LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Các nhà kinh tế học có quan điểm: “Trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng,
ngoài nguồn vốn thuộc chủ sở hữu và nguồn vốn đi vay thì tất cả các nguồn vốn còn
lại được coi là nguồn vốn huy động” [3, tr.20-21]. Theo đó, vốn huy động của Ngân
hàng thương mại chiếm tỷ trọng lên tới trên 70% trong cơ cấu nguồn vốn. Như vậy,
với chức năng trực tiếp là “đi vay để cho vay” Ngân hàng thương mại đã “bơm”
một lượng vốn lớn vào gần như tất cả các ngóc ngách của hoạt động kinh tế. Vốn
giữa các ngành, các vùng được điều tiết một cách tối ưu nhất bằng hoạt động huy
động vốn nê hoạt động huy động vốn của hệ thống Ngân hàng trở thành hoạt động
cơ bản, có ý nghĩa to lớn và không thể thiếu đối với huyết mạch nền kinh tế xã hội
nói chung cũng như đối với sự tồn tại phát triển của các Ngân hàng thương mại nói
riêng [6, tr.41-42].
Thực tế nền kinh tế nước ta trong những năm trước đây do cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp chi phối, quá trình tích tụ và tập trung vốn không được quan tâm
đẩy mạnh. Nhưng kể từ sau năm 1986 - khi mà đất nước chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động huy động vốn đã được cải thiện
đáng kể và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định. Vấn đề bức xúc của
nền kinh tế nước ta hiện tại vẫn đang là thiếu vốn để trang bị cũng như đổi mới
công nghệ hiện đại phục vụ cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế của đất nước. Điều
này đã phản ánh phần nào hiện trạng là các Ngân hàng thương mại vẫn chưa đáp
ứng đủ nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, các dự án đầu tư. Do vậy đòi hỏi các
ngân hàng cần phải có sự nỗ lực hơn nữa trong công tác huy động vốn [6, tr.5255].
Những năm gần đây trong bối cảnh nền kinh tế nước ta có rất nhiều các
Ngân hàng thì hoạt động huy động vốn lại trở nên hết sức khó khăn bởi sự cạnh
tranh khốc liệt giữa các Ngân hàng để có được nguồn vốn huy động lớn hơn. Điều
đó đòi hỏi các Ngân hàng phải nỗ lực và không ngừng hoàn thiện hơn nữa trong
công tác huy động vốn. Đối với Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam nói
1
chung và chi nhánh Hải Phòng nói riêng trong thời gian gần đây mặc dù hoạt động
trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng Ngân hàng đã nỗ lực vươn lên và đạt
được nhiều thành tích đáng khích lệ. Ngân hàng đã thực hiện nhiều biện pháp để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, để tăng doanh thu và lợi nhuận, góp phần tăng tích
luỹ cho Nhà Nước và cải thiện, nâng cao đời sống cho người lao động. Việc nghiên
cứu tìm ra các biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn trong thời gian tới là rất
cần thiết để giúp Ngân hàng TMCP Công thương Hải Phòng tiếp tục đứng vững
trong cơ chế thị trường và thực hiện được các mục tiêu phát triển của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong Ngân hàng
thương mại, qua thời gian nghiên cứu tại đơn vị tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Biện
pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
chi nhánh Hải Phòng” cho luận văn thạc sỹ của mình nhằm đáp ứng nhu cầu thiết
thực của thực tiễn và góp phần bổ sung thêm những kiến thức bản thân còn thiếu
sót về vấn đề huy động vốn tại Ngân hàng thương mại.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng thương mại và phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Hải Phòng, qua đó đề xuất những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng này.
3. Đối tƣợng và phạm vị nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam chi nhánh Hải Phòng trong giai đoạn 2010 - 2014.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Khảo sát thông tin từ thực tiễn hoạt động của Viettinbank Hải Phòng qua
quan sát và trao đổi trực tiếp với các nhân viên, lãnh đạo phụ trách hoạt động huy
động vốn của chi nhánh.
- Thu thập dữ liệu như: Báo cáo tài chính, Báo cáo tín dụng.
2
- So sánh số liệu qua các thời kỳ để từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động huy
động vốn.
- Dựa vào các chỉ tiêu tài chính để phân tích và đánh giá hiệu quả.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Ý nghĩa khoa học:
Luận văn hệ thống hóa được các cơ sở lý luận chung về hoạt động huy động vốn
và hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Hải Phòng nói riêng, để từ đó xác định
được nhiệm vụ của Ngân hàng trong việc đảm bảo hiệu quả huy động vốn. Đánh
giá những mối quan hệ kinh tế chủ yếu cần phải giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả
huy động vốn.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Phân tích, đánh giá hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam chi nhánh Hải Phòng nhằm xác định những mặt tích cực, khắc phục kịp
thời những tồn tại hạn chế trong nhiệm vụ đảm bảo hiệu quả huy động vốn, phát
huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại, hạn góp phần thúc đẩy hoạt động
huy động vốn phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn.
- Đề ra các giải pháp góp phần tăng thêm nguồn vốn, tăng thêm lợi nhuận, tạo
thêm nhiều công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của Ngân hàng.
3
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ
HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Hệ thống NHTM ra đời được coi là kết quả tất yếu của quá trình hình thành
và phát triển của kinh tế hàng hoá, của quan hệ hàng hoá – tiền tệ lâu dài. Khái
niệm về NHTM được đưa ra khá đa dạng như sau:
o Tại Mỹ: NHTM được coi là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấo dịch
vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính [1, tr 10].
o Đạo luật Ngân hàng của Pháp (năm 1941) lại định nghĩa: “NHTM là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp của nó thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó
cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính” [2, tr 31].
o Ở Việt Nam: Nghị định 49/NĐCP về tổ chức NHTM đã nêu rằng: “ NHTM là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
ký gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,
thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện để thanh toán”.[5, tr 11].
Như vậy có thể nhận định: NHTM là một trong những định chế tài chính có
đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính cùng với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác mà nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch
vụ của xã hội. Tuy NHTM không trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thông hàng
hoá nhưng lại góp phần phát triển kinh tế xã hội thông qua việc cung ứng vốn tín
dụng cho nền kinh tế, thực hiện các chức năng thanh toán và dịch vụ Ngân hàng.
