Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý nhằm phát huy tính tích cực của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.83 KB, 20 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Tại bất kì đất nước nào, những đổi mới ở giáo dục phổ thông mang tính
cải cách giáo dục đều bắt đầu từ việc xem xét, điều chỉnh mục tiêu giáo dục với
những kì vọng mới về mẫu người học sinh có được sau quá trình giáo dục. Tiếp
theo mục tiêu giáo dục là việc xem xét để xác định những thay đổi cần thiết,
thậm chí xây dựng lại những nội dung và cách thức giáo dục. Đó chính là các
vấn đề về cải cách chương trình và quá trình giáo dục. Bên cạnh những đổi mới
khá triệt để về nội dung giáo dục, những nỗ lực tích cực về đổi mới quá trình
giáo dục đã được thúc đẩy, đặc biệt là những đổi mới về phương pháp dạy học
trong nhà trường. Tinh thần đổi mới phương pháp dạy học là biến quá trình dạy
học thành quá trình tự học, tự khám phá và xây dựng kiến thức của một người
học với vai trò dẫn dắt khéo léo không thể thiếu được của người giáo viên.
Trong những năm qua những thay đổi trong cách dạy học của người giáo
viên ở nước ta vẫn diễn ra chậm chạp với nhiều khó khăn. Nhiều nước Châu Á
và nhiều nước đang phát triển đều có chung tình trạng như vậy. Có một lí do là
các giáo viên sẽ rất khó thay đổi cách dạy học đã trở thành thói quen của họ nếu
họ không thực sự hiểu được các vấn đề: Tại sao cần phải đổi mới phương pháp
dạy học và phải đổi mới theo cách nào… Cho đến nay ở một số giáo viên sự
chuyển biến về phương pháp dạy học chưa được là bao chủ yếu vẫn là thông báo
kiến thức định sẵn, vẫn là ‘‘Thầy đọc – trò chép’’, giáo viên quyết định toàn bộ
quá trình dạy học. Học sinh thụ động tiếp thu, ghi nhớ, nhắc lại, dập khuôn. Lối
dạy đó có thể làm cho học sinh có thể bắt chước, có thể đạt kết quả cao trong các
kì thi kiểm tra kiến thức, nhưng lại tỏ ra yếu kém khi phải hoạt động sáng tạo,
thực hành, giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn.
Nếu cứ tiếp tục dạy và học thụ động như thế, giáo dục không thể đáp ứng
được yêu cầu mới của xã hội, Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước, sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu đã và đang đòi hỏi đất nước chúng ta
cần phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản chính là về phương
pháp dạy học.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của BCH trung ương khóa VIII về những


giải pháp trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ : ‘‘Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho HS’’.
‘‘Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích tực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; Tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh ’’ là định
hướng đổi mới PPDH, được khẳng định trong nghị quyết của BCH Trung ương
Đảng lần thứ 4 khóa VII, trong nghị quyết của BCH Trung ương Đảng lần 2
khóa VIII và được pháp chế hóa trong điều 24.2 của luật giáo dục.
1


Khác với các bộ môn khoa học khác, Vật Lí là bộ môn khoa học thực
nghiệm. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là nghiên cứu các hiện tượng vật lí, tìm
nguyên nhân, khám phá ra các định luật vật lí phục vụ lợi ích của con người, gắn
liền với đời sống của con người. Vật lí là cơ sở cho nhiều ngành kĩ thuật. Những
thành tựu của vật lí và kĩ thuật phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người
về mọi mặt.
Mục đích của việc Dạy - học Vật Lí không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ
cho học sinh những kiến thức, kĩ năng Vật Lí mà loài người đã tích lũy được, mà
còn đặc biệt quan tâm đến việc làm cho ‘ Học vật lí ’ là quá trình kiến tạo, học
sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai tác và xử lí thông tin, tự hình
thành tri thức, có năng lực và phẩm chất của con người mới tự tin, năng động và
sáng tạo trong cuộc sống. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, dạy học
sinh cách tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng lực (Tự học, sáng tạo,
hợp tác) dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để
đáp ứng những ưu cầu của cuộc sống hiện đại và tương lai. Những điều đã học

cần thiết, bổ ích cho bản thân học sinh và cho sự phát triển xã hội việc bồi
dưỡng cho học sinh năng lực suy nghĩ độc lập, không dập khuôn, phát triển năng
lực sáng tạo, năng lực hành động thực tiễn để tạo ra những kiến thức mới,
phương pháp mới, những năng lực giải quyết vấn đề mới nhạy bén, hiệu quả,
thiết thực và phù hợp với hiệu quả thực tế.
Muốn đạt được mục đích này trong dạy học Vật Lí thì việc dạy học vật lí
phải được tiến hành thông qua các hoạt động của học sinh. Muốn đổi mới cách
học thì phải đổi mới cách dạy, đổi mới cách dạy chính là đổi mới phương pháp.
Vì vậy trong đổi mới phương pháp giáo dục thì phát triển trí tuệ và năng lực
sáng tạo của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Để có hiệu quả cao trong giảng dạy
thì người giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu sử dụng những thành quả của
những môn khoa học có liên quan, cần phải tiếp thu những thành tựu tiên tiến,
những kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới. Để góp
phần giải quyết những vấn đề trên tôi đã mạnh dạn sưu tầm, nghiên cứu các tài
liệu về đổi mới các phương pháp dạy học, các phương pháp dạy học tích cực nói
chung và phương pháp dạy học bộ môn vật lý nới riêng kết hợp với quá trình
giảng dạy, sự giúp đỡ của đồng nghiệp để viết thành đề tài này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đối với môn khoa học thực nghiệm như vật lí, có thể nói : ‘’Trăm nghe
không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm’’ Nếu không có sự trải
nghiệm nhất định trong thực tế thì sự lĩnh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền
chặt được. Hơn nữa sự hiểu biết thế giười Vật lí không thể đạt được đơn thuần
bằng logic. Chỉ có những quan sát và tiến hành bằng thực nghiệm mới cho phép
kiểm tra được sự đúng đắn của một nhận định về thế giới. Vì vậy yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học đối với môn Vật lí còn có một sắc thái riêng, phải
hướng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt
động thực nghiệm và cao hơn nữa, cho học sinh tập dượt giải quyết một số vấn
đề vật lí trong thực tế. Bởi vậy Đề tài này tôi đã tìm và chọn lọc ra một số
2



