Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Rèn luyện kĩ năng nói trước đám đông cho học sinh lớp 6 qua giờ dạy ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.08 MB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI TRƯỚC ĐÁM ĐÔNG
QUA GIỜ DẠY NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP 6
TRƯỜNG THCS NGA MỸ

Người thực hiện: Mai Thị Nhớ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Mỹ
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2017

1


MỤC LỤC

STT
1
MỞ ĐẦU

Nội dung

Trang
2


1.1

Lý do chọn đề tài

2

1.2

Mục đích nghiên cứu

3

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3

1.4

Phương pháp nghiên cứu

3

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

2.1


Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

4

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến

4

2.3

. Một số giải pháp

6

2

2.3.1 Luôn tạo tính tự tin, tự chủ qua cách đứng lên trả lời câu hỏi

6

hoặc kiểm tra bài cũ
2.3.2 Rèn luyện ngôn ngữ nói qua việc luyện đọc trong giờ học văn

9

bản
2.3.3 Rèn luyện tư thế cử chỉ, ánh mắt, nét mặt qua tiết luyện nói


12

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh

18

3

KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ

20

3.1

Kết luận

20

3.2

Kiến nghị

20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. MỞ ĐẦU
2



1.1 Lí do chọn đề tài:
Dạy học không chỉ là truyền đạt kiến thức, tri thức mà còn hình thành các
kỹ năng, giúp các em phát triển một cách toàn diện, chuẩn bị cho các em hành
trang vào đời một cách tự tin. Nhất là trong xu hướng hội nhập, đề cao tính tư
duy độc lập, tự tin, sáng tạo của con người trong xã hội ngày nay, thì việc rèn
luyện kỹ năng trong giao tiếp cho học sinh là vô cùng cần thiết.
Từ xưa đến nay ngôn ngữ đã góp phần quan trọng trong giao tiếp, trao đổi
thông tin, biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là yếu tố quan trọng trong việc
thể hiện văn hóa, tính cách con người.Vì thế ông bà ta thường dạy: “học ăn, học
nói, học mở” không phải ngẫu nhiên mà “học nói” được xếp vào vị trí thứ hai.
Điều này cho thấy nói là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày .
Richard Zeoli, một chuyên gia trong lĩnh vực nói trước công chúng có
câu: “Năng khiếu nếu có chỉ là một phần, tất cả đều do khổ luyện mà thành!”
Nếu như nghe, đọc là hai khái niệm quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông
tin thì nói và viết là hai khái niệm quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt
thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Nhiều học sinh
thường rèn luyện rất tốt việc viết nhưng lại ngại nói. Bởi vậy có trường hợp khi
ở một mình với nhóm bạn thân hay khi về nhà thì “nói như khiếu” nhưng cứ
đứng trước đám đông cho dù chỉ là trước lớp hay trước toàn trường (cũng “lứu
lưỡi” lại nói chẳng đâu vào đâu).
Vậy nói trước đám đông là việc không đơn giản. Đó là kỹ năng cần được
học tập và rèn luyện thường xuyên.
Thiết nghĩ rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông cho học sinh là một việc
làm thiết thực và góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn, rèn luyện
cho các em mạnh dạn trước tập thể, tự tin, có kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống.
Trong những năm học qua, giáo viên bộ môn ngữ văn dần tiếp cận và nắm
vững phương pháp dạy học mới. Người thầy không chỉ đóng vai chỉ đạo, hướng
dẫn học sinh chủ động khám phá, chiếm lĩnh tri thức mà còn hình thành cho các

em những kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Qua mỗi bài học, mỗi học sinh phải tự
mình bộc lộ sự hiểu biết, phát triển tư duy thành lời . Phương pháp dạy học mới
đó giúp các em tự tin , giao tiếp mạnh dạn, phát huy được khả năng của bản thân
và đặc biệt đó là yếu tố cấu thành nên sự thành công.
Nhận thức rõ được vai trò của hoạt động nói những năm gần đây, tôi đã áp
dụng phương pháp dạy học phát triển kỹ năng nói của học sinh nhằm giúp các
em rèn luyện để tự tin khi giao tiếp trước đám đông.Qua đề tài :Rèn luyện kỹ
năng nói trước đám đông qua giờ dạy ngữ văn cho học sinh lớp 6 trường
THCS Nga Mỹ tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình trong việc giúp các em
phát triển toàn diện kỹ năng đáp ứng yêu cầu của xã hội.
3


1.2 Mục đích nghiên cứu:
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu để giúp học
sinh phát triển kỹ năng sống, song chưa có công trình nào đề cập đến rèn kỹ
năng nói trước đám đông cho học sinh lớp 6 (một lứa tuổi đang hình thành nhân
cách, mới bước vào bậc THCS) qua giờ dạy ngữ văn. Đây là đề tài khá mới mà
bản thân tôi muốn tìm hiểu để đưa ra một giải pháp có thể rèn luyện kĩ năng nói
trước đám đông cho học sinh.
Trong quá trình giảng dạy tôi có sự tìm tòi, học hỏi, vận dụng và đã thấy
được hiệu quả. Rèn luyện nói trước đám đông giúp học sinh hình thành kĩ năng,
cách xác định : Nói với ai? nói vấn đề gì? nói ở đâu? nói khi nào? nói để làm gì?
và nói như thế nào? nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh.
1.3 Đối tượng nghiêm cứu:
Học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ năm học 2015-2016 .
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát, điều tra.
Khi hướng dẫn học sinh học, tôi luôn quan sát, chú ý xem các em nói như
thế nào, cái gì được, cái gì chưa được để tìm ra biện pháp và phương pháp thích

hợp giúp các em có kỹ năng giao tiếp tốt.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Với học sinh lớp 6, đầu năm học tất cả đều rất mới lạ. Khi thực hiện các
hoạt động giao tiếp như đứng dậy trả lời câu hỏi, lên bảng kiểm tra bài cũ, đọc
bài... các em ít chủ động hỏi lại, còn rụt rè mất tự tin khi nói. Bởi vậy qua tìm
hiểu và tổng hợp kết quả khảo sát, tôi thấy cần tăng cường chú ý rèn luyện kỹ
năng nói cho học sinh có kết quả tốt hơn.
-Phương pháp thực hành.
Đây là phương pháp chủ đạo của rèn kỹ năng nói trước đám đông cho học
sinh. Phương pháp thực hành bao gồm các hoạt động như luyện tập, ôn tập và
hoạt động tương trợ, hỗ trợ rồi tới hoạt động độc lập của học sinh. Trong các tiết
ngữ văn tôi luôn áp dụng phương pháp này để giúp các em hình thành thói quen
nói trong giao tiếp.

