chôi,
học sinh được vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào các tình huống của trò
chơi. Do đó, học sinh được thực hành luyện tập, củng cố, mở rộng kiến thức kĩ
năng đã học. Như vậy trong trò chơi học tập các kĩ năng môn Toán được đưa
vào trò chơi.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học
sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác, tích cực. Giúp học sinh rèn luyện, củng
5


cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích lũy qua các trò
chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ
sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và
hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.

Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục.
2.3.3 Cách thức tổ chức trò chơi trong dạy học toán:
2.3.3.1 Thiết kế trò chơi:
-Trò chơi phải phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với tâm sinh lí học
sinh.
-Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
-Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo
-Trò chơi phải gây được hứng thú cho học sinh
2.3.3.2 Cấu trúc của trò chơi:
- Tên trò chơi
- Mục đích
- Phương tiện, đồ dùng được sử dụng trong trò chơi.
- Nêu luật chơi.
- Số HS tham gia chơi
- Nêu lên cách chơi, nếu cần có thể chơi thử
- Phần thưởng cho đội thắng, phạt đội thua như thế nào.
2.3.3.3 Cách tổ chức trò chơi:
Thời gian tiến hành thường từ 5 đến 7 phút
- Giới thiệu trò chơi:
+ Nêu tên trò chơi
+ Hướng dẫn cách chơi, nêu luật chơi
- Tiến hành chơi
- Nhận xét
- Thưởng- phạt: Chú ý hình phạt làm sao vẫn tạo ra hứng thú và không khí vui
vẻ cho học sinh.
2.3.4 Giới thiệu một số trò chơi đã áp dụng:
Trong quá trình giảng dạy lớp 6 ở các năm 2015-2016 và năm học 20162017 trong quá trình dạy học về dấu hiệu chia hết, các tiết luyện tập đặc biệt là
các tiết tự chọn tôi đã lồng ghép các trò chơi trong đó có sử dụng dấu hiệu chia
hết để gây hứng thú học tập cho các em. Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò
chơi mà tôi đã áp dụng:

Trò chơi 1: Tham gia vào trò chơi là 10 em, giáo viên có thể chọn học
sinh tham gia vào trò chơi ở 2 bài bất kỳ (vì mỗi bài là 5 em), giáo viên chỉ vào
6


học sinh và đếm từ 1 đến 10. Yêu cầu những em mang số chẵn sau nghe giáo
viên đếm: 1,2,3 thì chạy lên một nhóm bên phải, những em mang số lẻ (là những
số không chia hết cho 2). Chạy lên một nhóm bên trái bảng. Nếu học sinh nào
chạy lên không đúng nhóm sẽ bị phạt theo lớp quy định.
- Trò chơi này không chỉ giúp các em khắc sâu về dấu hiệu chia hết cho 2
mà còn rèn cho các em kỹ năng nghe chính xác và thao tác nhanh nhẹn.
Trò chơi 2: Chuẩn bị: Giáo viên cần chuẩn bị hai bảng phụ, một bảng sẽ
ghi những số chia hết cho 5 và bảng thứ 2 sẽ ghi những số không chia hết cho 5
và 10 bông hoa có ghi các số chia hết và không chia hết cho 5.
- Tiến hành trò chơi như sau: Giáo viên gọi 4 em ở 2 tổ (cứ một em chọn,
một em gắn hoa lên bảng phụ). Học sinh dưới lớp vỗ tay đếm. Sau khi 4 em lên
bảng đã chọn và gắn xong, giáo viên cho lớp nhận xét xem nhóm nào làm đúng
và làm nhanh, giáo viên cho điểm khuyến khích cho nhóm làm tốt.
Trò chơi này giúp các em nắm vững dấu hiệu chia hết cho 5 và rèn cho
các em tính nhanh nhẹn.
Trò chơi 3: Giáo viên và học sinh chia thành 2 đội. Đội 1: Giáo viên; Đội
2: Nhóm học sinh điều tra.
Đội 1 và đội 2 thay phiên nhau viết liên tiếp các chữ số để cuối cùng ta có
một con số có 5 chữ số chia hết cho 3, theo qui định: Đội 1 viết chữ số thứ nhất,
đội 2 viết chữ số thứ 2, lại đội 1 viết chữ số thứ 3, đội 2 viết chữ số thứ 4, và
cuối cùng đội 1 viết chữ số còn lại chữ số thứ 5. Đội 1 muốn có một số chia hết
cho 3, còn đội 2 chống lại ý muốn này. Đội nào đạt được mục đích của mình là
đội thắng cuộc.
Lời giải:
Đội 1 là đội viết số cuối cùng quyết định kết quả số ấy có chia hết cho 3