phương pháp dạy học tích cực cơ bản, phù hợp đặc trưng của bộ môn Vật Lí
THCS, trong đó có sự kết hợp với các phương pháp dạy học khác, thông qua đó
giúp bản thân tôi có cơ sở và định hướng tốt hơn, vững chắc hơn trong qua trình
tham gia giảng dạy bộ môn vật lí. Tôi nghĩ nếu áp dụng đê tài này thường xuyên
ngoài việc phát huy tính tích cực của người dạy còn tạo cho người học, cụ thể là
học sinh THCS có thói quen học tập tích cực, chủ động sáng tạo trong hoạt
động nhận thức, tạo cho các em hứng thú hơn khi học vật lí và giúp các em bước
đầu làm quen với bộ môn vật lí thực nghiệm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Áp dụng đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh khối THCS.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
+ Tham khảo các tài liệu có liên quan.
+ Rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy của bản thân.
+ Sưu tầm, tra cứu, học hỏi từ đồng nghiệp.
+ Vận dụng một số phương pháp chung của bộ môn, từ đó đưa ra một số
biện pháp cụ thể đã áp dụng được trong thực tế giảng dạy và đạt hiệu quả.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo của đất nước hiện nay : Phải
đào tạo ra thế hệ trẻ trở thành người lao động làm chủ đất nước, có trình độ văn
hóa cơ bản, đáp ứng những nhu cầu kinh tế xã hội. Những con người có trí tuệ,
có năng lực sáng tạo cũng như có phẩm chất, tư tưởng đạo đức tốt.
Xuất phát từ nội dung, bản chất của quá trình dạy học, hoạt động nhận
thức: Ý thức, năng lực của con người được biểu hiện, hình thành trong chính hoạt
động của con người. Việc dạy học không chỉ quan tâm đến nhiệm vụ làm cho học
sinh tiếp thu được một số kiến thức nào đó mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ
phát triển trí tuệ ở học sinh cũng như năng lực áp dụng kiến thức trong những tình
huống mới.

Thực tế giáo dục hiện nay cũng như xu thế giáo dục của thế giới trong
thời đại mới cho thấy việc phấn đấu cho học sinh tự tìm tòi, tự hiểu biết để phát
triển, khai thác, hưởng thụ những thành quả lao động mà bản thân mình có được
là điều cần thiết, chính vì vậy đổi mới phương pháp là vấn đề cấp bách của thời
đại mới, nó là sự sống của giáo dục Việt Nam trên con đường hội nhập, sánh vai
với các cường quốc. Năng lực sáng tạo đó phải được đào tạo, rèn luyện thành
thói quen, phải được hình thành từ nhà trường phổ thông cũng như từ các bộ
môn khoa học tự nhiên cụ thể là bộ môn vật lí, một bộ môn khoa học thực
nghiệm, nó là cơ sở cho nhiều ngành kỹ thuật, các máy móc được chế tạo dựa
trên các thành tựu vật lí như : Động cơ ô tô, máy bay được chế tạo dựa vào kiến
thức về nhiệt… Động cơ điện, vô tuyến, truyền hình…được chế tạo dựa trên các
kiến thức về điện… Những thành tựu của vật lí và kỹ thuật phục vụ rất nhiều
cho cuộc sống của con người về mọi mặt. Chính vì vậy đổi mới phương pháp
trong dạy học vật lí không thể thiếu được.
3


Trên tinh thần đổi mới giáo dục theo hướng tích cực hiện nay việc dạy
học các bộ môn khoa học nói chung cũng như bộ môn Vật Lí nói riêng. Tính ưu
việt của phương pháp dạy học đã được thừa nhận và được đông đảo cán bộ giáo
viên đồng tình, nhiệt liệt hưởng ứng.
Đề tài này đã đưa ra một số phương pháp dạy học cơ bản phù hợp với đặc
trưng của bộ môn vật lí ở cấp THCS, qua đó đóng góp một phần nào đó cho việc
đổi mới phương pháp dạy học bộ môn vật lí nói riêng trong tình hình giáo dục
chung của đất nước ta hiện nay. Nhằm tạo cho giáo viên có định hướng tốt hơn,
vững vàng hơn, tự tin hơn trong việc soạn bài và giảng dạy đưa chất lượng giờ
dạy được nâng cao hơn, có hiệu quả hơn, phát huy tính tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh, giúp học sinh hiểu bản chất vấn đề và ghi nhớ lâu, chính xác.
Học sinh biết tiến hành thí nghiệm, áp dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề
vật lí đơn giản, nhờ đó các em thêm yêu thích môn học vật lí.

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong thực tế cách dạy học truyền thống vẫn còn ăn sâu vào tiềm thức của
một số thế hệ giáo viên, do tính bảo thủ, trình độ chuyên môn còn hạn chế, khả
năng thích ứng kém. Đối với một số giáo viên đã có ý thức vận dụng phương
pháp dạy học tích cực nhưng kết quả chưa được như mong đợi, chưa đáp ứng
được tinh thần thực sự ‘‘đổi mới’’. Nguyên nhân của tình trạng trên được thể
hiện ở một số điểm cơ bản như sau:
- Không ít bộ phận giáo viên chỉ chăm lo cung cấp cho học sinh những kiến
thức cần thiết để các em làm bài điểm cao mà không chú ý đến việc rèn luyện trí
thông minh, sáng tạo của học sinh. Điều này nguy hại là sau khi học xong các
hiện tượng vật lí, các định luật về vật lí một số học sinh lại không biết vận dụng
các hiện tượng, định luật nào đó để giải thích một số hiện tượng khoa học tự
nhiên, không chỉ ra được ứng dụng rộng rãi của nó trong khoa học kĩ thuật. Giáo
viên chưa áp dụng hợp lí còn máy móc không cải biến đối với các loại bài dạy,
phần dạy. Trong phương pháp cụ thể nào đó giáo viên chưa xác định chính xác
các bước đi, chưa tận dụng triệt để đồ dùng dạy học, đồ dùng thí nghiệm.
- Trong quá trình dạy giáo viên chưa thực sự là người điều khiển dẫn dắt
học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức. Do vậy học sinh chưa được và chưa có thói
quen phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, phát triển tư duy mới.
- Giáo viên phải chuẩn bị và tiến hành TN trước khi tiến hành TN đó trên
lớp, vì thế tốn khá nhiều thời gian và công sức. Điều này chưa được tính đến
thỏa đáng đối với sức lao động của các giáo viên môn vật lí, nhất là hiện nay ở
nhiều trường chưa có phòng TN cũng như cán bộ phụ trách phòng TN vật lí,
không phải trường nào cũng đáp ứng được yêu cầu này.
- Từ thực tiễn của đất nước ta cho thấy còn có những vùng điều kiện kinh
tế khó khăn, bó hẹp, tập quán lạc hậu, trang thiết bị chưa đạt chuẩn, cơ sở vật chất
phục vụ quá trình giảng dạy rất hạn chế, không phát huy được tối đa những ưu
điểm của phương pháp dạy học mới, dạy học tích cực. Cũng như không phải mọi
học sinh đều sẵn sàng tham gia vào các hoạt động học tập mà giáo viên đề ra.
4