2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:

4


Nói trước đám đông là một hình thức giao tiếp đặc biệt, nhằm truyền tải
thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, hô hào hành động tác động vào tình cảm của
người nghe, từ đó có sự định hướng hành động.
Trong xã hội ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu
hướng hội nhập, càng đòi hỏi con người phải có sự phát triển toàn diện. Bởi vậy,
nhà trường đóng vai trò nền tảng, là nơi giáo dục học sinh ngay từ những ngày
đầu bước chân tới trường. Sự giáo dục ấy với mục tiêu giúp các em phát triển trí
tuệ, hoàn thiện nhân cách, phát huy khả năng của các em để trở thành những con
người có ích cho xã hội.
Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao

tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các
môn ngôn ngữ, lấy hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc,viết
là trọng tâm.
Trong học tập học sinh phải chăm chỉ làm bài tập, thế nhưng nếu không
có kĩ năng giao tiếp, làm sao một học sinh có thể trình bày thắc mắc với thầy cô
giáo. Bởi vậy giao tiếp thật là miếng ghép quan trọng nhất trong bức tranh thành
công của mọi cuộc đời.
Lợi ích của kỹ năng giao tiếp rõ ràng ai cũng hiểu nhưng có một kỹ năng
nói tốt thật ra lại là điều khó đạt được đặc biệt là đối với học sinh THCS. Và
nhất là các em lớp 6, kĩ năng đó cần được học tập và rèn luyện từ từ thường
xuyên.
Đối với học sinh lớp 6 mới chập chững bước từ cấp tiểu học lên, mọi thứ
đều mới lạ, đều phải rèn luyện. Nhiều em khi giáo viên hỏi, gọi đọc bài còn
đánh vần từng chữ một, run sợ khi đứng dậy đọc bài chứ nói gì đến việc nói lưu
loát. Bởi vậy “Rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông qua giờ dạy ngữ văn
cho học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ” là một việc làm cần thiết đối với
các em học sinh đặc biệt là học sinh lớp 6.
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến:
Hiện nay khả năng giao tiếp tự nhiên của trẻ em ở nông thôn kém hơn trẻ
em thành phố. Điều này là do nhiều nguyên nhân trong đó ở môi trường nông
thôn phần lớn các em thuộc gia đình làm nông cha mẹ ít có thời gian quan tâm
tới việc học của các em, chưa chú trọng đến việc phát triển kỹ năng sống nên nói
trước đám đông là vấn đề khó khăn của các em do đó khả năng nói còn kém hơn
so với đọc và viết.
Những học sinh ít nói, ít được giao tiếp với mọi người thường hay rụt rè
ngại ngùng. Điều này thường xảy ra với những học sinh không giữ những trọng
trách gì trong lớp học hoặc do có thành tích học tâp không tốt hay không có tài
năng khác như ca múa, làm thơ viết văn. Chính vì các em nghĩ mình không có

5



tài, không tốt nên sợ mọi người chê cười, ngại phát biểu trước đám đông vì sợ
nói không chính xác hoặc mọi người không đánh giá cao.
Trong học tập còn rất nhiều học sinh vẫn hay ấp úng ngại ngùng, mỗi khi
giơ tay phát biểu một điều mình biết rõ. Phần lớn các em ngại việc kiểm tra bài
cũ, run sợ khi lên bảng và khi trả lời thì quên hết dù trước đó đã hiểu và nắm bài
tốt…
Có một thực tế hiện nay là nhiều thế hệ học sinh khi ra trường không biết
nói ra điều mình nghĩ, không truyền đạt được chính xác một thông tin hoặc
không thực hiện đúng những nguyên tắc giao tiếp.
Nhiều giáo viên có chú ý rèn kỹ năng nói cho học sinh song còn lúng túng
trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng do
sách giáo viên không có hướng dẫn cụ thể.
Với các em lớp 6 do môi trường mới phần lớn các em thường rụt rè,
không chú trọng rèn luyện kỹ năng nói sẽ tạo thành “thói quen” nhút nhát ngại
giao tiếp sau này của các em.
Thực tế ở trường THCS Nga Mỹ qua các năm dạy, tôi thấy kỹ năng nói
của học sinh còn kém. Cụ thể trong năm học 2015-2016 trước khi thực hiện đề
tài, tôi chia học sinh theo ba mức độ để đánh giá: Nói tốt, nói ấp úng, nói chưa
được và tiến hành khảo sát. Kết quả khảo sát kỹ năng nói như sau:
Lớp

6


số
35

Nói tốt

SL
4

Nói ấp úng
%
11.4

SL
13

%
37.1

Nói chưa được
SL
18

%
51.5

Nhìn vào bảng số liệu chúng ta có thể nhận thấy số lượng học sinh nói
chưa được gấp 4.5 lần học sinh nói tốt và số lượng học sinh nói ấp úng gấp 3.3
lần học sinh nói tốt. Từ các con số này, tôi thấy được khả năng nói của các em
còn hạn chế, cần có sự uốn nắn, rèn luyện để đáp ứng mục tiêu của dạy học môn
Ngữ văn là giúp cho học sinh có được kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tương
đối thành thạo; là hình thành những con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao
đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ, giúp học sinh biết bộc lộ tư
tưởng, truyền đạt thông tin trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Từ kết quả khảo sát tôi đưa ra những giải pháp sau:
2.3 Một số giải pháp:

* Các giải pháp thực hiện trong giờ dạy.
Để giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói và phát triển khả năng diễn đạt ý
phong phú, điều trước tiên là tôi phải xác định và nắm rõ mục tiêu cần đạt của
tiết dạy để có sự định hướng giúp các em. Sau đó tôi nắm bắt thực tế và khả
6


năng nói của từng em để đưa ra phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với
các giải pháp sau:
2.3.1: Luôn tạo tính tự tin, tự chủ qua cách đứng lên trả lời câu hỏi
hoặc kiểm tra bài cũ.
Dạy văn không chỉ là giúp học sinh tiếp nhận tri thức, là bồi dưỡng đạo
đức mà còn giúp các em có sự tự tin vào bản thân. Đặc biệt với các em học sinh
lớp 6, khi bước vào môi trường mới, sự làm quen mới thì rất cần một sự dìu dắt
để tạo tính tự tin tự chủ. Làm chủ được bản thân trong mọi tình huống các em có
thể nói trước đám đông một cách thuyết phục.
Trả lời câu hỏi hay trả lời bài cũ là công việc thường xuyên của các em
trong bất cứ giờ học nào. Nhưng một thực tế mà chúng ta đều nhận ra là khi lên
bảng kiểm tra bài cũ hay đứng lên trả lời câu hỏi của giáo viên, các em thường
hay run, tâm lí lo sợ, có em biểu hiện rõ ở vẻ mặt sợ sệt, tái nhợt, lời nói lắp bắp
run run. Có những em hiểu bài nhưng khi giáo viên gọi thường không trả lời
được, có em học bài cũ chu đáo khi lên bảng đứng trước cả lớp và giáo viên thì
vì run mà quên hết. Những cảm xúc, những biểu hiện mà các em gặp chính là do
các em thiếu tính tự tin, tự chủ.
Hiểu được khó khăn đó của các em, ngay từ khi các em mới vào lớp 6, tôi
đã chủ động rèn luyện tính tự chủ, tự tin cho các em qua việc trả lời câu hỏi hoặc
kiểm tra bài cũ. Đây cũng là một giải pháp quan trọng góp phần giúp các em có
thể đứng trước đám đông để tự tin tự chủ giao tiếp tốt.
Để rèn luyện cho học sinh tôi đặt ra các yêu cầu sau:
- Đối với giáo viên:

+ Nắm bắt được đặc điểm tâm lí của từng em học sinh trong lớp.
+ Tăng cường gần gũi, giao tiếp thường ngày với học sinh
+ Ra câu hỏi và gọi học sinh trả lời theo đúng lực học của các em. Câu hỏi
phân theo mức độ: dễ, trung bình, nâng cao.
+ Cần chú ý đến những em học sinh nhút nhát, rụt rè.
+ Có thái độ nhẹ nhàng, cử chỉ ân cần, có sự khen ngợi khích lệ cho điểm.
+ Uốn nắn cách trả lời cho các em.
- Đối với học sinh:
+ Cần chuẩn bị bài ở nhà chu đáo: học bài cũ và soạn bài mới trước khi
lên lớp.
+ Cần có tinh thần cầu thị, học hỏi phấn đấu.
+ Tăng cường tham gia các hoạt động tập thể ở trường cũng như ở địa
phương
Từ các yêu cầu đó trong mỗi tiết dạy tôi đều chú ý uốn nắn cho các em:
- Đối với việc kiểm tra bài cũ: Tâm lí của các em luôn ngại, vào đầu tiết
dạy các em luôn có biểu hiện “căng thẳng” khi giáo viên kiểm tra bài cũ. Bởi

7


vậy tôi luôn tìm cách để công việc kiểm tra bài cũ không còn là việc “đáng sợ”
của các em bằng cách:
Khi vào lớp, tôi luôn có thái độ niềm nở, thân thiện với các em, tạo những
tình huống thú vị qua các câu hỏi vừa có tính chất lôi cuốn vừa xóa đi sự căng
thẳng cho các em.
Ví dụ: Khi kiểm tra bài cũ văn bản “Mẹ hiền dạy con” (SGK ngữ văn 6
tập1) giáo viên hỏi: Em nào có thể đọc một bài thơ hay hát một bài hát về mẹ?
Sau khi học sinh trình bày xong giáo viên có thể hỏi: Em cảm nhận như
thế nào về người mẹ qua bài hát đó?
Học sinh có thể trả lời sơ sài từ khả năng của mình. Giáo viên có thể gọi

một số em khác bổ sung.
Sau đó giáo viên hỏi: Người mẹ trong câu chuyện “me hiền dạy con” có
những phẩm chất đó không? Ngoài ra người mẹ trong câu chuyện còn có những
phẩm chất nào nữa?
Học sinh trả lời, các bạn khác bổ xung để hoàn thiện.
Trong quá trình học sinh trả lời giáo viên cần quan sát luôn có ánh mắt cổ
vũ động viên các em, gợi ý và gợi thêm từ để các em diễn đạt.
Sau khi học sinh trả lời xong, giáo viên cần cho điểm theo tinh thần
khuyến khích, cần tìm ra điểm khen ngợi cho các em. Ngoài ra giáo viên có thể
cho điểm các bạn đã xung phong trả lời hỗ trợ bạn.
Từ bước kiểm tra bài cũ mang tính chất khởi động tạo hứng khởi và sự tự
tin giáo viên có thể vào bài dạy với sự tham gia tích cực của các em. Bởi tâm lí
của học sinh đặc biệt là các em lớp 6 luôn muốn sự vui vẻ, gần gũi, muốn được
khen ngợi, khích lệ. Từ đó dần dần các em cũng sẽ quên mất cảm giác lo sợ khi
việc kiểm tra bài cũ được thực hiện.
- Đối với việc gọi học sinh đứng lên trả lời các câu hỏi trong tiết học.
Tiết học sẽ là sự thành công nếu có sự tham gia đầy đủ tích cực của tất cả
các em học sinh.
Với các em học sinh lớp 6 khả năng tập trung của các em chưa cao, còn
hay làm việc riêng theo ý thích của mình bởi vậy để có sự lôi cuốn các em tập
trung trong giờ học là một vấn đề. Đồng thời thường cách trả lời của các em ít
được uốn nắn hay nói nhỏ, hay run sợ, hay nói cộc lốc…
Trong giờ dạy tôi đã chú trọng đến tất cả các vấn đề đó nhằm giúp các em
có thói quen tập trung tham gia tích cực, chủ động, tự tin khi đứng lên trả lời câu
hỏi của cô giáo.
Trong giờ học, tôi quan tâm nhiều tới các em nhút nhát, rụt rè, đặt câu hỏi
theo đúng khả năng của mỗi em. Tôi tìm câu hỏi dễ để các em trả lời và sau đó
cho cả lớp tuyên dương để động viên bạn.

8



Đối với những học sinh còn nói nhỏ chưa mạnh dạn, tôi kiên trì gợi mở,
có khi xuống bàn học tạo sự động viên để các em có thể nói to mà không run sợ.
Cần tránh cách đặt câu hỏi quá khó, khó xác định đúng sai, làm cho học sinh
ngập ngừng mất tự tin vào bản thân.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự” (SGK ngữ văn 6
tập1) giáo viên có thể đặt câu hỏi để gợi mở vấn đề như:
? Khi kể chuyện người kể thường dùng những ngôi kể nào?
Giáo viên gọi một học sinh trung bình-yếu đứng lên trả lời.
? Vì sao có khi người kể xưng tôi có khi không?
? Khi xưng tôi, tác giả và người kể có phải là một không?
Giáo viên gọi một học sinh trung bình-khá trả lời.
Đồng thời để rèn luyện cách nói, khi các em phát biểu tôi theo dõi ý kiến
của các em một cách chăm chú (tuyệt đối không tranh thủ lúc học sinh nói để
xóa bảng hoặc ghi bảng.)
Nghe các em trả lời thiếu chủ ngữ và vị ngữ tôi hỏi nhỏ: Em nói với ai?
làm sao? thế nào? Có khi tôi chêm vào câu nói của các em những liên từ, giới
thiệu từ để các em chuyển ý và cung cấp những từ mà các em còn lúng túng tìm
tòi. Tôi yêu cầu khi các em trả lời phải nhắc lại câu hỏi, khi câu trả lời có nhiều
ý, có sự sắp xếp ý 1, ý 2 rõ ràng.
Khi trả lời ánh mắt cần nhìn vào người hỏi (giáo viên). Cách nói phải có
sự thuyết phục:
Tôi đưa ra một quy định trong giờ dạy về việc cho điểm như sau:
+ Phát biểu nhiều lần trong một tiết, có nhiều ý đúng và gần đúng. cuối
giờ cho điểm 7-8.
+ Cả lớp không ai trả lời được, em nào phát biểu đúng được 9-10 điểm.
+ Phát biểu đúng to, rõ ràng, phong thái bình tĩnh đàng hoàng, lời lẽ lưu
loát được 10 điểm.
+ Khuyến khích cộng điểm cho các bạn có học lực trung bình - yếu.