không. Khi đội 2 viết chữ số cuối cùng của mình thì đội 1 nhận được một số có
4 chữ số. Để tìm số thứ 5 đội 1 cộng các chữ số từ số có 4 chữ số đem chia cho
3. Kết quả thu được sau phép chia có số dư là r, thì số cần viết thêm của đội 1 là
3- r hoặc 6- r hoặc 9- r.
Ví dụ: Chẳng hạn cần viết số abcde .
Đội 1 lấy một số bất kì viết trước chẳng hạn số 1.
Đội 2 lấy số 4 sẽ được số 14cde
Đội 1 viết tiếp số 3. Vậy ta có số 143de .
Đội 2 viết tiếp số 8 . Khi đó đội 1 có số 1438e . Đồng thời đội 1 nhẩm 1 +
4 + 3 +8 = 16. Ta có 16 chia 3 được dư là 1. Vậy số mà đội 1 cần viết vào đó là
số : 3 – 1 = 2 hoặc 6 – 1 = 5 hoặc 9 – 1 = 8. Vậy đội 1 có 3 phương án viết số
cuối cùng.
Giáo viên có thể cho học sinh cả lớp cùng chơi, cứ 2 bạn làm một đội để
chơi trò chơi trên nhưng là viết được số có 5 chữ số sao cho số đó chia hết cho 9.
Nhưng trước khi chơi giáo viên cho các em bắt thăm để chọn đội viết trước. Và
sau đó giáo viên họp các đội chơi có nước đi trước lại và mách mẹo đi cho các
em. Và sau đó giáo viên họp các đội chơi có nước đi trước lại và mách mẹo đi
7


cho các em. Sau khi học sinh tiến hành chơi xong giáo viên cho nhóm tập hợp
lại và công bố cách chơi cho các em cùng biết để các em có thể về nhà chơi với
các bạn khác lớp hoặc với anh chị trong gia đình.
Như vậy qua trò chơi này giúp các em cũng cố dấu hiệu chia hết cho 3:
“Các số có tổng các chữ số chia hết cho 3 thì chia hết cho 3 và chỉ những
số đó mới chia hết cho 3”
Chú ý: Giáo viên có thể linh động từ trò chơi trên ta có thể tạo ra một số
trò chơi tương tự như thông qua việc thay đổi yêu cầu của trò chơi ví như từ việc
thành một số có 5 chữ số chia hết cho 3 ta có thể yêu cầu thàn một số có 5 chữ
số chia hết cho 4, 7, 9, 11, 13,... Hoặc từ việc viết thành một số có 5 chữ số ta

viết thành một số có số chữ số khác 5. Việc làm này giúp học sinh thấy rõ sự
sáng tạo trong các trò chơi, không gây nhàm chán cho các em. Giúp các em cảm
thấy sự say mê hơn đối với môn toán.
Trò chơi 4: Giáo viên và học sinh chia thành 2 đội . Đội 1: Giáo viên; Đội
2: Nhóm học sinh điều tra.
Đội 1 và đội 2 tiến hành chơi với 157 viên sỏi. Một nước đi là chỉ được
lấy khỏi đống 1 hoặc 2 hoặc 3 viên sỏi. Đội 1 đi trước, đội 2 đi sau và thay phiên
nhau. Đội nào lấy được số viên sỏi cuối cùng thì đội đó dành phần thắng.
Lời giải:
Khởi đầu đội 1 lấy một viên sỏi, nước tiếp theo đội 1 sẽ lấy 4- x viên sỏi,
ở đây x là số hạt viên sỏi đội 2 đã lấy ở nước đi trước đó. Thật vậy, khi đội 1 đi
lần đầu tiên, còn 156 viên sỏi. Ta thấy 156 là số chia hết cho 4. Vậy tiếp theo,
theo chiến thuật trên thì sau mỗi lần đội 2 rồi đến đội 1 đi, đống viên sỏi luôn
còn lại số viên bằng bội của của 4. Do vậy, cuối cùng đến lượt đội 2 đi thì còn
lại 4 viên. Dù đội 2 thực hiện cách nào thì đội 1 cũng đi được nước cuối cùng
lấy được số viên sỏi và đội 1 thắng cuộc. Có thể học sinh sẽ không hiểu vì sao
mình thua.
Ở đây sau khi các em ở đội 2 bị thua các em có thể yêu cầu giáo viên chơi
lại và cho đội các em đi trước. Rất có thể nếu học sinh đã nhận ra cách chơi thì
đó là điều đáng mừng vì các em đã nắm rõ được các dấu hiệu chia hết. Tuy
nhiên nếu các em chưa nắm bắt được qui luật thi trong lúc chơi tùy từng thời
điểm giáo viên có thể tận dụng sai sót của học sinh để chiến thắng.
Như vậy qua trò chơi này giúp gây hứng thú cho học sinh, đồng thời cũng cố
dấu hiệu chia hết cho 4:
“Số có hai chữ số tận cùng tạo thành số chia hết cho 4 thì chia hết cho 4.”
Giáo viên có thể cho học sinh cả lớp cùng chơi, cứ 2 bạn làm một đội để
chơi trò chơi trên. Nhưng trước khi chơi giáo viên cho các em bắt thăm để chọn
đội đi trước. Và sau đó giáo viên họp các đội chơi có nước đi trước lại và mách
mẹo đi cho các em. Sau khi học sinh tiến hành chơi xong giáo viên cho lớp tập
hợp lại và công bố cách chơi cho các em cùng biết để các em có thể về nhà chơi