- Hiện nay nhiều trường chưa có phòng bộ môn để tổ chức các giờ học vật
lí tại đó. Nghĩa là tới giờ học vật lí học sinh của lớp nào thì học sinh lớp đó đến
phòng này để học, như vậy tránh được việc di chuyển thiết bị Tn từ phòng học
này sang phòng học khác. Tránh việc mất thời gian lắp ráp lại các dụng cụ TN, có
điều kiện bảo quản các thiết bị TN tốt hơn, thời gian sử dụng được lâu dài hơn.
- Ngoài ra ở một số trường hợp giáo viên quá thiên về phương pháp dạy
học theo hướng tích cực, chưa thực sự hiểu rõ bản chất của phương pháp này để
đưa vào áp dụng dạy học có thể làm ảnh hưởng thiên lệch trong tâm lí của trẻ,
chẳng hạn : phủ nhận vai trò của môi trường, hoặc do quá đề cao vai trò người
học có thể dẫn đến coi nhẹ vai trò của người dạy và học sinh có thể tự mãn.
Kết quả của sự dạy và học đó làm cho giáo viên không có thói quen và kĩ
năng trong phương pháp dạy học tích cực còn học sinh học tập chưa trở thành
chủ thể của việc tiếp nhận kiến thức mới.
Trên thực tế khi chưa áp dụng đề tài này vào giảng dạy bộ môn vật lí ở
các khối lớp tại đơn vị trường THCS Quảng Định tôi nhận thấy rằng học sinh
tiếp nhận kiến thức rất thụ động, máy móc, không được phát triển về tư duy tích
cực chủ động sáng tạo. Học sinh có thể nhớ và thuộc kiến thức nhưng không
hiểu sâu bản chất của kiến thức, vận dụng kiến thức không linh hoạt nhạy bén,
khả năng thực hành các thí nghiệm vật lí của các em chưa cao..
Kết quả mà bản thân tôi đã trực tiếp khảo sát, nắm bắt chất lượng cụ thể, điển
hình ở khối 8 và khối 9 năm học 2014 – 2015 như sau:
Học lực
8A
8B
9A
9B
Giỏi
3%

4%
3%
5%
Khá
20%
27%
29%
31%
Trung bình 67%
60%
61%
58%
Yếu
10%
9%
7%
6%
Chính vì vậy phương pháp dạy học có quan hệ mật thiết với nội dung và
kết quả dạy học. Có phương pháp phù hợp với nội dung bài học chắc chắn kết
quả dạy học sẽ cao hơn rất nhiều so với các phương pháp truyền thống.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trước những thực trạng đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp dạy
học tích cực áp dụng trong dạy học vật lí cấp THCS nhằm khắc phục những hạn
chế nêu trên. Trong từng phương pháp tôi có trình bày nội dung, cách thực hiện
và ví dụ minh họa cho từng phương pháp đó.
2.3.1. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC KẾT HỢP HÀI HÒA HỌC TẬP CÁ
NHÂN VỚI VIỆC HỌC TẬP HỢP TÁC THEO NHÓM
1. Bản chất:
Dạy học theo nhóm là một hình thức xã hội của hoạt động dạy học, lớp
học được chia thành nhiều nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn. Tùy mục

đích yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có
chủ định, được duy trì ổn định hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học, được
giao cùng nhiệm vụ hoặc nhiệm vụ khác nhau.
5


Số lượng HS trong mỗi nhóm thường từ 6 đến 8 học sinh, các nhóm tự
bầu ra nhóm trưởng. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc,
như : Người lắp ráp thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thư kí ghi kết quả, báo cáo
kết quả…. Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một
nhiệm vụ khác nhau, là các phần của một chủ đề chung.
Trong nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không được ỷ lại
một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ
nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả
làm việc chung của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả
lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra
một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ
của nhóm khá phức tạp.
2. Quy trình thực hiện
Có thể chia làm 3 giai đoạn cơ bản
a. Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm (bao gồm những hoạt động chính sau) :
- Giới thiệu chủ đề chung, nhiệm vụ chung, những chỉ dẫn cần thiết, thông
qua thuyết trình, đàm thoại hay làm mẫu.
- Xác định nhiệm vụ của các nhóm: Giải thích nhiệm vụ cụ thể của mỗi
nhóm, đề ra các mục tiêu cụ thể mà nhóm cần đạt được.
- Tổ chức phân chia thành các nhóm và bố trí địa điểm làm việc cho từng
nhóm. Có nhiều cách phân chia nhóm như: Chia thành các nhóm gồm cả học
sinh khá và học sinh yếu kém để các em hỗ trợ nhau hoặc chia thành các nhóm
gồm những học sinh có cùng năng lực... tạo cơ hội để mỗi học sinh được trao
đổi, học tập với nhiều học sinh trong lớp.

b. Làm việc theo nhóm:
- Nhóm trưởng phân công trong nhóm, sắp xếp chỗ làm việc cho các
thành viên trong nhóm.
- Thảo luận kế hoạch làm việc của nhóm: Chuẩn bị tài liệu học tập, đọc tài
liệu, nhóm trưởng điều hành các thành viên trao đổi để đảm bảo mọi người trong
nhóm đã năm vững các yêu cầu nhiệm vụ được giao, phân công công việc cho các
thành viên trong nhóm, lập kế hoạch thời gian tiến hành công việc của nhóm.
- Tiến hành thực hiện nhiệm vụ
- Chuẩn bị báo cáo kết quả làm việc của nhóm trước lớp.
c. Trình bày kết quả làm việc của các nhóm và đánh giá kết quả chung.
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
- Thảo luận chung cả lớp.
- Giáo viên tổng kết, nhận xét buổi làm việc.
d. Ví dụ về phương pháp theo nhóm nhỏ trong bài:
Tiết 14: bài 11: Thực hành: Nghiệm lại lực đẩy Acsimet (Vật lí 8)
* Chuẩn bị dụng cụ thực hành cho mỗi nhóm:
* (Theo yêu cầu bài thực hành)
* Nội dung thực hành
- Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm:
6


+ Chia nhóm học tập, cử nhóm trưởng và thư kí các nhóm.
+ Mỗi nhóm được cung cấp một bộ dụng cụ thí nghiệm ( nhóm trưởng các
nhóm nhận dụng cụ thí nghiệm ).
- Làm việc theo nhóm: Nhóm trưởng điều hành các thành viên trong
nhóm tiến hành các công việc được giao:
+ Câu hỏi 1: Viết công thức tính độ lớn lực đẩy Acsimet ?
Trả lời: Công thức tính độ lớn lực đẩy Acsimet FA = d.V
Trong đó: d là trọng lượng riêng của chất lỏng