Thực tế cho thấy, với vai trò là nơi cấp vốn cho nền kinh tế, là công cụ của Nhà
nước điều tiết kinh tế vĩ mô, là cầu nối giữa thị trường với các doanh nghiệp, giữa
4
nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế thì Ngân hàng là một loại hình tổ
chức quan trọng đối với nền kinh tế.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Theo quy định hiện hành của Việt Nam, các NHTM được phép kinh doanh các
hoạt động cơ bản sau:
Huy động vốn: nghiệp vụ này huy động những khoản vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế để chuyển đến cho những đối tượng vay vốn để sản xuất kinh doanh, tạo thu
nhập cho người gửi tiền, thúc đẩy lưu thông tiền tệ bởi vì lợi nhuận của các khoản tín
dụng giúp Ngân hàng tồn tại và phát triển, do đó các Ngân hàng luôn tìm cách mở
rộng quy mô cho vay trong những điều kiện nhất định. Vốn để cho vay thuộc sở hữu
của Ngân hàng không nhiều, nên Ngân hàng phải huy động vốn để đáp ứng nhu cầu
vay của khách hàng [11, tr 12].
Cho vay, tài trợ dự án: theo quy định thì các NHTM được phép cấp tín
dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức như: cho vay thương mại, cho vay
tiêu dùng và các hoạt động tài trợ như tài trợ cho xây dựng nhà máy, xây dựng
trường học, nhà ở,… Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này cao nhưng vẫn hấp
dẫn các Ngân hàng tham gia bởi vì lãi thu được rất lớn.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Các tiện ích
của thanh toán mà không dùng tiền mặt không những góp phần rút ngắn thời gian
của khách hàng mà còn nâng cao thu nhập cho Ngân hàng bởi vì Ngân hàng không
chỉ bảo quản tiền mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng, tức là người
gửi tiền chỉ cần viết giấy chi trả cho khách và khách mang giấy đến Ngân hàng sẽ
nhận được tiền. Các hình thức thanh toán được phát triển hiện nay như: thanh toán
bằng điện, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thư tín dụng (L/C), thẻ thanh toán,…
Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tƣ chứng khoán: Hiện nay các Ngân hàng
đã thành lập công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán nhằm cung cấp
cho khách hàng các dịch vụ môi giới chứng khoán, cũng như các cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu.
5
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Các Ngân hàng tích cực trong việc
mua các máy móc thiết bị, đặc biệt các thiết bị có giá trị lớn, sau đó cho khách
hàng thuê lại, cuối hợp đồng thuê khách có thể mua lại chúng. Loại hợp đồng này
yêu cầu là khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Hình thức
cho thuê này cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng
trung và dài hạn.
Kinh doanh ngoại tệ: là việc Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này
để lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ mua bán. Việc mua bán ngoại tệ
như vậy yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao bởi vì mức độ rủi ro rất cao. Do
vậy, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện.
Bảo quản vật có giá: Đây là hình thức mà Ngân hàng thực hiện việc lưu trữ
vàng và các vật có giá khác cho khách hàng và trao cho khách hàng giấy biên
nhận. Khách hàng phải trả phí bảo quản cho Ngân hàng. Do khả năng chi trả bất kỳ
lúc nào của giấy biên nhận nên chúng được sử dụng như tiền để thanh toán nợ
trong phạm vi ảnh hưởng của Ngân hàng phát hành.
Bảo lãnh: Để thu hút và tạo mối liên hệ mật thiết giữa Ngân hàng với khách
hàng, Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá
cũng như trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác,
dự thầu, xuất nhập khẩu,…
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tƣ vấn: Với lợi thế là các NHTM có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính, do đó nhiều khách hàng đã nhờ Ngân hàng quản lý
tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Từ đó phát triển dịch vụ uỷ thác cả uỷ
thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư,… với nhiều
khách hàng Ngân hàng còn là chuyên gia tư vấn tài chính, sẵn sàng tư vấn về đầu
tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sát nhập doanh nghiệp.
Cung cấp các dịch vụ đại lý: Các Ngân hàng không thể thiết lập văn phòng
đại diện hay chi nhánh ở khắp mọi nơi nên nhiều Ngân hàng lớn đã cung cấp dịch
vụ Ngân hàng đại lý cho các Ngân hàng khác như: thanh toán hộ, phát hành hộ các
chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ,…
6
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Do Chính phủ luôn phải chi tiêu
nhiều và gấp, trong khi mà thu không đủ, nên Chính phủ thường hướng tới các
khoản cho vay của các ngân hàng thương mại. Chính phủ có quyền cấp phép hoạt
động kiểm soát Ngân hàng nên các NHTM được cấp phép thành lập phải tài trợ và
thực hiện một mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ là một yêu cầu bắt
buộc [11, tr10].
Quản lý ngân quỹ: Các Ngân hàng bên cạnh mối quan hệ chặt chẽ với
khách hàng trong việc mở tài khoản và gửi tiền thì cùng kinh nghiệm quản lý ngân
quỹ và thu ngân các Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân
quỹ. Theo đó, Ngân hàng quản lý cho khách hàng việc thu chi và đầu tư vào các
nghiệp vụ tài chính ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền để thanh toán [11, tr
12-18].
1.2. Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của NHTM bao gồm toàn bộ các nguồn tiền tệ mà Ngân hàng tạo
lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ Ngân hàng. Nguồn
vốn của NHTM gồm: vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn huy động, vốn đi vay và
một số vốn khác.
* Vốn tự có:
Vốn tự có là số vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Vốn tự có được chia
thành nhiều nguồn khác nhau cụ thể như sau:
(1) Vốn điều lệ thực có (Vốn đƣợc cấp, vốn đã góp): là nguồn vốn ban đầu mà
Ngân hàng có khi mới hoạt động và được ghi vào điều lệ hoạt động của Ngân
hàng.
(2) Quỹ dự trữ và dự phòng:. Các quỹ dự phòng gồm: quỹ dự phòng tài chính,
quỹ này trích tỷ lệ bằng 10% lãi ròng hàng năm của Ngân hàng, số dư của quỹ
không được phép vượt quá 25% vốn điều lệ dùng để bù đắp phần còn lại của
những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã
được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ
7
chức bảo hiểm và được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trích lập trong chi phí.