với các bạn khác lớp hoặc với anh chị trong gia đình.
Qua trò chơi này giáo viên có thể lấy một ví dụ về sự sáng tạo từ trò chơi trên
cho học sinh biết. Đội 1 và đội 2 tiến hành chơi với 65 viên sỏi. Một nước đi là
8


lấy khỏi đống 1 hoặc 2 viên sỏi. Đội 1 đi trước, đội 2 đi sau và thay phiên nhau.
Đội nào lấy được số viên sỏi cuối cùng thì đội đó dành phần thắng. Ở trò chơi
này học sinh phải sử dụng dấu hiệu chia hết cho 3 để làm.
Trò chơi 5: Trên bàn có 100 que diêm, hai người lần lượt bốc. Nhiều nhất
3 que, ít nhất 1 que. Ai bốc được que cuối cùng thì thua cuộc. Để chắc thắng ta
chơi thế nào?
Tương tự như trên, nhưng vì bốc que cuối cùng thì thua, tức là ta phải bốc
được que thứ 99 mới thắng cuộc, nên ta giả sử chỉ có 99 que. Lấy 99 chia 4 ta
thấy dư 3. Nên giành quyền bốc trước và bốc ngay 3 que, sau đó ta bốc số que
bằng hịêu của 4 với số kia người kia vừa bốc. Tổng số que mỗi lượt bốc: 1+ 3
=4.
Trò chơi 6: Giáo viên là một đội (đội 1) và yêu cầu nhóm cử 5 bạn xuất
sắc nhất làm một đội (đội 2) để chơi với đội 1.
Trong một chiếc hộp có 15 viên bi xanh và trong một hộp khác có 12 viên bi đỏ.
Đội 1 và đội 2 cùng chơi, trong mỗi lượt đi, mỗi đội buộc lấy đi 3 viên bi xanh
hoặc 2 viên bi đỏ. Đội thắng cuộc là đội lấy được những viên bi cuối cùng. Đội
1 muốn thắng cuộc phải có đấu pháp thế nào cho hợp lí.
Lời giải:
Đội 1 trong lượt chơi đầu tiên, cần lấy ra 2 viên bi đỏ từ hộp thứ 2, và sau
bước này thì tỉ lệ giữa bi xanh và bi đỏ là 15 : 10 = 3 :2.
Nếu lúc ấy, đội 2 lấy 3 viên bi xanh từ hộp thứ nhất hoặc 2 bi đỏ từ hộp thứ hai
thì người thứ nhất phải lấy ngược lại ở bước tiếp theo, 2 viên bi đỏ ở hộp thứ hai
hoặc 3 viên bi xanh ở hộp thứ nhất để đảm bảo sự bất biến của tỉ lệ 3: 2 đến
cuộc chơi.Và cuối cùng đến lượt đội 2 lấy thì còn lại 3 bi xanh ở hộp thứ nhất và