2.3.2: Rèn luyện ngôn ngữ nói qua việc luyện đọc trong giờ học văn
bản.
Môn ngữ văn được coi là môn học công cụ hướng tới việc hình thành và
phát triển các năng lực đọc, nói, viết cho học sinh. Nếu như trước đây chúng ta
coi phân tích tác phẩm hay giảng văn là phương pháp đặc thù của dạy văn thì
hiện nay đã có sự đổi mới. Cách dạy đọc-hiểu không nhằm truyền thụ một chiều
cho học sinh những cảm nhận của GV về văn bản được học, mà hướng tới việc
cung cấp cho học sinh cách đọc, cách khám phá vấn đề để từ đó học sinh chủ
động, tích cực thể hiện sắc thái cá nhân của mình giúp hình thành các kĩ năng
trong đó có kĩ năng nói. Người học càng đọc nhiều thì vốn từ càng phong phú và
có khả năng dùng từ chính xác, hiệu quả. Đó chính là “nền móng” hình thành

9


khả năng nói trong giao tiếp của con người. Bởi vậy đọc- hiểu văn bản là một
thao tác của nói, có đọc được mới nói được và lẽ hiển nhiên đọc tốt thì nói tốt.
Nhận thức rõ điều đó nên tôi đưa ra giải pháp giúp các em luyện nói tốt
qua các giờ đọc hiểu văn bản. Thông qua hệ thống bài đọc – hiểu văn bản với
những chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài học, kỹ
năng đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, con người,
cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt góp phần giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp
hàng ngày.
Ở cấp THCS không có tiết tập đọc riêng như ở tiểu học nhưng muốn lôi
cuốn, truyền cảm và rèn luyện ngôn ngữ nói cho các em thì trong tiết giảng văn
phải đảm bảo một thời gian đọc thích hợp cho có chất lượng, tránh lối làm qua
loa, đại khái, đọc để mà đọc vì sợ thiếu giờ dạy. Đọc không có mục đích đúng
đắn, không thu được kết quả nào thì đọc để làm gì? Có lẽ tất cả mọi GV dạy văn
đều biết rằng đọc tốt ảnh hưởng rõ rệt đến nói và viết, làm cho nói và viết dần
trở nên tốt. Qua đọc học sinh có thể hiểu phần nào ý nghĩa của bài văn, hỗ trợ

một phần nào cho kĩ năng nói của các em.
Đọc chuẩn một văn bản có nghĩa là phải đọc đúng, đọc rõ, đọc diễn cảm,
đọc hay.
Để đạt được điều đó trước một văn bản người GV cần cung cấp cho các
em kĩ thuật đọc một tác phẩm cụ thể trong giờ đọc hiểu. Muốn vậy tôi đề ra yêu
cầu và cách đáp ứng yêu cầu như:
- Đọc diễn cảm là một phương pháp đọc sáng tạo. người đọc phải thể hiện
được tình cảm, cảm xúc của tác giả, nhân vật thông qua ngữ điệu. Đọc diễn cảm
là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức, thẩm mỹ cho các em, lôi cuốn
học sinh nhập hồn vào tác phẩm. Giáo viên có thể đọc mẫu hướng dẫn học sinh
đọc cụ thể rồi gọi một học sinh đọc tốt đọc trước. Sau khi học sinh đọc xong,
giáo viên phải nhận xét rõ ràng và những nhận xét đó phải mang tính chất khen
ngợi hơn chê.
- Đọc phân vai là cho học sinh đóng vai các nhân vật trong truyện để đọc.
Cách đọc này phù hợp với chương trình ngữ văn 6 kì I đa phần là các tác phẩm
tự sự. Phương pháp này tái hiện lại lời thoại nhân vật một cách cụ thể, làm cho
câu chuyện hấp dẫn, sống động hơn. Đồng thời cũng giúp các em đễ dàng xác
định các tuyến nhân vật, lời thoại nhân vật, tính cách nhân vật qua giọng điệu.
Cách thực hiện phương pháp này:
+ Giáo viên cần phân vai rõ ràng, phù hợp, hướng dẫn cụ thể trước khi
đọc để mạch truyện không bị phá vỡ khi các em nhầm vai.
+ Giáo viên sẽ đọc phần dẫn truyện để dẫn dắt, nhắc nhở các vai kịp thời
khi các em lúng túng.

10


+ Sau một đoạn có thể dừng lại nhận xét cách đọc và mời nhóm học sinh
khác đóng vai đoạn tiếp theo.
Ví dụ: Khi dạy truyện ngụ ngôn: “Thầy bói xem voi”

Giáo viên cho học sinh đọc diễn cảm phân vai sẽ góp phần tái hiện lại
không gian thời điển, sự việc diễn ra của năm ông thầy bói mù xem voi, đoán
mò rồi xô xát, đánh nhau toạc cả máu đầu như một màn kịch vừa xảy ra. Qua đó
đã giúp cho người đọc, người nghe thấy được tính chất hài hước, mua vui, châm
biếm của câu chuyện và tự rút ra được ý nghĩa của câu chuyện bằng cảm nhận
và rung động riêng của cá nhân.
Ví dụ: Khi dạy truyện cổ tích “ Ông lão đánh cá và con cá vàng”
+ Giáo viên đọc phần dẫn truyện rõ ràng, nhẹ nhàng, thương cảm đối với
lời dẫn về ông lão; lên giọng ở những lời dẫn về mụ vợ để tỏ thái độ không hài
lòng; giọng thư thái nhẹ nhõm khi đọc lời dẫn về con cá vàng.
+ Chọn một học sinh nữ đóng vai mụ vợ, một học sinh nam đóng vai ông
lão, một học sinh đóng vai cá vàng. Giáo viên hướng dẫn từng vai cụ thể.
+ Trong quá trình đọc nếu học sinh đọc chưa tốt thì nên đổi học sinh khi
hết đoạn. Bởi vì học sinh đọc sai, đọc dở sẽ khiến các học sinh khác bàn tán
không tập trung.
+ Sau khi đọc xong cho các em nhận xét về cách đọc của nhau.
Phương pháp này giúp học sinh hiểu thông tin ngay trên từng dòng văn bản. Học
sinh cũng có thể huy động vốn ngôn ngữ nói để kể lại câu chuyện hoặc đoạn
truyện theo hoạt động của nhân vật.
- Luyện cách phát âm đúng, ngắt hơi đúng, đọc đúng thanh điệu, đọc
đúng từ..
Đối với giao tiếp nói trước đám đông thì việc phát âm đúng, ngắt hơi
đúng và dùng từ đúng nghĩa là việc cần thiết. Với các em học sinh lớp 6 cách rèn
luyện này sẽ giúp các em tự tin trong giao tiếp tránh được sự mặc cảm, tự ti.
Một yêu cầu cần thiết của môn ngữ văn là muốn học tốt phải đọc tốt,
muốn đọc tốt phải nói tốt. Vì vậy ngoài việc rèn cho học sinh có kỹ năng nói
đúng đủ nội dung theo yêu cầu thì người giáo viên cần rèn cho học sinh cách
phát âm đúng, ngắt hơi đúng, đọc đúng thanh điệu.
Một thực tế là khi nói học sinh thường biểu hiện nhiều nhược điểm như
nói ngọng, nói nhỏ, nói sai ngữ pháp, nói ngập ngừng…