Tiếp theo là: quỹ dự phòng rủi ro, được hình thành bằng cách trích lập dự phòng
trên từng nhóm tài sản Có của Ngân hàng, bao gồm nhóm cho vay, các dịch vụ
thanh toán đối với khách hàng, được tính vào chi phí kinh doanh của Ngân hàng.
(3) Quỹ đầu tƣ và phát triển nghiệp vụ: Quỹ này dùng để đầu tư mở rộng
quy mô hoạt động kinh doanh và đổi mới công nghệ trang thiết bị, điều kiện làm
việc cho Ngân hàng. Mức trích quỹ này là 50% lãi ròng hàng năm của NHTM.
(4) Lợi nhuận không chia (lợi nhuận giữ lại): Khoản này phản ánh phần
thu nhập ròng của Ngân hàng có được từ hoạt động kinh doanh nhưng không chia
trả lãi cho cổ đông mà được Ngân hàng giữ lại để tăng thêm vốn.
8
Vốn tự có
(Vốn cấp 1)
Vốn điều lệ thực có
Vốn do Ngân
sách Nhà
nước cấp
Quỹ đầu tƣ
và phát triển nghiệp vụ
Quỹ dự trữ và dự phòng
Vốn do các
cổ đông đóng
góp
Các quỹ dự
phòng
Dự
phòng
xử lý
rủi ro
Dự
phòng
cụ thể
Lợi nhuận không chia
Quỹ dự trữ
bổ sung vốn
điều lệ
Vốn CSH bổ sung
(Vốn cấp 2)
Quỹ dự
phòng
TC
Giá trị
tăng
thêm
của
TSCĐ
Cổ
phiếu
ưu đãi
Dự
phòng
chung
Sơ đồ 1.1: Nguồn vốn tự có của Ngân hàng thương mại
9
Trái
phiếu
chuyển
đổi
Giá của
các loại
CK đầu
tư định
giá lại
* Vốn huy động:
Trong pháp lệnh Ngân hàng Việt Nam năm 1990 quy định hoạt động chủ yếu
của Ngân hàng là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán. Nguồn vốn huy động bao gồm các khoản: Tiền gửi của kho
bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác; Các khoản huy động từ tiền gửi của
khách hàng; Các công cụ tài chính phái sinh; Các khoản nợ tài chính phát sinh và
các khoản nợ tài chính khác.
Do nguồn vốn huy động có tầm quan trọng rất lớn, các NHTM cần xây dựng
một cơ cấu vốn huy động hợp lí. Cơ cấu vốn được phản ánh thông qua tỷ trọng của
từng khoản mục đã nêu trên trong tổng vốn huy động của Ngân hàng.
Tỷ trọng của loại vốn i
Quy mô của loại vốn i
=
Tổng vốn huy động
x 100
Tỷ trọng loại vốn cao phản ánh ưu thế của Ngân hàng trong việc huy động
loại vốn đó. Mặt khác, nó cũng cho thấy sự chú trọng của Ngân hàng vào những
hình thức huy động nhất định. Qua đó, người ta có thể nhận thấy chính sách huy
động vốn của Ngân hàng và đánh giá được Ngân hàng có đạt được mục tiêu trong
trường hợp thực hiện thay đổi cơ cấu vốn hay là không.
* Vốn vay:
Vay vốn trên thị trƣờng tiền tệ:
Trong quá trình kinh doanh của các NHTM luôn có tình trạng thừa vốn hoặc
thiếu vốn tạm thời, đó là khi huy động vốn nhưng lại chưa cho vay hết, hay khi
khách hàng có nhu cầu vay vốn lớn nhưng nguồn vốn lại không đủ để cho vay,
hoặc người gửi rút tiền trước thời hạn trong khi đó vốn vay chưa đến lúc thu hồi.
Khi ấy, các NHTM có thể gửi vào các tổ chức tín dụng khác để hưởng lãi hay đi
vay vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh, hoặc đảm bảo khả năng thanh toán. NHTM
có thể vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay vốn ở Ngân hàng trung ương.
Các khoản vay này đều phải có thế chấp bằng các chứng từ có giá, số dư tại Ngân
hàng nhà nước hoặc ít nhất cũng phải có sự bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước.
10
Tuy nhiên, do tính chất là khoản vay nóng mà lãi suất của nguồn vốn này thường
khá cao.
Vay ngắn hạn qua hợp đồng mua lại (Repurchase Agreement – RP)
Là hợp đồng được ký kết giữa Ngân hàng với khách hàng (có tài khoản tại
Ngân hàng) hoặc với NHTM khác, thoả thuận bán tạm thời chứng khoán chất
lượng với tính thanh khoản cao (cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu Chính phủ sắp đến hạn
thanh toán,…) kèm theo thoả thuận sẽ mua lại các chứng khoán này, tại một thời
điểm trong tương lai với một mức giá xác định trong hợp đồng.
Chi phí trả
lãi theo RP
=
Sổ tiền
vay
x
Lãi suất hiện
hành của RP
x
Số ngày vay
theo hợp đồng
Vốn vay là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng, đặc biệt đối với sự biến động thường xuyên giữa công
tác huy động vốn và sử dụng vốn.
* Vốn khác:
Các NHTM trong quá trình hoạt động còn có thể tạo lập vốn cho mình từ
nhiều nguồn khác như:
Vốn đầu tư, tài trợ của chính phủ cũng như của các tổ chức trong và ngoài
nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội. Đây là nguồn
vốn mà Ngân hàng có được do làm đại lý nhận uỷ thác của các tổ chức để thực
hiện đầu tư cho những chương trình dự án có mục tiêu định trước. Thông thường
vốn tài trợ gồm 3 khoản: một khoản tài trợ không hoàn lại, một khoản cho vay lãi
suất thấp và một khoản thời gian âm hạn (thời gian từ lúc vay đến lúc trả nợ coi
như bằng không). Ngân hàng làm đại lý sẽ trộn 3 khoản trên để có một lãi suất hoà
đồng cộng với phí để cho vay lại. Mặt khác, khi thực hiện nghiệp vụ này Ngân
hàng cũng sẽ được hưởng một khoản phí hoa hồng . Đặc điểm của loại vốn này là
lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài (với vốn ODA là 30 – 40 năm).