2 bi đỏ ở hộp thứ hai.Và dù đội 2 lấy số bi ở hộp thứ nhất hay thứ hai thì đội 1
vẫn lấy được số bi cuối cùng và thắng cuộc.
Giáo viên có thể cho học sinh cả lớp cùng chơi, cứ 2 bạn làm một đội để
chơi trò chơi trên. Nhưng trước khi chơi giáo viên cho các em bắt thăm để
chọn đội đi trước.Và sau đó giáo viên họp các đội chơi có nước đi trước lại
và mách mẹo đi cho các em.
Sau khi học sinh tiến hành chơi xong giáo viên cho nhóm tập hợp lại và
công bố cách chơi cho các em cùng biết, để các đội chơi có nước đi sau hiểu
được vì sao các em ấy thua và để các em có thể về nhà chơi với các bạn khác
trong lớp hoặc với anh chị trong gia đình.
Trò chơi 7:
Có một bàn vuông với số ô vuông trên các cạnh là 7. Hai đội chơi (đội 1
và đội 2) lần lượt đặt những đồng xu vào các ô vuông của bàn. Đội chơi nào
không còn chỗ để đặt đồng xu coi như là thua trận. Các đội lên phương án để đội
mình có thể thắng cuộc.
Lời giải:
Vì số ô là lẻ, mà có 2 đội chơi nên đội nào đi trước sẽ thắng cuộc.
Giáo viên có thể lấy bàn có nhiều ô vuông hơn để cùng chơi.
Qua trò chơi này đã củng cố dấu hiệu chia hết cho 2 cho học sinh.
9


Trò chơi 8: Giáo viên chia lớp thành từng nhóm (có thể chia theo tổ) để
tiến hành chơi trò chơi sau:
Yêu cầu học sinh chơi theo nhóm, mỗi nhóm sẽ được phát cho một trong
các số cần ghép.
Khi giáo viên ra hiệu lệnh các nhóm sẽ ghép các số mình có lại để tạo ra
được những số chia hết theo yêu cầu.
Chẳng hạn: Dùng ba trong bốn chữ số: 7; 3; 2; 0. hãy ghép thành các số
tự nhiên có ba chữ số sao cho số đó:

a). Chia hết cho 9.
b). Chia hết cho 3 mà không chia hết cho 9
Hướng dẫn:
Trong 4 chữ số 7; 3; 2; 0 có ba chữ số có tổng chia hết cho 9 là 7; 2; 0.
Vậy các số lập được là: 720; 270; 207; 702
Trong 4 chữ số 7; 3; 2; 0 có ba chữ số có tổng chia hết cho 3 mà không
chia hết cho 9 là 7; 3; 2. Vậy các số lập được là: 723; 732; 273; 327; 273; 237.
Trò chơi 9:
Giáo viên cho một số số trên bảng yêu cầu học sinh ở các nhóm quan sát
nhanh và cho nhận xét khi yêu cầu tìm các số chia cho 9 dư 1; chia 9 dư 2; vv…
học sinh quan sát nhanh và đọc các số đó, đại diện nhóm ghi lên bảng. Kết thúc
trò chơi nhóm nào ghi được nhiều số sẽ thắng.
Ví dụ: Cho các số 123; 1536; 468; 1546; 827; 1543; 546; 1568; 3765;
13
10 . Hãy tìm số dư khi chia mỗi số trên cho 9
Hướng dẫn:
Số chia cho 9 dư 1 là 1013.
Số chia cho 9 dư 2 là 1568.
Số chia cho 9 dư 3 là 3765.
Số chia cho 9 dư 4 là 1543.
Số chia cho 9 dư 5 là 546
Số chia cho 9 dư 6 là 213; 1536.
Số chia cho 9 dư 7 là 1546.
Số chia cho 9 dư 8 là 827.
Số chia cho 9 dư 0 là 468.
Trò chơi 10: (trò chơi tổng hợp cho các dấu hiệu cơ bản).
Một mảnh giấy được xé thành năm mảnh: một số trong số 5 mảnh nhỏ
này lại được xé thành 5 mảnh nhỏ nữa và một số trong các mảnh nhỏ này lại
được xé tiếp thành 5 mảnh, ... Vậy, nếu cứ liên tiếp xé như vậy thì có khi nào ta
được 2016 mảnh giấy hay không? Được 2017 mảnh giấy hay không?

Lời giải: Khi ta chia tờ giấy làm 5 mảnh và sau này chia các mảnh giấy
ra làm thành 5 mảnh nhỏ thì cứ mỗi lần số mảnh giấy tăng thêm 4. Vậy số mảnh
giấy, sau mỗi lần xé thì có dạng 4k + 1 (
), biểu thức này là bất biến trong
quá trình xé giấy.
Vì 2017 =4.504 + 1, vậy có thể xé thành 2017 mảnh sau lần thứ 504; 2016 ≠ 4
k+ 1 nên không thể xé được 2016 mảnh.
10