V là thể tích phần chất lỏng bị vật chiếm chỗ.
+ Câu hỏi 2: Vậy độ lớn của lực đẩy Acsimet bằn trọng lượng phần nước
bị vật chiếm chỗ. Muốn kiểm chứng độ lớn này cần phải đo đại lượng nào?
Trả lời: Ta phải đo độ lớn của FA và trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ.
+ Câu hỏi 3: Ta phải đo các đại lượng đó như thế nào?
Trả lời : Nhóm thảo luận về phương pháp đo.
- Tiến hành thí nghiệm:
Giáo viên giao nhiệm vụ và hướng dẫn cách làm việc trong nhóm bằng
phiếu học tập sau :
Phiếu học tập
1. Đo lực đẩy FA
a. Đo trọng lượng P của vật trong không khí.
b. Đo hợp lực F của các lực tác dụng lên vật khi vật chìm trong nước.
c. FA=…………………………………
2. Đo trọng lượng của phần nước có thể tích bằng thể tích của vật.
a. Đo thể tích vật nặng, cũng chính là thể tích của phần nước bị vật chiếm
chỗ.
- Đánh dấu mực nước trong bình khi chưa nhúng vật – vạch 1 (V1)
- Đánh dấu mực nước trong bình khi nhúng vật – vạch 2 (V1)
- Thể tích của vật V= ……………………………..
b. Đo trọng lượng của nước có thể tích bằng thể tích của vật
- Dùng lực kế đo trọng lượng của bình khi nước ở vạch 1,
P1= ………………………..
- Đổ thêm nước vào bình đến mức 2. Đo trọng lượng của bình khi nước ở
vạch 2, P2=…………………..
- Trọng lượng phần nước bị vật chiếm chỗ PN= ……………………………
Học sinh làm việc theo nhóm và điền kết quả vào mẫu báo cáo thực hành :
Mẫu báo cáo thực hành:
Nghiệm lại lực đẩy Acsimet ( Nhóm …………..)
1. Kết quả đo FA

Lần đo
P(N)
F(N)
FA = P –
(N)1
2
3
7


... +... +...
= ………………
3
2. Kết quả đo trọng lượng phần nước có thể tích bằng thể tích của vật
Lần đo
P1(N)
P2(N)
PN= P1 – P2(N)
1
2
3

Kết quả trung bình FA=

... +... +...
= ………………
3
3. Nhận xét kết quả đo và rút ra kết luận:

Kết quả trung bình P=


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………….………………
Giáo viên yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả và thảo luận chung đi đến thống
nhất, tổng kết.
3. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp:
- Ưu điểm:
+ Phát huy tính tích cực, tự lực và tinh thần trách nhiệm của học sinh. Dạy
học theo nhóm hỗ trợ tư duy, tình cảm và hành động độc lập, sáng tạo của học sinh.
+ Phát triển năng lực cộng tác làm việc
+ Phát triển năng lực giao tiếp.
+ Hỗ trợ quá trình học tập mang tính xã hội.
+ Tăng cường sự tự tin cho học sinh.
+ Phát triển ở học sinh năng lực về phương pháp làm việc tập thể.
+ Cải thiện kết quả học tập của học sinh về phương diện tiến hành thí nghiệm.
Thành công của phương pháp này phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia
của các thành viên trong nhóm, cho nên để thành công ở phương pháp này giáo
viên cần :
+ Cách đưa vấn đề phải làm cho các thành viên trong nhóm hứng thú và
muốn giải quyết.
+ Tổ chức và quản lí tốt quá trình làm việc của học sinh.
+ Tùy thuộc vào điều kiện lớp học, trình độ học sinh mà giáo viên có
những yêu cầu ở các mức độ khác nhau.
+ Công việc được giao phải có nội dung rõ ràng, học sinh phải hiểu được
nhiệm vụ được giao. Trong hoạt động nhóm cần chú ý đến tư duy tích cực và
năng lực làm việc hợp tác giữa các thành viên.
+ Giáo viên tôn trọng ý kiến, kết quả của các nhóm, khuyến khích cho học
sinh các nhóm tự báo cáo, đánh giá và nhận xét kết quả.
- Nhược điểm:

+ Dạy học theo nhóm đòi hỏi nhiều thời gian. Phương pháp này bị hạn
chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, cách bố trí bàn ghế bởi thời gian hạn
8


định của tiết học, tùy từng bài hay nội dung mà có hay không áp dụng phương
pháp này. Trong mỗi tiết học vật lí chỉ nên có từ 1 đến 3 hoạt động nhóm, mối
hoạt động từ 5-10 phút.
+ Làm việc theo nhóm không phải lúc nào cũng mang lại kết quả như
mong muốn. Nếu tổ chức và thực hiện kém sẽ dẫn đến kết quả ngược lại với
mong muốn cần đạt. Thực tế cho thấy có khuynh hướng hình thức lạm dụng, cho
rằng hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu của phương pháp dạy học tích cực ;
hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. Do
đó không nên lạm dụng phương pháp này mà cần phối hợp thêm với các phương
pháp khác.
+ Nếu các nhóm chưa được luyện tập cách thức làm việc thường dễ gây ra
tình trạng hỗn loạn.
4. Một số lưu ý:
+ Để phương pháp học tập theo nhóm được thực hiện có kết quả tốt giáo
viên phải nắm vững phương pháp, phải có năng lực lập kế hoạch. Giáo viên cần
phải suy nghĩ trước xem các cách hướng dẫn các nhóm để các nhóm làm việc có
hiệu quả. Ngoài ra khi lập kế hoạch giáo viên cần xác định các yêu cầu cho mỗi
nhóm thật rõ ràng, phù hợp với khả năng và trình độ của các nhóm.
+ Học sinh phải có sự hiểu biết về phương pháp này và được luyện tập
thường xuyên để nắm vững các kĩ thuật làm việc cơ bản.
2.3.2. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾT BÀI TẬP VẬT LÝ.
1. Bản chất.
+ Lựa chọn và hướng dẫn học sinh giải một số bài tập nhằm rèn luyện khả
năng vận dụng tổng hợp các kiến thức, kĩ năng một các tích cực, tự lực và sáng tạo.
+ Bài tập vật lí là một câu hỏi hoặc một vấn đề học tập được đặt ra cho

học sinh tìm câu trả lời, lời giải, trên cơ sở vận dụng các kiến thức, kĩ năng vật
lí, tiến hành các suy luận lôgic hoặc toán học.
2. Quy trình thực hiện.
- Trong tiết học trước đó, đề nghị học sinh ôn tập các kiến thức và kĩ năng
cần vận dụng để giải quyết các bài tập mà giáo viên sẽ đề ra trong tiết bài tập.
- Giáo viên lựa chọn các bài tập khác nhau để yêu cầu học sinh giải trong
tiết BT. Trong đó bao gồm:
+ Các BT từ đơn giản đến phức tạp.
+ Các BT định tính, các BT tính toán, các BT trắc nghiệm về các vấn đề lí
thuyết (mức độ biết và hiểu) và các BT tự luận (thường là các BT tính toán).
+ Các BT có nhiều cách giải khác nhau.
+ Các BT để ra thêm cho các HS khá và giỏi, trong khi chờ đợi các HS
khác chưa giải xong BT mà GV ra chung cho cả lớp.
- Phần đầu của tiết BT, khoảng 15 phút, GV đề nghị HS cả lớp giải
khoảng 10 câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Sau khoảng 10 phút, GV đề nghị 10
HS khác nhau, mỗi HS này cho biết lời giải một câu và nêu lí do tại sao lại chọn
đáp án đó. Trong các trường hợp cần thiết, GV đề nghị các HS khác nhận xét lời
giải và lí do chọn đáp án của HS được chỉ định.
9