Để khắc phục những lỗi đó trong giờ học giáo viên cần:
+ Chữa phát âm sai: một trong những lỗi do phát âm sai phổ biến là khi
phát âm không phân biệt được giữa thanh ngã và thanh hỏi.
Ví dụ: Nguyễn Hữu Dũng thì các em đọc là Nguyễn Hửu Dủng hay cổ lỗ
đọc thành cổ lổ, nặng trĩu đọc thành nặng trỉu…

11


Vì những lỗi này chỉ có ở một số ít nên khi mắc phải một số học sinh khi
nói ngượng ngập còn cả lớp thì chú tâm vào lỗi đó, nhắc bạn hoặc cười ồ khiến
các em càng ngại ngùng khi nói.
Để sửa lỗi đó giáo viên phải hướng dẫn các em cách đọc cụ thể yêu cầu
học sinh đọc và trong mỗi giờ học quan tâm nhiều hơn để học sinh đó phải cố
gắng sửa chữa tạo sự tự tin khi nói.
+ Chữa nói nhỏ: Với những năm đi dạy tôi đã gặp nhiều học sinh nói nhỏ
khi phát biểu, đặc biệt hơn khi sinh hoạt kỹ năng sống vào sáng thứ hai dù nói
qua micrô nhưng vẫn không ai nghe rõ em đang nói gì. Bởi vậy trong giờ văn tôi
đã chú ý tới các em đó và uốn nắn sửa chữa cho các em. Rất nhiều học sinh đã
có sự tiến bộ rõ rệt.
Ví dụ: Nói nhỏ dễ chữa nhưng nó rất quan trọng trong việc hình thành kỹ
năng giao tiếp bởi vậy trong lớp với các tiết học tôi gọi em học sinh nói
nhỏ đứng lên trả lời khi nói xong tôi hỏi cả lớp:
- Ở dưới các em có nghe bạn nói không?
Cả lớp trả lời :
- Không ạ!
Tôi yêu cầu em đó :
- Em nhắc lại cho các bạn nghe!
Lần này em đó có thể nói to hơn trước hoặc nói nhỏ.
Xong tôi yêu cầu em khác:

- Em hãy nhận xét ý kiến của bạn.
Em được gọi nhận xét trả lời:
- Bạn nói nhỏ quá em chẳng nghe thấy gì cả ạ!
Tôi gợi ý luôn:
- Em nói lại cho bạn nghe đi!
Lần này em đó nói có sự tiến bộ, nói to hơn.
Gọi một bạn khác nhận xét. Em đó sẽ nói:
- Bạn nói rõ ràng và em đã nghe thấy ạ! Bạn trả lời đúng rồi ạ.
Lúc này tôi sẽ nói:
- Em thấy đó nếu em nói nhỏ sẽ chẳng ai nghe thì làm sao các bạn nhận
xét được, làm sao biết em nói đúng hay sai, hay hay dở.Như vậy dù ý kiến có
hay đến mấy mà nói nhỏ cũng vô ích.Vậy khi nói phải nói to, rõ, thế mới tôn
trọng người nghe.
2.3.3: Rèn luyện tư thế, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt qua tiết luyện nói.
Trong giao tiếp ngôn ngữ, nói đóng một vai trò quan trọng giúp thiết lập
nên mối quan hệ với những người xung quanh. Nhưng trong giao tiếp tư thế, cử
chỉ, ánh mắt, nét mặt cũng đóng một vai trò quan trọng người ta gọi đó là tín
hiệu không lời.Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tín hiệu không lời mang
thông tin nhiều gấp 5 lần so với nói bằng lời: 75% thông tin mà con người thu

12


nhận được là qua kênh thị giác, qua kênh thính giác là 12%, xúc giác là 6%,
khứu giác là 4%, vị giác là 3%. Đồng thời trong giao tiếp muốn cho người nghe
hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc, logic,
phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượng…
Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy học văn, là biện pháp
góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Luyện nói tốt sẽ
giúp người học sẽ có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.

Hiểu rõ điều đó nên để giúp học sinh có kỹ năng nói trước đám đông,
trong mỗi giờ học tôi đều uốn nắn rèn luyện đặc biệt qua các tiết luyện kể
chuyện.
Trong chương trình lớp 6 các em có 5 tiết luyện nói kể chuyện và miêu tả.
Bài 7: Luyện nói kể chuyện.
Bài 10: Luyện nói kể chuyện.
Bài 20: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong
văn miêu tả.
Bài 23: Luyện nói về văn miêu tả.
Số lượng tiết không nhiều song cũng là điều kiện để rèn luyện cho các
em khả năng đứng trước lớp hoạt động độc lập một mình. Đây cũng chính là
bước giúp cho các em có khả năng nói trước đám đông một cách tự tin. Chính vì
thế khi tiến hành các giờ luyện nói tôi đã thực hiện các yêu cầu sau:
+ Đứng trước một vấn đề cần trình bày học sinh cần chuẩn bị tốt nội dung
bài nói (dàn bài) để các em hình dung được mình sẽ nói cái gì (xác định đề tài ),
nói với ai (xác định giao tiếp), nói để làm gì (xác định mục đích giao tiếp), nói
như thế nào (cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe).
+ Đặt ra yêu cầu về dàn bài phải ngắn gọn, bám sát đề bài, nêu được các ý
chính. Học sinh dựa vào dàn bài để nói.
+ Khi trình bày cần tránh lối nói vòng vo, tránh đọc lại, học thuộc bài văn
chi tiết đã có trước.
+ Giọng nói cần rõ ràng, biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc
chân thành, tự nhiên không gò bó, áp đặt
+ Tác phong tự nhiên, không nên đứng chôn chân một chỗ, cần có sự di
chuyển nhẹ nhàng.
+ Ánh mắt biết quan sát, không nhìn chằm chằm vào một chỗ, cần luôn
linh hoạt.
+ Trên khuôn mặt luôn biểu lộ sự thoải mái, tự nhiên luôn nở nụ cười khi
nói .
Từ những yêu cầu trên tôi tiến hành các bước trong tiết luyện nói trên lớp