11
* Cơ cấu nguồn vốn và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động:
Để đánh giá cơ cấu vốn của Ngân hàng phù hợp hay chưa, cần xem xét chi tiết quy
mô, tỷ trọng, cũng như tốc độ tăng trưởng của từng loại vốn trong tổng vốn và việc
theo dõi này phải tiến hành qua từng thời kỳ khác nhau. Quy mô và tỷ trọng vốn
cho biết độ lớn của lượng vốn còn tốc độ tăng trưởng phản ánh sự tăng (giảm) của
vốn tại các thời điểm khác nhau cũng như sự tăng (giảm) đó là nhiều hay ít.
Tỷ trọng nguồn vốn i
Tốc độ tăng trƣởng vốn
năm i
=
Quy mô nguồn vốn i
Tổng vốn
x 100
Quy mô vốn năm i
=
Quy mô vốn năm i – 1
x 100
Tốc độ tăng trưởng > 100: vốn của Ngân hàng tăng.
Tốc độ tăng trưởng < 100: quy mô vốn của Ngân hàng giảm.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn và cơ sở pháp lý của hoạt động huy động vốn
Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại tệ) và
bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: Vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy
động thông qua phát hành các giấy tờ có giá. Ngoài hai hình thức truyền thống
trên, ngày nay các Ngân hàng hiện đại còn huy động vốn thông qua hình thức thứ
ba là bán và chứng khoán hoá các khoản cho vay.
* Vốn huy động từ tiền gửi:
Nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng khá lớn trong nguồn vốn huy động của
NHTM. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng nó để cho vay, chiết khấu, thanh toán,…
nhưng không có quyền sở hữu mà phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và
lãi hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng bởi vì Bản chất của tài
khoản tiền gửi là tài sản thuộc sở hữu của các đối tượng khách hàng khác nhau.
Hình thức nhận tiền gửi của các NHTM rất đa dạng, được chia thành từng loại
khác nhau tùy theo các tiêu thức khác nhau:
Theo kỳ hạn, có 2 loại vốn huy động từ tiền gửi là tiền gửi không kỳ hạn
và tiền gửi có kỳ hạn:
12
Tiền gửi không kỳ hạn – là các khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định,
người gửi tiền có thể rút tiền gửi ra bất kỳ lúc nào và Ngân hàng luôn có nghĩa vụ
phải thoả mãn các nhu cầu đó của khách hàng . Tiền gửi này mục đích chính là để
thanh toán và đáp ứng nhu cầu của những khách hàng chưa có dự định rõ ràng
trong tương lai, do đó thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động,
lãi suất lại thấp, thậm chí có những khoản tiền gửi Ngân hàng không phải trả lãi, vì
thế cho nên nguồn vốn này tạo điều kiện cho Ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng
cao khả năng cho vay và đầu tư.
Tiền gửi có kỳ hạn – là loại tiền gửi mà có sự thỏa thuận giữa người gửi tiền
và Ngân hàng về số lượng, kỳ hạn cũng như lãi suất của tiền gửi. Do có sự xác
định rõ ràng về kỳ hạn nên Ngân hàng có thể sử dụng nó để cho vay với thời hạn
tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung và
dài hạn. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất của loại tiền gửi không kỳ hạn
và tiền giửi thanh toán. Mức lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì lãi
suất càng cao.
Theo nguồn hình thành vốn huy động từ tiền gửi đƣợc chia làm 2 loại:
Tiền gửi của tổ chức kinh tế: Để đảm bảo an toàn tài sản và đồng vốn vẫn
sinh lời, các tổ chức kinh tế có thể gửi số vốn đó vào Ngân hàng, hoặc để thuận
tiện cho quá trình sử dụng vốn đơn vị có thể thanh toán qua Ngân hàng cũng như
sử dụng các dịch vụ Ngân hàng khác.
Tiền gửi của dân cư – gồm hai loại: Một là tiền gửi tiết kiệm: người gửi
được Ngân hàng cấp cho sổ tiết kiệm, trong thời gian gửi tiền sổ tiết kiệm có thể
dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khấu để vay vốn Ngân hàng.
Hai là tiền gửi thanh toán: các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được
pháp luật cho phép thực hiên thanh toán qua Ngân hàng có thể mở tài khoản tiền
gửi thanh toán tại Ngân hàng và gửi tiền vào đó để đáp ứng nhu cầu thanh toán
cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan của Ngân hàng.
Theo loại tiền vốn huy động từ tiền gửi đƣợc phân thành:
13
Tiền gửi nội tệ : là khoản tiền gửi cơ bản mà các NHTM nhận được, nó phụ
thuộc vào mức thu nhập trong nước và lãi suất huy động trong từng thời kỳ, loại
tiền này thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượng tiết kiệm.
Tiền gửi ngoại tệ: Ngân hàng còn nhận tiền gửi dưới dạng ngoại tệ đặc biệt
là các ngoại tệ mạnh như USD, FRF, GBP, DEM,… Những ngoại tệ này cũng rất
cần thiết trong hoạt động của Ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, quan
hệ tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế,…Theo đó, Ngân hàng có xu hướng
mở rộng kinh doanh đối ngoại thường có nguồn vốn ngoại tệ lớn.
* Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá:
Nguồn vốn này các Ngân hàng có được thông qua việc phát hành các chứng
chỉ tiền gửi CDs (Certificates of Deposits), kỳ phiếu, trái phiếu,…., với nhiều kỳ
hạn khác nhau như: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và với lãi suất cao hơn so với huy
động từ tiền gửi tiết kiệm. Đối tượng mua các loại giấy tờ có giá này là các tổ
chức, cá nhân, ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hay phần thu nhập tạm thời chưa sử
dụng đến để mua hoặc đôi khi xuất phát từ việc họ không có khả năng và cơ hội
đầu tư trực tiếp. Các CDs, kỳ phiếu, trái phiếu,… do NHTM phát hành có tính lỏng
cao, khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền khi cần thiết.
* Bán và chứng khoán hoá các khoản cho vay:
Bán các khoản cho vay (Loan sales) là việc NHTM bán các khoản cho vay
(thường có kỳ hạn dưới 90 ngày) có thể là khoản cho vay mới hay các khoản cho
vay được một thời gian cho những Ngân hàng nước ngoài, có mục đích tìm kiếm
một vị trí chắc chắn trong thị trường nội địa, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, các
Ngân hàng đầu tư,…..