- Tiếp theo GV đề nghị HS cả lớp giải khoảng 2 câu BT tự luận, mỗi bài
trong khoảng 10 phút. Tùy theo khả năng và trình độ của HS mà GV lựa chọn và
để ra các BT nên ở mức độ phức tạp như thế nào, sao cho phù hợp và có tác
dụng phát triển ở HS năng lực vận dụng kiến thức và kĩ năng một cách tích cực
và sáng tạo trong việc giải các BT này.
- GV để cho từng HS tự lực giả mỗi BT tự luận trong khoảng 10 phút. Sau
đó đề nghị một số HS trình bày cách giải và nêu đáp số trước lớp và đề nghị các
HS khác nhận xét cách giả của HS này, cũng như nêu cách giải khác (nếu có).
- Đối với các HS khá, giỏi giải mỗi BT xong trước các bạn khác, GV có

thể đề nghị tìm cách giải khác hoặc giải một BT khác có phần phức tạp hơn mà
GV đã chuẩn bị.
Cuối mỗi bài, GV tổng kết và nêu cách giải hợp lí và ngắn gọn nhất , cũng
như đáp số đúng của BT đó.
Ví dụ minh họa: Dạy học trích đoạn :
Tiết 7: Bài 6: Giải bài tập về vận dụng Định luật ôm (SGK vật lí 9) theo
phương pháp giải BT vật lí.
- Cuối tiết học trước đó giáo viên đề nghị học sinh ôn tập các kiến thức và
kĩ năng cần vận dụng để giải các bài tập về :
+ Định luật ôm đối với đoạn mạch gồm các điện trở mắc nối tiếp, mắc
song song.
+ Các công thức tính cường độ dòng điện, hiệu điện thế trong đoạn mạch
mắc nối tiếp, song song.
- Ngoài các bài tập đã nêu trong SGK, giáo viên nên lựa chọn thêm từ 1
đến 2 bài có dạng tương tự, nhưng có phần phức tạp hơn một chút, để ra thêm
cho các học sinh khá, giỏi. Chẳng hạn đó là các bài tập cuối bài học này, hoặc
trong sách bài tập vật lí 9, sách 500 bài tập vật lí 9 hoặc có thể đưa ra thêm dạng
bài sau :
Bài tập bổ sung: Hai điện trở R1 và R2 được mắc theo hai cách vào hai
điểm M, N trong sơ đồ hình vẽ 1, trong đó hiệu điện thế U=6V. Trong cách mắc
thứ nhất, ampe kế chỉ 0,4A. Trong cách mắc thứ hai ampe kế chỉ 1,8A
a, Đó là hai cách mắc nào ? vẽ sơ đồ từng cách mắc ?
b, Tính điện trở R1 và R2 ?
M
N
A
H.1

Bài tập 1 SGK trang 17
- Giáo viên đề nghị học sinh đọc đề

- Đây là tiết giải bài tập đầu tiên của chương trình vật lí 9 nên giáo viên có
thể hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết nhất từng bước giải dạng bài tập này, có
thể chia thành các bước sau :
+ Bước 1: Tìm hiểu, tóm tắt đề bài, vẽ sơ đồ mạch điện nếu có.
10


+ Bước 2: Phân tích mạch điện, tìm các công thức liên quan đến các đại
lượng cần tìm.
+ Bước 3: Vận dụng các công thức đã học để giải bài toán qua các gợi ý :
Cho biết R1 và R2 được mắc như thế nào ?
Ampe kế, vôn kế đo những đại lượng nào trong mạch điện ?
Vận dụng công thức nào để tính RTĐ và R2 ?
Yêu cầu học sinh nêu cách giải khác, ví dụ : Tính U sau đó tính U 2 suy ra
R2 và tính RTĐ=R1+R2 (phần này có thể cho học sinh về nhà làm).
+ Bước 4 : kiểm tra, biện luận kết quả.
- Trong quá trình học sinh tự lực giải BT theo các bước trên, giáo viên
quan sát, theo dõi hoạt động của học sinh để hỗ trợ những học sinh có khó khăn,
vướng mắc
- Khi hầu hết học sinh trong lớp đã giải xong BT này, giáo viên yêu cầu
một số học sinh lên bảng trình bày lời giải các phần. Yêu cầu học sinh dưới lớp
nhận xét.
Bài tập 2 SGK trang 17
- Yêu cầu học sinh thảo luận phần phân tích sơ đồ mạch điện, cá nhân học
sinh tự giải theo các bước đã nêu tương tự bài tập 1 vào vở.
- GV yêu cầu một học sinh lên bảng làm bài. Giáo viên nhận xét, học sinh
ghi vở.
Bài tập 3 SGK trang 18
- Là một trong những dạng bài tập tương đối khó đối với đa số học sinh
trong việc phân tích sơ đồ mạch điện vì mạch ngoài gồm 3 điện trở được mắc

hỗn hợp. Nhiều học sinh sẽ nhầm R1 nối tiếp R2 hoặc R1 nối tiếp R3. Giáo viên
cần hướng dẫn cách nhận biết đoạn mạch nối tiếp và song song dựa vào đặc
điểm của hai loại đoạn mạch này trong các bài học trước.
- Vì thế trước hết giáo viên đề nghị học sinh giải thích cách mắc mạch
điện này. Giáo viên đề nghị học sinh chỉ tham khảo phần hướng dẫn giải trong
SGK khi gặp khó khăn trong quá trình làm bài. Các học sinh có thể hỗ trợ cho
nhau khi gặp vướng mắc.
- Trong quá trình các học sinh giải bài tập này, giáo viên theo dõi hoạt
động của học sinh. Đối với những học sinh khá, giỏi tốc độ hoàn thành bài xong
trước thời gian giáo viên có thể yêu cầu đến hướng dẫn cho nhóm học sinh đang
vướng mắc và giao thêm dạng bài tập tương tự cho các thành viên còn lại đã làm
xong bài tập 3, để học sinh tận dụng thời gian chờ đợi giúp củng cố, rèn luyện,
nâng cao trình độ vận dụng kiến thức, kĩ năng khi giải bài tập.
- Cuối cùng giáo viên đề nghị đại diện 2 học sinh trình bày cách giải đối
với từng phần. Sau đó giáo viên nhận xét các cách giải về tính hợp lí và mức độ
ngắn gọn của cách giải đó, giáo viên đánh giá
3. Ưu, nhược điểm của phương pháp
- Ưu điểm:
+ Từng HS của lớp đều phải thực hiện các hoạt động giải BT, nghĩa là
phải vận dụng kiến thức và kĩ năng để giải quyết các tình huống cụ thể khác
11