như sau:
Bước1: Từ tiết học trước cần dặn dò học sinh về nhà đọc kỹ bài và chuẩn
bị dàn bài. Hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị ở nhà thật cẩn thận và chu đáo cho
13


giờ luyện nói trên lớp. Có thể nói đây là yêu cầu quan trọng quyết định một nửa
thành công giờ luyện nói trên lớp. Bởi vì có chuẩn bị học sinh mới nắm bắt được
mình nói gì trong tiết học tới, chuẩn bị tốt học sinh mới có tâm thế khi bước vào
tiết học.
Ví dụ: Khi dạy bài: “luyện nói kể chuyện” tiết 29 ngữ văn 6: giới thiệu về
bản thân, tôi đã cho học sinh chuẩn bị trước 3 ngày. Sự chuẩn bị của học sinh
theo những gợi ý sau:
Đề bài yêu cầu gì? Phần mở bài sẽ nói những gì? Có cần giới thiệu tên
mình không? Phần thân bài gồm mấy ý? Nội dung các ý chính? Phần kết bài sẽ
nói gì?
Bước 2: Vào bài bằng hình thức khởi động tạo không khí dễ chịu giữa cô
và trò, khơi gợi những kiến thức có sẵn của học sinh có liên quan cần thiết đến
nội dung bài học
Bước 3: Giáo viên nhắc lại chủ đề luyện nói và yêu cầu cần thiết đối với
tiết học.
Bước 4: Giáo viên gọi học sinh lên bảng trình bày phần mình đã chuẩn bị.
Trong bước này giáo viên cần gần gũi, nhẹ nhàng và trực tiếp theo dõi các em
với thái độ niềm nở, bởi vì trong các tiết luyện nói các em phải đứng trước lớp
thực hiện việc nói (thuyết trình) có không ít em có thói quen rụt rè, ngại nói sẽ
nói nhỏ và nói ấp a ấp úng, diễn đạt kém. Những lúc này giáo viên có nét mặt
nhăn nhó, khó chịu thì lại càng làm cho các em rụt rè hơn và thậm chí còn hoảng
sợ không nhớ và không trình bày đước vấn đề và lần sau sẽ không dám nữa.Nếu
khi học sinh thuyết trình không nhớ hoặc thiếu vốn từ để diễn đạt giáo viên nhẹ
nhàng gợi mở cho học sinh những câu hỏi gợi ý. Đây là bước quan trọng nhất

trong việc hình thành kỹ năng giao tiếp nói trước đám đông bởi vậy cũng trong
tiết học này giáo viên cần nhẹ nhàng uốn nắn từ cách diễn đạt, cử chỉ, ánh mắt
sao cho các em thấy tự nhiên, thích thú với tiết học. Công việc này không thể
vội vàng mà cần có sự kiên trì của người hướng dẫn là giáo viên và sự nỗ lực
của người thực hiện là học sinh.
Ví dụ: Trong tiết kể chuyện về người thân là mẹ của em, bàn tay đưa lên
ngực khi nói là một cử chỉ biểu hiện sự chân thành yêu quý. Khi kể về việc mẹ
ốm lời nói trần lắng biểu hiện sự lo lắng…
Đồng thời trong bước này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động
nhóm để hỗ trợ lẫn nhau, vừa phát huy tính sáng tạo của học sinh vừa giúp một
số em rụt rè dần quen với việc đứng trước mọi người có cách ứng xử, giao tiếp
trong cuộc sống hàng ngày. Học sinh trò chuyện tranh luận cùng nhau theo nội
dung bài học.
Ví dụ: trong tiết “luyện nói kể chuyện” SGK ngữ văn 6 tập 1 GV có thể
chia lớp thành 4 nhóm, cho các em thời gian 10 phút thảo luận luyện nói cho
14


nhau nghe trong nhóm rồi GV gọi một số em đứng lên kể chuyện. Hoặc giáo
viên có thể hướng dẫn học sinh tạo tình huống với đề bài kể về một việc tốt mà
em đã làm. Với đề bài này tất cả các thành viên trong nhóm cùng tham gia, phát
huy tính sáng tạo và luyện khả năng nói trước đám đông cho một số em rụt rè
khi có sự hỗ trợ của bạn.
Bước 5: Sau mỗi phần lên bảng của học sinh GV cần có thái độ khen,
chê, khi chỉ ra cái các em chưa đạt được cần có cách nói khéo léo để các em thấy
và sửa chữa, trách cách nói chê bai khiến các em mất tự tin và ngại ngùng.
Các giải pháp trên được tôi áp dụng trong giờ dạy trên lớp. Dưới đây là
giáo án minh họa cho một tiết dạy cụ thể
Tiết 29:


LUYỆN NÓI KỂ CHUYỆN

I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Giúp HS:
1. Kiến thức
- Cách trình bày miệng một bài kể chuyện dựa theo dàn bài đã chuẩn bị.
2. Kỹ năng:
- Lập dàn bài kể chuyện dưới hình thức đơn giản, ngắn gọn.
- Cách trình bày miệng một bài kể chuyện theo dàn bài đã chuẩn bị.
- Lựa chọn, trình bày miệng những việc có thể kể chuyện theo một thứ tự
hợp lí, lời kể rõ ràng, mạch lạc, bước đầu biết thể hiện cảm xúc.
- Phân biệt lời người kể chuyện và lời nhân vật trực tiếp.
- Tự tin, chủ động với lời nói khi đứng trước mọi người.
3. Thái độ: Có tình cảm yêu thương đối với mọi người.
II. CHUẨN BỊ:
- Giáo viên: Đọc SGK, SGV, Soạn bài
- Học sinh: Đọc trước bài, trả lời câu hỏi.
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
* HĐ 1: Khởi động
1- Ổn định:
2- Kiểm tra: : Việc chuẩn bị bài ở nhà của HS.
3- Bài mới: Giới thiệu bài mới: Năng lực viết, ngôn ngữ viết cố nhiên là
quan trọng . Song đó là ngôn ngữ trừu tượng, còn ngôn ngữ nói là phương tiện
giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu sống động, có sức truyền cảm. Nắm vững
ngôn ngữ này sẽ làm cho con người có thêm 1 công cụ sắc bén trong cuộc
sống.Tiết học hôm nay các em sẽ tập làm quen với kỹ năng nói trước tập thể.
Hoạt động của GV và HS