Chứng khoán hoá các khoản cho vay và tài sản khác đòi hỏi Ngân hàng phải
dành riêng một nhóm các tài sản sinh lời như các khoản cho vay, mua nhà thế chấp
hoặc cho vay tiêu dùng, và bán ra thị trường các chứng khoán được phát hành trên
những tài sản đó. Bản chất các khoản cho vay đã chuyển thành chứng khoán được
mua bán tự do, Ngân hàng sẽ nhận lại phần vốn đã bỏ ra để có được tài sản đó, và
sử dụng nguồn vốn này tạo ra các tài sản mới hay trang trải chi phí hoạt động. Các
14
khoản nợ được chứng khoán hoá là những khoản nợ có chất lượng cao, chắc chắn
Ngân hàng sẽ thu hồi được.
Như vậy, cơ sở pháp lý của hoạt động huy động vốn chính là: Huy động vốn
từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá cũng như Bán
và chứng khoán hoá các khoản cho vay.
1.2.3. Tình hình thực hiện kế hoạch huy động vốn
Để lập và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch các mục tiêu này, Ngân
hàng cần theo dõi và phân tích chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ nhiệm vụ kế hoạch phản ánh mục tiêu đạt được trong kỳ kế hoạch, đó
là kết quả so sánh giữa mức độ kế hoạch đề ra trong kỳ nghiên cứu (năm N + 1)
với mức độ kỳ gốc (năm N), chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ
nhiệm vụ kế hoạch
Số vốn huy động kế hoạch năm (N + 1)
=
Số vốn huy động thực tế năm N
x 100
Nếu tỷ lệ nhiệm vụ kế hoạch lớn hơn 100% cho biết Ngân hàng đang thực hiện
mở rộng quy mô huy động vốn. Ngược lại, nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 100% đồng nghĩa với
việc Ngân hàng đang có chính sách thu hẹp quy mô huy động vốn.
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch phản ánh kết quả thực hiện kế hoạch, đây là kết
quả so sánh giữa mức độ thực tế đạt được trong kì nghiên cứu với mức độ kế hoạch
đặt ra.
Tỷ lệ
hoàn thành kế hoạch
=
Số vốn huy động thực tế năm (N + 1)
Số vốn huy động kế hoạch năm (N + 1)
x 100
Khi tỷ lệ nhiệm vụ kế hoạch lớn hơn 100% và tỷ lệ hoàn thành kế hoạch
cũng lớn hơn 100% thì Ngân hàng hoàn thành kế hoạch và ngược lại. Khi tỷ lệ
nhiệm vụ kế hoạch nhỏ hơn 100 % nhưng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch trên 100% là
không hoàn thành kế hoạch, ngược lại là hoàn thành.
1.3. Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thƣơng mại
1.3.1. Quan điểm về hiệu quả huy động vốn
15
Hiệu quả huy động vốn của NHTM chính là kết quả huy động mà Ngân hàng
đạt được, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh
lợi cao cho Ngân hàng với từng thời kỳ. Để biết nguồn vốn đó là phù hợp, vừa đủ và
đáp ứng được nhu cầu kinh doanh thì trước hết công tác huy động vốn của Ngân hàng
đòi hỏi phải thoả mãn ba yêu cầu sau:
Một là: Để đảm bảo có khả năng đáp ứng cho hoạt động sử dụng vốn của
Ngân hàng thì đòi hỏi nguồn vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh
của Ngân hàng .
Hai là: Nguồn vốn huy động phải đảm bảo có cơ cấu hợp lý, cân đối theo
nhu cầu giữa vốn ngắn hạn với vốn trung dài hạn, giữa huy động trong dân cư với
tổ chức kinh tế,…
Ba là: Nguồn vốn huy động cần phải đảm bảo tối thiểu hoá chi phí bỏ ra. Đó
là yếu tố quan trọng nhất, nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của Ngân hàng.
Chi phí là số tiền mà Ngân hàng phải trả để có được số lượng vốn huy động, chi
phí hoạt động cao hay thấp thì phụ thuộc vào mức lãi suất của Ngân hàng đưa ra,
mức lãi suất này càng cao thì lại càng hấp dẫn và thu hút được đông đảo khách
hàng. Vì cả hai loại lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều là công cụ cạnh tranh
của NHTM và hai loại lãi suất ấy lại có quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với nhau nên
nếu như Ngân hàng nâng lãi suất huy động để tăng cường lượng vốn thì cũng buộc
phải nâng lãi suất cho vay lên để đảm bảo bù đắp chi phí huy động và kinh doanh
có lãi. Vì vậy thì việc nâng lãi suất huy động quá cao sẽ làm giảm khả năng cạnh
tranh trong cho vay cũng như đầu tư. Do đó, yêu cầu đặt ra cho mọi Ngân hàng là
phải làm sao đưa ra mức lãi suất hợp lý, vừa đảm bảo tính cạnh tranh trong huy
động và tính cạnh tranh trong cho vay, đồng thời cũng phải đảm bảo kinh doanh có
lợi nhuận.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
Để có nhận định chính xác và toàn diện về huy động vốn của NHTM, điều
không thể thiếu là đưa ra được những tiêu chí đánh giá. Khi xem xét về hiệu qủa
16
huy động vốn, chúng ta có thể đo lường và đánh giá dựa trên hệ thống các chỉ tiêu
chính như sau:
a) Các chỉ tiêu định tính:
* Mức thuận lợi và lợi ích của khách hàng gửi tiền:
Khách hàng khi gửi tiền tại Ngân hàng ngoài mục đích nhằm bảo vệ nguồn
vốn nhàn rỗi, còn với mong muốn sinh lời từ việc nhận lãi các khoản tiền gửi này.