Qua trò chơi ẩn dưới bài toán này lại cho học sinh thấy được sự bất biến ở
chổ dù xé bao nhiêu lần đi chăng nữa thì số miếng giấy thu được sẽ luôn là 4.k +
1( với
) và do đó khi cho học sinh chơi trò chơi này nhưng với yêu cầu là
xé thành 2, 3, 5, 9 mảnh thì học sinh cũng dễ dàng nhận ra sự bất biến của qua
những lần xé.
Qua trò chơi này giáo viên có thể yêu cầu củng đề bài trò chơi trên nhưng
là xé thành 2 hoặc 3 hoặc5 hoặc 9 mảnh và yêu cầu học sinh cả lớp suy nghĩ để
giải.
Qua trò chơi này các em có thể tự tổ chức trò chơi với nhau và đây cũng
là một biện pháp giúp học sinh hứng thú hơn với môn toán.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua sự kiểm chứng trong hai năm học 2015-2016 và 2016-2017 từ những
kinh nghiệm của bản thân phần nào thu được những thành công trong việc xây
dựng các phương pháp về phép chia hết.
Số học sinh vận dụng thành thạo các
Tổng số học dấu hiệu chia hết
Năm học
sinh
nghiên Trước khi thực hiện Sau khi thực hiện

cứu
các trò chơi trong các trò chơi trong
tiết học
tiết học
2015-2016 20
8
12
2016-2017 20
10
14
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm mà tôi đã thực hiện ở các lớp mà
tôi đã giảng dạy đã có những kết quả đáng kể đối với học sinh.
Qua việc tổ chức trò chơi cho học sinh điều tôi nhận thấy ở học sinh đầu
tiên là việc các em hào hứng đón nhận. Các em không còn cảm thấy khó khăn
khi gặp các dạng toán về dấu hiệu chia hết như tôi đó trình bày ở phần thực
trang nữa.
Những kết quả trên đây cùng với những kết quả định tính khi thăm dò,
điều tra từ học sinh tôi mạnh dạn khẳng định những giải pháp mà đề tài đưa ra
là hoàn toàn khả thi và có thể áp dụng hiệu quả trong quá trình dạy học nói
chung, bồi dưỡng học sinh khá giỏi nói riêng.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1 Kết luận:
Trò chơi trong học tập là một loại hình hoạt động vui chơi có nhiều tác
dụng trong các giờ học. Nó tạo ra không khí vui tươi, hồn nhiên, sinh động trong
giờ học, tránh được sự khô khan trong dạy học môn toán. Với kinh nghiệm
nhiều năm giảng dạy bộ môn toán 6, qua áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy tôi

11



thấy học sinh ngày càng yêu thích môn toán hơn. Từ đó tạo ra hứng thú học tập
và nắm vững hơn kiến thức bài học.
Tổ chức tốt các trò chơi còn giúp học sinh tự tin, có cơ hội khẳng định
mình và tự đánh giá nhau trong học tập. Tuy nhiên không nên quá lạm dụng
phương pháp này. Ở mỗi giờ học ta chỉ nên áp dụng 1 đến 2 trò chơi trong
khoảng từ 5 đến 7 phút.
Qua việc ngiên cứu và áp dụng có hiệu quả tại trường, bản thân tôi thấy
sáng kiến này có thể áp dụng rộng dãi ở tất cả các lớp. Tuy nhiên do điều kiện đề
tài mới chỉ dừng lại ở các dấu hiệu chia hết lớp 6. Rất mong được sự chia sẻ,
góp ý của các bạn đồng nghiệp.
3.2 Đề xuất kiến nghị:
3.2.1Với giáo viên:
+ Không ngừng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt
động của học sinh, lấy sự phát triển của học sinh làm trung tâm.
+ Đầu tư thời gian cho việc ngiên cứu bài dạy, lựa chọn phương pháp, hình thức
tổ chức phù hợp cho từng nội dung bài học.
+ Muốn tổ chức trò chơi trong các tiết học toán có kết quả cần chuẩn bị cụ thể,
chi tiết từ việc lựa chọn trò chơi, phương pháp , hình thức tổ chức sao cho phù
hợp với nội dung bài học.
3.2.2 Với các cấp quản lí giáo dục:
+ Tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học cho đội
ngũ giáo viên
+ Nên tạo điều kiện cho giáo viên các trường sinh hoạt chuyên môn với nhau từ
đó giúp giáo viên có cơ hội học tập, trao đổi kinh nghiệm.
+ Cần khuyến khích giáo viên có những sáng kiến mang tính sáng tạo, áp dụng
ngay vào những tiết dạy mang lại hiệu quả cao trong giáo dục.

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Quan Sơn,ngày 29 tháng 4 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là sáng
kiến kinh nghiệm của mình không
sao chép nội dung người khác
Người viết:

Hoàng Ngọc Thắng

12



×