Nội dung bài học

15



* HĐ 2:Hướng dẫn:
GV nêu đề bài.
- Nói: Là hình thức giao tiếp tự nhiên
của con người. Kể chuyện bằng ngôn
ngữ nói cũng là hình thức giao tiếp tự
nhiên hàng ngày.
- Khi kể chuyện bằng ngôn ngữ nói, cần
theo các bước nào?
- Hs nêu các bước.
- Hãy lập dàn ý?
( Phần dàn ý từ tiết học trước giáo viên
đã chia lớp thành 4 nhóm, cử nhóm
trưởng, yêu cầu các em về lập dàn ý )
-Các nhóm cử đại diện trình bày dàn ý.
- Gv nhận xét góp ý để các em bổ sung.
a. Tự giới thiệu về bản thân:
MB: Lời chào và lý do kể.
TB: – Sở thích của em là hát, múa…
– Sở đoảng: nấu ăn.
– Môn học yêu thích là môn toán,
ngữ văn.
KB: Lời cảm ơn.
b. Kể về gia đình mình
MB: Lời chào, lý do kể
TB: -Gia đình có những ai? tên? Tuổi?
- Công việc hàng ngày
- Sở thích, nguyện vọng.
KB: Lời cảm ơn.

c. Giới thiệu về người bạn thân mà
em yêu quý.
MB: Lời chào và lý do kể.
TB: – Lý do thích bạn ấy?
– Bạn ấy có những phẩm chất gì?
– Ngoại hình của bạn như thế nào?
– Bạn là người như thế nào đối với

I.ĐỀ BÀI:
a. Tự giới thiệu về bản thân:
b. Hãy kể chuyện về gia đình em.
c. Giới thiệu về người bạn thân mà em
yêu quý.
d. Kể về ngày hoạt động của mình?
II. DÀN BÀI:
- Nội dung:
/ Mở bài: Lời chào, lý do, lời tự giới
thiệu
/ Thân bài: Nội dung chuyện
/ Kết bài: Cảm ơn mọi người đã chú ý
lắng nghe

16


mọi người?
KB: Nhấn mạnh lý do yêu quý bạn ấy
và khẳng định đó là bạn thân của tôi.
d. Kể về ngày hoạt động của mình?
MB: Thời gian diên ra hoạt động đó, tại

sao bạn tham gia vào hoạt động đó?
TB:– Hoạt động đó diễn ra ở đâu.
– Mục đích của bạn khi tham gia
hoạt động này?
KB: Hoạt động đó để lại rất nhiều bài
học quý giá như thế nào?
III. LUYỆN NÓI:
* HĐ 3: LUYỆN NÓI:
* Yêu cầu:
- Nói theo chủ đề một cách tự nhiên,
mạch lạc, liên kết chặt chẽ.
- Có ngữ điệu sống động, có sức truyền
cảm.
- Có sự biểu đạt của tư thế, nét mặt, âm
hưởng.
* Tiến hành:
- Chia tổ luyện nói
- Gv yêu cầu hs luyện nói trong tổ, góp
ý nhận xét cho nhau khoảng 10 phút.
- Chọn một số HS lên nói trước lớp
- HS nghe, nhận xét, thảo luận
- GV uốn nắn, gợi ý sửa chữa.
* HĐ 4: Củng cố, dặn dò:
4. Củng cố: - Đọc bài tham khảo SGK Tr 78,79
- GV nhận xét chung ưu điểm, nhược điểm và hướng khắc phục.
5. HDVN: - Tập kể chuyện về mình
- Đọc “Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự”
- Đọc các bài văn tham khảo.
6. Rút kinh nghiệm: (Những kinh nghiệm được rút sau giờ dạy)
*Thực nghiệm trong hoạt động thực tiễn.(Rèn luyện kỹ năng nói trước

đám đông cho học sinh trong giờ ngoại khóa sáng thứ 2 .)

17


Sau khi học sinh được rèn luyện kỹ năng nói trong giờ ngữ văn thì tôi sử
dụng hoạt động ngoài giờ lên lớp sáng thứ hai hàng tuần để học sinh thực hành
những kỹ năng đã được học nhằm mục đích:
- Rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông cho học sinh ở quy mô lớn là
toàn trường (giáo viên và học sinh) với nhiều chủ đề khác nhau:
Ví dụ: Lòng biết ơn, mục đích học tập, học và làm bài tập ở nhà, ứng xử
văn minh, giao tiếp với người lạ...
- Giáo viên có thể đánh giá được mức độ đạt được theo yêu cầu giờ dạy
đưa ra để từ đó rút kinh nghiệm sửa chữa giúp hoàn thiện các giải pháp của
mình.
Khi tiến hành thử nghiệm tôi đặt ra yêu cầu đánh giá học sinh ở các mặt
sau:
+ Nói
+ Đặt câu hỏi.
+ Xử lí tình huống.
+ Cách trả lời.
Hoạt động rèn kỹ năng sống sáng thứ 2 hàng tuần của trường tôi được
thực hiện lần lượt ở tất cả các lớp. Học sinh trong lớp có 1 tuần chuẩn bị rồi giao
cho một bạn hoặc một nhóm bạn lên trước toàn trường thực hiện sinh hoạt kỹ
năng sống. Buổi sinh hoạt sẽ nhằm mục đích cung cấp kiến thức về các vấn đề
liên quan đến cuộc sống hằng ngày của các em, thực hành luyện tập cho các em
trong việc thuyết trình và xử lí các tình huống qua câu hỏi giao lưu với các bạn
học sinh trong toàn trường. Ta xem đó như một hoạt động ngoại khóa rèn cho
các em khả năng nhận thức trách nhiệm của công dân đối với gia đình và xã hội,
biết yêu thương, tương thân, tương ái, có ý thức rèn luyện sức khỏe, có kĩ năng

phòng chống các tệ nạn xã hội, các tai nạn, có kỹ năng nhận thức xử lí các tình
huống nếu mình gặp phải. Có thể nói đây là một hoạt động lớn có tác động lớn
trong việc góp phần bồi dưỡng tư tưởng lối sống lành mạnh vươn tới những ước
mơ của mình.
Ví dụ: Với chủ đề “cách góp ý phê bình bạn” Học sinh có những cách
trình bày khác nhau mang tính sáng tạo nhưng phải đáp ứng yêu cầu: cung cấp
kiến thức, trình bày kỹ năng xử lí tình huống của mình. Học sinh có thể đặt các
câu hỏi như:
? Bạn đã bao giờ phê bình người khác chưa? Phê bình về vấn đề gì?
? Đã ai phê bình bạn chưa? Lúc đó bạn cảm thấy thế nào?
Từ các câu hỏi đó học sinh có thể hỏi các bạn trong toàn trường sau đó
đưa ý kiến của bạn thân mình để tìm ra cách ứng xử tốt nhất.