nhau. Do đó giúp họ hiểu rõ hơn, cũng như củng cố và khắc sâu các kiến thức và
kĩ năng này.
+ Phân loại HS trong lớp về trình độ vận dụng kiến thức và kĩ năng đã
học. Nhờ đó GV có thể ghi nhận HS nào còn yếu, HS nào khá, giỏi để có kế
hoạch giúp đỡ họ phù hợp và có hiệu quả trong từng tiết BT và trong toàn bộ
quá trình dạy sau đó.
+ Tạo ra cơ hội để Hs trao đổi, thảo luận theo nhóm (tìm các cách giải

quyết khác, tìm cách giải các BT phức tạp). Qua đó phát triển ở học sinh tinh
thần hợp tác, phê phán và sáng tạo trong học tập.
- Nhược điểm:
+ Để việc dạy học trong một tiết BT có hiệu quả thì trước hết GV phải có
kế hoạch chuẩn bị tương đối công phu, sao cho các BT được lựa chọn để yêu
cầu HS giải trên lớp có tác dụng phát triển ở HS khả năng vận dụng kiến thức và
kĩ năng đẻ giải quyết các tình huống cụ thể ở mỗi BT. Điều này cũng đòi hỏi GV
phải nắm vững trình độ của Hs ở mỗi lớp và có phương án hợp lí trong việc đề
ra các Bt phù hợp đối với mỗi loại đối tượng HS (yếu, trung bình, khá, giỏi).
+ GV một mặt cần chọn được các BT để tạo ra cơ hội cho HS trao đổi,
thảo luận nhóm, tạo ra các tương tác giữa HS và giữa GV với HS, nhưng mặt
khác làm việc theo nhóm lại đòi hỏi có nhiều thời gian nên sẽ rất hạn chế trong
khoảng thời gian 45 phút của một tiết học. Mâu thuẫn này đòi hỏi GV có sự cân
đối thời gian hợp lí cho các hoạt động học tập của HS trong một tiết học, trong
đó tùy theo đối tượng HS của mỗi lớp mà ưu tiên loại hoạt động nào.
4. Một số lưu ý:
- Không nên dạy tiết học BT, trong đó không có sự trao đổi thảo luận của
các HS trong quá trình giải mỗi BT, từng HS loay hoay giải BT, sau đó GV trình
bày lời giải của mình trên bảng cho HS ghi lại.
- Cách dạy học như thế rất tẻ nhạt, nhàm chán không chỉ với HS khá, giỏi
mà ngay cả với HS yếu, kém vì không có tác dụng giúp họ hiểu sâu sắc hơn các
kiến thức và kĩ năng cần vận dụng, không giúp họ phát triển khả năng tự lực,
tích cực và sáng tạo trong việc giải quyết các tình huống mà BT đề ra.
2.3.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÍ THÔNG TIN THEO MÔ HÌNH HỢP TÁC
1. Bản chất của phương pháp
Phương pháp có ưu điểm là lôi cuốn HS vào quá trình học tập theo tinh
thần hợp tác. Sự hợp tác giữa các học sinh được tiến hành trong từng nhóm và
giữa các nhóm trong lớp.
2. Quy trình thực hiện
Phương pháp này có thể tiến hành theo các bước sau:

- Các HS trong lớp được chia thành một số nhóm.
- Các nhóm được giao nhiệm vụ nghiên cứu về một số vấn đề.
- Mỗi nhóm trình bày kết quả mà nhóm mình đã nghiên cứu được.
- So sánh và thảo luận các kết quả nghiên cứu của các nhóm, từ đó khám
phá ra kiến thức vật lí mới.
12


Ví dụ minh họa: Tiết 6: Bài 5: Đoạn mạch song song (Vật lí 9)
- Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh: ‘Tìm công thức liên hệ giữa
cương độ dòng điện trong mạch chính và các mạch rẽ’
- GV đưa ra các câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời:
- GV: Chúng ta đã nghiên cứu phần định luận Ôm cho đoạn mạch nối tiếp
ở tiết học trước. Hãy nhắc lại 3 công thức quan trọng cho loại đoạn mạch đó ?
Học sinh trả lời: Các công thức quan trọng cho đoạn mạch mắc nối tiếp:
I1 = I2 = I
(1)
U = U 1 + U2
(2)
R = R1 + R2 (3)
- Giáo viên vẽ lên bảng hai loại mạch điện :
R1

R1

r2
n

M


n

M
r2

H×nh 1a

H×nh 1b

- GV đặt câu hỏi: đoạn mạch Hình 1a là đoạn mạch gì ?
- HS: Đoạn mạch nối tiếp.
- GV: Đoạn mạch hình 1b có gì khác ?
- HS: Hai điện trở R1, R2 cùng được mắc vào hai điểm M và N.
- GV: Thông báo đoạn mạch hình 1b được gọi là đoạn mạch mắc song
song.
Yêu cầu học sinh hãy quan sát kĩ sơ đồ mạch điện trên bảng :
A1

A

A2
M

N

H×nh 2

- GV : Hai điện trở R1, R2 được mắc như thế nào trong mạch ?
- HS : Chúng được mắc song song với nhau.
- GV : Đúng. Các đoạn mạch chứa R1, R2 được gọi là các mạch rẽ.

Ta gọi I1 và I2 là cường độ dòng điện đi qua các mạch rẽ, phần mạch điện
bên ngoài các mạch rẽ được gọi là mạch chính. Gọi I là cường độ dong điện qua
mạch chính.
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm học tập, các nhóm được nghiên cứu về
cùng vấn đề của bài và giao phiếu học tập cho các nhóm:
13


Phiếu học tập
Cường độ dòng điện
Nhóm ……………
Đo I1 bằng A1
I1 =…………………
Đo I2 bằng A2
I2 =…………………
Đo I bằng A
I =………………….
- Học sinh tiến hành thí nghiệm theo nhiệm vụ được giao, trình bày kết
quả mà nhóm mình đã làm, nộp các kết quả đó cho giáo viên.
- Giáo viên tổng hợp kết quả theo bảng sau :
Kết quả
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
I1 =
0,53A
0,55A
0,6A
0,7A

I2 =
0,47A
0,45A
0,55A
0,5A
I=
1A
1A
1,15A
1,2A
- Giáo viên : Các nhóm có thể rút ra kết luận gì từ bảng trên ? Phát biểu
bằng lời ?
- Học sinh thảo luận đi đến thống nhất:
Vậy I = I1 + I2
Nghĩa là cường độ dòng điện trong mạch chính bằng tổng cường độ dòng
điện trong các mạch rẽ.
3. Ưu, nhược điểm của phương pháp
- Ưu điểm:
+ Phát huy tính tích cực, tự lực và tinh thần trách nhiệm của học sinh. Dạy
học theo mô hình hợp tác hỗ trợ tư duy, tình cảm và hành động độc lập, sáng tạo
của học sinh.
+ Phát triển ở học sinh năng lực về phương pháp làm việc tập thể.
+ Cải thiện kết quả học tập của học sinh về phương diện tiến hành thí
nghiệm.
Thành công của phương pháp này phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia
của các thành viên trong nhóm
- Nhược điểm:
+ Dạy học đòi hỏi nhiều thời gian. Phương pháp này bị hạn chế bởi không
gian chật hẹp của lớp học, cách bố trí bàn ghế bởi thời gian hạn định của tiết
học, tùy từng bài hay nội dung mà có hay không áp dụng phương pháp này.