Bởi vậy, mức giá hay lợi ích mà mỗi Ngân hàng đưa ra luôn là một nhân tố quan
trọng, có sức hấp dẫn mạnh mẽ và có tác động trực tiếp tới quyết định lựa chọn sản
phẩm, dịch vụ cũng như quyết định lựa chọn Ngân hàng ký gửi. Khi ngân hàng nào
đem lại cho khách hàng mức lợi nhuận tối đa và lợi ích tốt nhất thì ngân hàng đó sẽ
huy động được nhiều hơn số vốn nhàn rỗi từ khách hàng. Vì vậy, để có thể thu hút
được khách hàng, thông thường mọi Ngân hàng đều cố gắng rút ngắn quy trình huy
động vốn, hạ thấp chi phí huy động vốn, đảm bảo sự phù hợp cho người gửi tiền về
thời hạn gửi, loại tiền gửi, lãi suất và thuận tiện về địa điểm giao dịch. Do đó, khi
đánh giá chất lượng công tác huy động vốn thì cần đặc biệt quan tâm tới chỉ tiêu
mức thuận lợi và lợi ích của khách hàng gửi tiền để có thể xem xét và đánh giá mối
quan hệ mật thiết giữa Ngân hàng và khách hàng.
* Uy tín của ngân hàng và số lượng vốn bị rút trước hạn:
Với phương châm là “đi vay để cho vay” thì Ngân hàng muốn hoạt động kinh
doanh có hiệu quả trước hết phải tạo được uy tín đối với khách hàng của mình. Khi
Ngân hàng có uy tín thì khách hàng sẽ tìm đến với Ngân hàng đó để giao dịch như
vậy Ngân hàng sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi từ khách hàng. Ngược lại, khi mà
Ngân hàng mất uy tín, khách hàng sẽ không đến với Ngân hàng vì lo sợ gặp phải rủi
ro nên khách hàng đã gửi tiền sẽ tìm cách rút tiền gửi khỏi Ngân hàng mặc dù số tiền
đó có thể là chưa đến hạn rút và họ chấp nhận là mức lãi suất nhận được thấp hơn số
lãi dự trả. Khi đó số lượng vốn bị rút trước hạn quá lớn, Ngân hàng sẽ rơi vào tình
trạng mất cân đối, vì số vốn huy động thấp hơn số vốn cần sử dụng nên khả năng
thanh toán giảm sút và ngân hàng có nguy cơ đối mặt với việc phải phá sản. Vì vậy,
để đánh giá chất lượng của công tác huy động vốn ở một Ngân hàng, người ta còn so
17
sánh tỷ lệ rút vốn trước hạn giữa Ngân hàng này với Ngân hàng khác. Nếu mà tỷ lệ
này cao, chứng tỏ uy tín của Ngân hàng thấp, công tác huy động vốn chưa tốt.
* Mức độ đa dạng hoá của các hình thức huy động vốn:
Hình thức huy động vốn đa dạng được xem là nền tảng cho việc thoả mãn
nhu cầu của khách hàng và sẽ là yếu tố quan trọng mang tính chất cốt lõi cho phép
Ngân hàng thu hút được đông đảo lượng tiền nhàn rỗi của khách hàng trên thị
trường. Một Ngân hàng có danh mục các sản phẩm dịch vụ phong phú, với nhiều
sản phẩm khác nhau và đáp ứng được càng nhiều nhu cầu thực tế của khách hàng,
có quy mô thị trường rộng rãi và nhiều phân đoạn khách hàng mục tiêu thì Ngân
hàng đó chắc chắn sẽ thu hút được lượng khách hàng lớn. Vì thế, ngoài các phương
thức huy động vốn truyền thống như trước đây, các Ngân hàng ngày nay đã không
ngừng mở rộng và phát triển các phương thức huy động vốn hiện đại hơn, tiêu biểu
là: phát hành chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ bảo hiểm, phát hành thư điện tử, thẻ rút
tiền tự động (ATM),…. , giúp cho Ngân hàng tiết kiệm được không ít thời gian,
công sức cũng như chi phí của cả khách hàng và Ngân hàng.
b) Các chỉ tiêu định lượng:
* Tỷ trọng các loại vốn huy động so với nhu cầu sử dụng vốn:
Tỷ trọng của loại vốn nào mà càng cao thì càng thể hiện được tầm quan
trọng của loại vốn đó trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Việc nhìn nhận
này sẽ giúp Ngân hàng định hướng được đâu là loại vốn cần thiết mà Ngân hàng
phải huy động nhất, có ảnh hưởng và tác động mạnh nhất đến sức khoẻ tài chính
của Ngân hàng, để từ đó Ngân hàng có thể điều chỉnh chiến lược huy động vốn
hợp lý hơn.
Tỷ trọng của loại vốn i
Quy mô của loại vốn i
=
Tổng nhu cầu sử dụng vốn
x 100
Việc tính toán tỷ trọng vốn nợ có thể được thực hiện dựa trên việc sử dụng
nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại vốn như: theo đối tượng huy động vốn, theo kỳ
hạn huy động vốn hay theo loại tiền huy động. Tuy nhiên ngoài việc phải căn cứ trên
cơ sở các số liệu đã có, còn cần phải đặt trong sự nhìn nhận đặc điểm cũng như môi
18
trường kinh doanh cụ thể của Ngân hàng. Mỗi Ngân hàng duy trì cho mình một cơ
cấu vốn riêng, tuỳ thuộc vào điều kiện của Ngân hàng đó.
* Chi phí huy động vốn:
Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn chủ sở hữu của
các Ngân hàng thường không thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng, do vậy Ngân
hàng phải huy động vốn để sử dụng với một chi phí huy động nhất định.
Chi phí huy động vốn được tính như sau:
Chi phí huy
động vốn
=
Lãi trả cho
nguồn huy động
+
Chi phí huy
động khác
Trong đó, lãi trả cho nguồn huy động là thành phần quan trọng ảnh hưởng
đến quy mô và hiệu quả huy động vốn:
Lãi trả nguồn huy động = Quy mô huy động x Lãi suất huy động
Về bản chất, quy mô huy động vốn là tổng khối lượng tiền mà Ngân hàng
thu hút được từ khách hàng. Lãi suất huy động là chi phí mà Ngân hàng bỏ ra
tương ứng với số tiền gửi của khách hàng trong thời gian nhất định. Lãi suất huy
động luôn là vấn đề quan tâm đầu tiên của các chủ thể kinh tế bởi vì người gửi tìm
kiếm lãi suất cao trong khi người vay lại mong muốn lãi suất thấp. Với vai trò là
trung gian là cầu nối giữa hai đối tượng trên, Ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh
mức lãi suất cho hợp lý nhất đối với các bên mà vẫn đảm bảo được lợi ích của bản
thân mình.