18


Đối với các em lớp 6, rèn luyện nói trong lớp đã khó nay lại nói trước
toàn trường thì đó quả là điều khó khăn với các em. Bởi vậy tôi luôn sát sao
đồng hành cùng các em trong các hoạt động đó nhằm giúp các em có kỹ năng tự
tin trước đám đông trình bày suy nghĩ của riêng mình. Hoạt động ngoài giờ vào
sáng thứ 2 là thiết thực, giúp tôi đánh giá đúng kết quả rèn luyện trong các tiết
dạy văn. Từ đó, tôi có thể bổ sung các giải pháp giúp hình thành kỹ năng sống
cho các em tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng đối với học sinh lớp 6 tại
trường THCS Nga Mỹ năm học 2015 -2016, với những cố gắng của tôi trong việc
rèn kỹ năng nói cho học sinh đã có những hiệu quả nhất định. Học sinh tham gia
phát biểu sôi nổi, có chiều hướng ham thích học môn văn hơn. Học sinh có tinh
thần tập thể cao, có tinh thần tự giác, ý thức được việc học tập. Đặc biệt các em đã
tự tin đứng lên trình bày những suy nghĩ, những khúc mắc của bài học ngay

trong tiết dạy một cách rõ ràng, rành mạch. Hơn thế nữa các em tiếp nhận giờ
học một cách vui vẻ, sôi nổi xây dựng bài, một số em học lực trung bình yếu đã
nói to, rõ ràng và có hứng thú với giờ học.Với biện pháp thực hiện trên giúp học
sinh mạnh dạn hơn khi nói trước đám đông, có thói quen tốt trong việc học. Và
cũng giúp cho những em học yếu, lười không còn ỷ lại trông chờ vào những erm
học khá. Từ em khá đến em yếu đều có thể nói được trước lớp, trước toàn trường.
Kết quả cụ thể như sau:
Lớp

6


số
35

Nói tốt
SL
20

%
57.1

Nói ấp úng
SL
10

%
28.6

Nói chưa được

SL
5

%
14.3

Qua bảng số liệu có thể thấy kết quả khả quan của việc áp dụng các giải
pháp trong giờ học ngữ văn. Số lượng học sinh nói tốt tăng, gấp 2 lần so với
học sinh nói ấp úng và gấp 4 lần học sinh nói chưa được. Số lượng học sinh nói
chưa được giảm nhiều (từ 51.5% còn 14.3%).
Kết quả trên cũng đã khẳng định ý thức cố gắng học tập, khả năng tiếp thu
của các em đồng thời cũng khẳng định một phần tác dụng của sáng kiến mà tôi
đã đưa ra và áp dụng. Tôi hi vọng sẽ tạo được bước chuyển biến cao hơn về khả
năng nói của các em, tạo nền móng vững chắc cho các em khi tham gia vào hoạt
động xã hội.

19


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận:
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn về mục tiêu giáo dục: rèn kỹ năng sống cho
học sinh qua mỗi bài học và đổi mới phương pháp trong việc dạy học là nhằm
mục đích phát huy tính tích cực, sáng tạo, lấy học sinh làm trọng tâm, việc vận
dụng phương pháp thật hợp lý vào trong giảng dạy là việc rất cần thiết. Qua
việc nghiên cứu tài liệu cũng như những hiểu biết từ thực tế giảng dạy ở trường
trung học cơ sở tôi nhận thấy đề tài này rất cần thiết và thực tiễn nó giúp cho
người giáo viên có thể nhanh chóng đưa học sinh tiếp cận bài học đồng thời rèn
luyện được khả năng giao tiếp, giúp các em tự tin, tự chủ trong đời sống xã hội .
Mặt khác việc sử dụng những giải pháp để rèn kỹ năng nói trước đám

đông cho học sinh chính là đang đáp ứng yêu cầu của thời đại: giáo dục đào tạo
ra những con người có sự phát triển toàn diện năng động, sáng tạo, tự chủ trong
xã hội .
Những vấn đề mà tôi nêu trên chỉ là sự nghiên cứu tìm tòi riêng của bản
thân trong quá trình dạy học. điều này sẽ không tránh khỏi những sai sót hạn
chế, rất mong sự đóng góp ý kiến của mọi người để đề tài hoàn chỉnh hơn .
3.2 Kiến nghị:
Tóm lại, dạy văn là một công việc đòi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và sáng
tạo. Do vậy người dạy văn phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng một cách linh
hoạt các phương pháp dạy học mới để việc tổ chức các hoạt động dạy học trở nên
phong phú, đa dạng và có chiều sâu. Dạy học không chỉ đơn thuần là việc truyền
đạt kiến thức mà phải là sự rèn luyện hình thành các kỹ năng cho học sinh.Từ
sáng kiến của mình tôi rất mong muốn Phòng giáo dục cũng như nhà trường sẽ
20


tạo ra nhiều hoạt động ngoài giờ giúp các em học mà chơi, chơi mà học nhằm
trang bị cho các em các kỹ năng sống. Có như vậy mới đáp ứng yêu cầu xã hội
về con người phát triển toàn diện.
Xác nhận của hiệu trưởng
Nga Mỹ ngày 25 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình, không
sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Mai Thị Nhớ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy học văn bản Ngữ văn THCS theo đặc trưng phương thức biểu đạt
Tác giả: Trần Đình Chung

2. Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 6,7, 8, 9.
3. Dạy học Ngữ văn 6 – Tác giả: Trần Đình Chung
4. Bình giảng văn 6 – Tác giả:Vũ Dương Quý- Lê Bảo.
5. Thiết kế bài học Ngữ văn 6 theo hướng tích hợpTác giả: Hoàng Hữu Bội.
6. Báo giáo dục và thời đại
7. Văn học và tuổi trẻ của nhà xuất bản giáo dục.
(Tạp chí hàng tháng)
8. Đại từ điển Tiếng Việt- Tác giả: Nguyễn Như Ý
9.Một số bài giảng của các đồng nghiệp.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Nhớ
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Nga Mỹ, huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
( Phòng, Sở,
Tỉnh)
PGD


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B hoặc
C)
B

1

Một số phương pháp áp dụng
trong giờ dạy tiếng Việt

2

3

Năm học
đánh giá
xếp loại
2008-2009

Sử dụng phương pháp phân tích
ngôn ngữ trong giờ dạy tiếng
Việt

PGD

C

2009-2010


Một số biện pháp khắc phục lỗi
chính tả học sinh thường mắc
khi làm bài tập làm văn

PGD

B

2011-2012

22


4

Rèn luyện kỹ năng làm văn biểu
cảm cho học sinh lớp 7

PGD

A

2012-2013

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
5

PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN


Rèn tính tự chủ cho học sinh lớp
9 qua giờ học giáo dục công dân
ở trường THCS Nga Mỹ

PGD

B

2015-2016

PHỤ LỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI TRƯỚC ĐÁM ĐÔNG QUA
GIỜ DẠY NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP 6 TRƯỜNG
THCS NGA MỸ

Người thực hiện: Mai Thị Nhớ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Mỹ
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2017

23


Phụ lục 1:
Một số hình ảnh hoạt động luyện nói của học sinh lớp 6 trường THCS
Nga Mỹ trong giờ ngữ văn


GV hướng dẫn các em luyện đọc

24


Gv hướng dẫn các em đọc phân vai

25


×