Trong mỗi tiết học vật lí chỉ nên có từ 1 đến 3 hoạt động nhóm, mối hoạt động
từ 5-10 phút.
+ Nếu các nhóm chưa được luyện tập cách thức làm việc thường dễ gây ra
tình trạng hỗn loạn.
4. Một số lưu ý:
Để thành công ở phương pháp này giáo viên cần:
+ Tổ chức và quản lí tốt quá trình làm việc của học sinh.
+ Tùy thuộc vào điều kiện lớp học, trình độ học sinh mà giáo viên có
những yêu cầu ở các mức độ khác nhau.
14


+ Công việc được giao phải có nội dung rõ ràng, học sinh phải hiểu được
nhiệm vụ được giao. Trong hoạt động nhóm cần chú ý đến tư duy tích cực và
năng lực làm việc hợp tác giữa các thành viên.
+ Giáo viên tôn trọng ý kiến, kết quả của các nhóm, khuyến khích cho học
sinh các nhóm tự báo cáo, đánh giá và nhận xét kết quả.
2.3.4. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MỘT ĐỊNH LUẬT VẬT LÍ
1. Bản chất
- Các quy luật vật lí phản ánh những mối quan hệ bản chất, phổ biến, tất
yếu và khách quan giữa các thuộc tính của các sự vật, hiện tượng và quá trình
vật lí, được thể hiện trong những điều kiện nhất định.
- Khác với các quy luật, các định luật vật lí không chỉ phản ánh những
mối quan hệ quy luật về mặt định tính, mà hơn thế còn phản ánh những mối
quan hệ về mặt định lượng giữa các đại lượng vật lí và được thể hiện bằng các
hệ thức toán học.
- Có ba cách để khám phá các định luật vật lí là:
+ Khái quát hóa quy nạp các dữ liệu thí nghiệm: trên cơ sở mối quan hệ
giữa các đại lượng vật lí thu được qua một số thí nghiệm mà suy luận tới mối
quan hệ này cho mọi trường hợp tương tự (còn gọi là quy nạp không đầy đủ).

Mức độ tin cậy và tính đúng đắn của suy luận quy nạp này càng tăng nếu dựa
trên càng nhiều các TN riêng lẻ và mối quan hệ rút ra từ những TN riêng lẻ này
phản ánh càng đúng bản chất.
+ Phương pháp thực nghiệm: Từ các sự kiện thực tế và thực nghiệm mà
đề xuất giả thuyết, có chức năng lí giải các sự kiện này. Tổ chức các thí nghiệm
này để kiểm tra giả thuyết. Nếu được các TN xác nhận thì đi tới phát biểu các
định luật.
+ Phương pháp suy luận lí thuyết: Theo phương pháp này, quá trình suy
luận chủ yếu là suy luận diễn dịch Trong đó xuất phát từ những kết luận khái
quát chung mà tiến hành suy luận về một trường hợp riêng lẻ. Tính đúng đắn của
những kết luận thu được bằng phương pháp này đòi hỏi trước hết rằng kết luận
khái quát dùng làm tiền đề xuất phát của quá trình suy luận phải là chân thực,
đúng đắn. Sau đó là việc suy luận phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc của suy
luận logic và suy luận toán học. Cuối cùng mọi kết luận thu được như là kết quả
của quá trình suy luận này phải được kiểm tra bằng loạt các thí nghiệm.
2. Quy trình thực hiện
Ở phần này chỉ trình bày việc dạy học các định luật vật lí theo phương
pháp khái quát hóa quy nạp các dữ liệu Thí nghiệm.
- Ôn tập để nắm vững các đại lượng vật lí được đề cập trong định luật sẽ
khảo sát.
- Thiết lập và tiến hành các thí nghiệm trong đó có thể lần lượt tác động
làm thay đổi trị số của hai trong số các đại lượng vật lí, còn các đại lượng vật lí
khác được giữ nguyên không đổi. Trong mỗi lần thí nghiệm khi chủ động trị số
của một đại lượng này (biến độc lập) sẽ dẫn tới sự thay đổi trị số của đại lượng
kia. Lập bảng ghi lại trị số phụ thuộc và tương ứng của hai đại lượng này.
15


- Từ bảng các trị số đo, lập đồ thị biểu diễn mối quan hệ phụ thuộc giữa
hai đại lượng này.

- Nếu định luật phản ánh mối quan hệ giữa nhiều đại lượng vật lí thì lại
lặp lại thí nghiệm tương tự đối với một cặp hai đại lượng khác và suy luận về
mối quan hệ định lượng giữa cặp đại lượng này.
- Cuối cùng tiến hành tổng hợp, khái quát hóa quy nạp và suy luận toán
học, trên cơ sở mối quan hệ định lượng giữa các cặp hai đại lượng đã tìm được,
để đi tới mối quan hệ định lượng tổng quát giữa các đại lượng được đề cập trong
định luật được khảo sát. Mối quan hệ định lượng này thường được thể hiện dưới
dạng một hệ thức toán học.
- Phát biểu định luật, viết hệ thức toán học biểu thị mối quan hệ định
lượng giữa các đại lượng vật lí, trong đó lưu ý mối quan hệ về đơn vị đo các đại
lượng này và phạm vi áp dụng của định luật.
- Áp dụng định luật cho một số trường hợp cụ thể, từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ minh họa dạy học một định luật vật lí : Dạy học trích đoạn
Tiết 2, bài 2 : ‘Điện trở của dây dẫn – Định luật Ôm’’
- Ôn tập để nắm vững các đại lượng vật lí được đề cập trong định luật là :
Cường độ dòng điện (I) và hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn (U). Giới thiệu sơ
đồ mạch điện (hình 1.1 SGK vật lí 9) đồng thời ôn lại các cách mắc các dụng
cụ điện : Ampe kế, vôn kế, nguồn điện….
- Thiết lập và tiến hành các TN đo cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn
ứng với các hiệu điện thế khác nhau đặt vào hai đầu dây dẫn : Mắc mạch điện
theo sơ đồ, đo cường độ dòng điện I tương ứng với mỗi hiệu điện thế. Ghi lại
các giá trị vào bảng 1.
Kết quả đo
Hiệu điện thế
Cường độ dòng điện
(V)
(A)
Lần đo
1
2,0