Chi phí huy động khác: Trong hệ thống vốn rất đa dạng và không ngừng gia
tăng khi các Ngân hàng gia tăng cạnh tranh phi lãi suất. Nó bao gồm chi phí mà
Ngân hàng trả trực tiếp cho người gửi tiền như: quà tặng, quay số trúng thưởng,
kèm bảo hiểm…và chi phí tăng tính tiện ích cho người gửi tiền như: mở chi nhánh,
quầy phòng, điểm huy động, trang bị máy đếm tiền, soi tiền cho khách hàng kiểm
tra, huy động tại nhà…chi phí lương cho cán bộ phòng nguồn vốn, chi phí bảo
hiểm tiền gửi,… Một số chi phí khác thì được tính chung vào chi phí quản lý và rất
khó phân bổ cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
19
Việc tính toán chi phí vốn huy động sẽ có tác động trực tiếp đến thu nhập
của việc sử dụng nguốn vốn huy động, vì thế các Ngân hàng luôn tìm mọi cách để
giảm tối đa chi phí giúp tăng lợi nhuận. Do đó, thu nhập sẽ là chỉ tiêu quan trọng
để đánh giá hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính theo
công thức:
Thu nhập từ
sử dụng vốn
Doanh thu từ
=
lãi sử dụng vốn
-
Chi phí
huy động vốn
Thu nhập từ sử dụng vốn là thu nhập ròng mà Ngân hàng nhận được trong
hoạt động kinh doanh giữa huy động vốn và cho vay, chỉ tiêu này càng cao điều đó
chứng tỏ Ngân hàng càng kinh doanh có hiệu quả.
*Tỷ suất lợi nhuận vốn huy động:
Liên quan đến chi phí huy động và thu nhập từ sử dụng vốn trên đây, khi xem
xét hiệu quả huy động vốn người ta cũng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu: “Tỷ suất lợi
nhuận vốn huy động” (TSLNVHĐ).
Thu nhập sau thuế vốn huy động
TSLNVHĐ
=
x 100
Chi phí vốn huy động
TSLNVHĐ cho biết với 1 đồng chi phí vốn huy động bỏ ra, Ngân hàng sẽ
thu về bao nhiêu đồng thu nhập sau thuế từ sử dụng vốn huy động đó. Cũng giống
như chỉ tiêu thu nhập từ sử dụng vốn thì nếu tỷ suất này càng cao thì Ngân hàng
kinh doanh càng có hiệu quả.
* Chênh lệch lãi suất bình quân:
Chênh lệch lãi suất bình quân là chỉ tiêu được dùng để đo lường hiệu quả
hoạt động trung gian của Ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay.
Chênh lệch
lãi suất bình quân
Tổng thu từ lãi
=
Tổng tài sản sinh lời
Tổng chi phí trả lãi
X
Tổng nguồn vốn phải trả
lãi
Trong đó:
- Tổng thu từ lãi là các khoản thu nhập từ cho vay và đầu tư chứng khoán.
20
- Tổng tài sản sinh lời bao gồm những tài sản mang lại lợi nhuận cho Ngân
hàng như tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại các TCTD, cho vay khách hàng cũng như
các khoản đầu tư.
- Tổng chi phí trả lãi bao gồm lãi trả cho nguồn huy động và chi phí huy động khác.
- Tổng nguồn vốn phải trả lãi là tổng nguồn vốn huy động được của Ngân hàng.
Chênh lệch lãi suất bình quân càng cao thì hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng
càng cao. Do đó, ngoài việc tính toán chính xác chỉ tiêu này, khi thực hiện phân
tích, đánh giá hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM ta cần tiến hành
so sánh chỉ tiêu này của nhiều Ngân hàng khác nhau, kết hợp với con số trung bình
toàn ngành, từ đó xem xét được cường độ cạnh tranh trong hai lĩnh vực hoạt động
truyền thống của Ngân hàng.
* Sự phù hợp giữa mục đích huy động vốn và sử dụng vốn:
Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là huy động vốn để sử dụng nhằm
thu được lợi nhuận, vì vậy Ngân hàng sẽ chuyển hoá nguồn vốn - tiền gửi, tiền vay,
vốn CSH thành các loại tài sản như ngân quỹ, tín dụng, chứng khoán, các tài sản khác
theo một phương thức thích hợp để thoả mãn các mục tiêu mà Ngân hàng đã đặt ra.
Thêm vào đó, có thể kết hợp chỉ tiêu “doanh số huy động vốn trên doanh số
cho vay” để giúp so sánh khả năng cho vay và khả năng huy động vốn, khả năng
đáp ứng nhu cầu vốn. Theo đó nếu chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì cho thấy Ngân hàng
chưa sử dụng vốn hợp lý nghĩa là số vốn huy động về còn dư thừa Ngân hàng chưa
sử dụng hết.
Doanh số huy động trên
doanh số cho vay
Tổng vốn huy động
=
Cho vay khách hàng
Như vậy, Ngân hàng không tham gia vào việc đặt giá mà phải tự điều chỉnh
cơ cấu nguồn vốn và tài sản nhằm thoả mãn nhu cầu sinh lời. Một danh mục tài sản
mà các khoản cho vay và rủi ro cao thì có thể bị tổn thất lớn, qua đó làm giảm uy tín
của Ngân hàng, dẫn đến phản ứng của dân chúng là rút tiền ồ ạt làm cho nguồn tiền
suy giảm nhanh và mạnh sẽ đẩy Ngân hàng đến bị phá sản. Việc phân tích sự phù
hợp giữa mục đích huy động vốn và sử dụng vốn sẽ giúp các nhà quản trị giải quyết
21
được các vấn đề trên, và phần nào đưa ra được một chiến lược cơ cấu sử dụng vốn
hợp lý hơn cho Ngân hàng.
1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng thƣơng mại
1.4.1. Nhân tố thuộc về Ngân hàng
Sơ đồ 1.2: Các nhân tố thuộc về Ngân hàng ảnh hưởng đến
hiệu quả huy động vốn
1.4.1.1.Chính sách lãi suất cạnh tranh
Các NHTM tranh giành vốn không chỉ với các Ngân hàng khác mà còn với các tổ
chức tiết kiệm và với những người phát hành các công cụ tài chính khác nhau trong
thị trường tiền tệ. Khi lãi suất tối đa bị loại bỏ trong quá trình nới lỏng các quy
định thì việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Trong giai đoạn
khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc
đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ Ngân hàng này sang
Ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác [17, tr45].