0,1
2
4,0
0,2
3
5,0
0,25
4
6,0
0,3
- Từ bảng các giá trị số đo, lập đồ thị biểu diễn mối quan hệ phụ thuộc của
cường độ dòng điện vào hiệu điện thế. Từ suy luận toán học để tìm ra mối quan
hệ quy luật về mặt định lượng:
‘Cường độ dòng điện của dây dẫn tỉ lệ thuận với hiệu điện thế giữa hai
đầu dây dẫn đó’.
I (A)
Vẽ đồ thị
0,3

0,2
5
0,2
0,1
0

2

4

5


16
6

U(V)


- Nhận xét : Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc vủa cường độ dòng điện vào
hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn là đường thẳng đi qua gốc tọa độ.
- Thay đoạn dây dẫn khác và lặp lại thí nghiêm để tìm ra mối quan hệ quy
luật về mặt định tính ( hình thành khái niệm điện trở , bài 2 SGK Vật lý 9)
- Phát biểu định luật ôm về mối quan hệ định lượng giữa cường độ dòng
điện chạy qua dây dẫn và hiệu điện thế giữa 2 đầu dây :R = U/I.
- Lưu ý :
+ Về đơn vị đại lượng đo các đại lượng trong công thức
+ Về phạm vi áp dụng của định luật : chỉ đúng với 1 điện trở thuần( chỉ
tỏa nhiệt khi có dòng điện chạy qua) và nhiệt độ của nó không đổi
- Yêu cầu học sinh vận dụng làm các bài tập có liên quan
3. Ưu, nhược điểm của phương pháp.
- Ưu điểm:
+ Rèn luyện ở học sinh khả năng tổng hợp, khái quát hóa quy nạp và suy
luận toán học từ các dữ liệu, các giá trị đo đạc thu được từ TN để tìm tòi, phát
hiện mối quan hệ qui luật, định lượng giữa các đại lượng vật lí được khảo sát.
+ Rèn luyện học sinh khả năng quan sát các hiện tượng và diễn biến của
quá trình TN, rèn luyện kĩ năng lắp ráp, tiến hành TN, tác phong làm việc cẩn
thận, tỉ mỉ, kĩ năng làm việc theo nhóm.
+ Tạo cho học sinh niềm hứng thú, say mê trong quá trình nhận thức môn học,
góp phần rèn luyện ở học sinh niềm tin vào khả năng nhận thức thế giới khách quan
của con người.
- Nhược điểm:

+ Đòi hỏi ở học sinh khả năng tổng hợp, khái quát hóa quy nạp và khả
năng suy luận toán học cao. Nhiều khi yêu cầu này vượt quá khả năng của học
sinh, buộc giáo viên phải chuẩn bị trước những gợi ý để làm giảm bớt những
yêu cầu đó, đặt ra những yêu cầu trong vùng phát triển gần phù hợp với khả
năng và trình độ nhận thức của học sinh, không nên áp đặt đối với học sinh sẽ
gây phản tác dụng.
4. Một số lưu ý
Đòi hỏi ở giáo viên cần phải đầu tư tham khảo tài liệu, tìm tòi và trao đổi
kinh nghiệm với các đồng nghiệp để có thể đưa ra các giải pháp sư phạm sao
cho khi đưa ra phương pháp này áp dụng cho từng đối tượng học sinh phải phù
hợp và đạt hiệu quả, giúp cho học sinh hiểu được định luật vật lí không chỉ phản
ánh những mối quan hệ quy luật về mặt định tính, mà hơn thế còn phản ánh
những mối quan hệ về mặt định lượng giữa các đại lượng vật lí và được thể hiện
bằng các hệ thức toán học.
2.4. Hiệu quả đạt được
Sau mỗi tiết dạy bằng phương pháp dạy học tích cực tôi có thăm dò, điều
tra về ý kiến thái độ của học sinh. Kết quả thu được sau khi áp dụng sáng kiến
cho năm học 2015 - 2016 như sau :

17


Hứng thú
Thường xuyên theo dõi
Tích cực làm thí nghiệm,
hoạt động nhóm

8A
95%
94%


8B
96%
97%

9A
97%
98%

9B
98%
97%

98%

95%

98%

98%

Kết quả học lực như sau:
Học lực
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

8A
12%

37%
49%
2%

8B
14%
36%
49%
1%

9A
17%
40%
42%
1%

9B
18%
50%
30%
2%

3. Kết luận, Kiến nghị
3.1. Kết luận
Sau khi áp dụng đề tài này vào trong giảng dạy tôi đã nhận thấy rằng hiệu
quả của đề tài mang lại đó là:
+ Đa số các em học sinh hứng thú học tập hơn, tích cực, chủ động sáng
tạo, tự giác hợp tác, biết đề xuất, dự đoán các phương án tiến hành thí nghiệm và
giải quyết vấn đề đặt ra ; bước đầu các em đã có phương pháp học tập đặc trưng
cho môn học và thêm yêu thích môn học vật lí. Qua đó cũng góp phần thúc đẩy

nâng cao chất lượng giảng cũng như chất lương giáo dục ngày một đi lên. Từ đó
tìm ra những học sinh năng khiếu trong nhà trường để có điều. kiện bồi dưỡng
cho các em và giúp các em phát huy hết khả năng của mình.
+ Qua việc làm đề tài này giúp bản thân tôi được nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ hơn nữa, cũng như có thêm kiến thức và kĩ năng về các phương pháp
dạy học tích cực trong giảng dạy môn vật lí, tôi đã biết lựa chọn phối hợp các
phương pháp phù hợp cho từng loại bài dạy, phần dạy, được trang bị tốt hơn về
mặt phương pháp, tự tin hơn trước giờ lên lớp còn học sinh thì được phát huy
tính tích cực vốn có của mình. Nâng cao trình độ tổ chức một giờ dạy, qua đó
giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức trở thành chủ thể trong quá trình học mang
lại kết quả tốt hơn, tối ưu hơn.
Với mong muốn góp một phần nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục
ở nhà trường THCS (nhất là đối với vấn đề đổi mới phương pháp dạy học) trong
quan điểm đổi mới giáo dục hiện nay, là giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn
vật lí tôi đã dành nhiều thời gian tham khảo, tìm tòi để cố gắng hoàn thành đề tài
"Áp dụng đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh khối THCS". Tuy nhiên do điều kiện cũng như năng lực còn
hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Tôi rất mong được sự
giúp đỡ của các cấp lãnh đạo và sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để đề tài

18


được hoàn thiện hơn, góp phân nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn vật lí ở
trường THCS.
3.2. Kiến nghị
+ Đề nghị nhà trường bổ sung, đầu tư thêm sách tham khảo, tranh ảnh và
các đồ dùng, các dụng cụ thí nghiệm phuc vụ cho việc dạy và học môn Vật lí.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm
2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Tú Anh

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS môn Vật lí –
NXB Giáo dục.
2. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn vật lí trung học cơ sở
- NXB Giáo dục.
3. Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học , kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí cấp THCS – Bộ
giáo dục và đào tạo.
4. Sách giáo khoa môn Vật lí lớp 6,7,8,9 – NXB Giáo dục.

20



×