1.4.1.2.Năng lực quản lý và trình độ cán bộ Ngân hàng
Về phương diện quản lý: Khi Ngân hàng có trình độ quản lý tốt, biết tận dụng
được tối đa năng lực nhân viên, có khả năng tư vấn phù hợp cho khách hàng đem lại
22
hiệu quả cao thì Ngân hàng đó sẽ thu hút được đông đảo hơn khách hàng đến với
mình. Hơn nữa, quản lý tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều kiện
tốt nhất cho công tác huy động vốn của Ngân hàng [17, tr45-46].
Về trình độ nghiệp vụ: Đội ngũ nhân viên, nhất là các giao dịch viên được
coi là bộ mặt của Ngân hàng, do vậy trình độ của cán bộ Ngân hàng ảnh hưởng lớn
tới chất lượng phục vụ, chi phí dịch vụ và tác động trực tiếp tới việc thu hút vốn
của Ngân hàng.
1.4.1.3.Công nghệ Ngân hàng
Công nghệ Ngân hàng cung cấp giải pháp tiết kiệm chi phí và tạo lợi thế
cạnh tranh trong việc phân phối sản phẩm và giao tiếp với khách hàng.
Sơ đồ 1.3: Các phương pháp phân phối sử dụng công nghệ Ngân hàng
Khi mà trình độ công nghệ của Ngân hàng càng cao, khách hàng sẽ càng
cảm thấy hài lòng về dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng và sẽ yên tâm hơn khi gửi
tiền tại các Ngân hàng đó. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp cho Ngân hàng
cạnh tranh phi lãi suất vì khách hàng mà Ngân hàng phục vụ, không quan tâm đến
lãi suất mà quan tâm đến chất lượng và loại hình dich vụ mà Ngân hàng cung ứng.
Với cùng một mức lãi suất huy động như nhau, Ngân hàng nào cải tiến được chất
lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ
cao hơn.
1.4.1.4.Các dịch vụ Ngân hàng cung ứng
23
Ngân hàng muốn tìm kiếm dễ dàng được nguồn vốn thì trước hết phải đa
dạng hình thức huy động vốn và đa dạng hoá danh mục sản phẩm. Mức độ đa dạng
này càng cao thì Ngân hàng càng có thể dễ dàng đáp ứng một cách tối đa nhu cầu
của khách hàng, bởi họ đều có thể tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù
hợp mà lại an toàn. Bên cạnh đó, các ưu đãi bổ sung thêm như giảm lãi suất cho
khách hàng giao dịch lâu năm, khuyến mại nhân dịp các ngày lễ hay các sảm phẩm
tích điểm,… có tính chất hỗ trợ cho tiêu thụ, tạo nên hình ảnh sản phẩm dịch vụ
hoàn chỉnh trong mắt của khách hàng cũng là lợi thế đáng quan tâm của các
NHTM. Khác với cạnh tranh về lãi suất thì việc cạnh tranh về dịch vụ Ngân hàng
không giới hạn, do vậy đây chính là điểm mạnh để các Ngân hàng giành thắng lợi
trong cạnh tranh với nhau trên thị trường.
1.4.1.5.Mức độ thâm niên của một Ngân hàng
Với các khách hàng khi cần giao dịch với một Ngân hàng thì bao giờ họ
cũng dành phần ưu ái đối với một Ngân hàng có thâm niên cao hơn là một Ngân
hàng mới thành lập. Bởi vì, theo họ thì một Ngân hàng thâm niên nhiều hơn là một
ngân hàng có uy tín, vững vàng trong nghiệp vụ, có nguồn vốn cũng như có khả
năng thanh toán cao. Do vậy, mức độ thâm niên xét theo một khía cạnh nào đó
cũng tạo ra lòng tin đối với khách hàng.
1.4.1.6. Chính sách quảng cáo (hoạt động marketing)
Trong hoạt động Ngân hàng thời hiện đại thì quảng cáo luôn được đề cao và
cần phải có một chi phí nhất định cho công tác này. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng
phải có chiến lược quảng cáo hợp lý không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả
Pano, áp phích, tờ rơi,… để đẩy mạnh công tác huy động vốn [17, tr 21].
1.4.1.7. Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn
Mạng lưới huy động vốn của các Ngân hàng thường biểu hiện qua việc tổ
chức các quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch. Mạng lưới huy động được đánh giá
khoa học là mạng lưới không chỉ được hình thành ở khu vực đông dân cư mà còn
được mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho cả khách hàng ở nơi cách xa trung
24
tâm kinh tế như vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, từ đó nâng cao được hiệu quả
huy động vốn.
1.4.2. Nhân tố bên ngoài Ngân hàng:
Các nhân tố bên ngoài Ngân hàng được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Môi trƣờng pháp lý
- Luật TCTD, Luật NHNN,
Luật dân sự, Luật doanh
nghiệp,….
- Các điều ước Quốc tế, các quy
định của NHTM,…
Môi trƣờng kinh tế xã hội
- Mức lạm pháp, biến động tiền
tệ
- Suất đầu tư kỳ vọng
- Thất nghiệp, lương thưởng
- Chính sách kinh tế của Nhà
nước
Hiệu quả
huy động vốn
Đối thủ cạnh tranh
- Đối thủ cạnh tranh nhập
ngành
- Hoạt động Marketing của đối
thủ cạnh tranh hiện tại
- Lợi thế của đối thủ cạnh
tranh,…
Tâm lý, thói quen khách hàng
- Thay đổi về cấu trúc dân số:
nghề nghiệp, lứa tuổi, tôn
giáo,…
- Nhu cầu tiêu dùng và kinh
doanh của khách hàng,…
Sơ đồ 1.4: Các nhân tố bên ngoài Ngân hàng ảnh hưởng đến hiệu quả
huy động vốn
1.4.2.1. Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự chi phối và điều chỉnh chặt
chẽ của những bộ luật như: Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng nhà nước,
Luật đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính tiền tệ của quốc gia. Khi nền kinh tế
lạm phát tăng, Nhà nước sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi
suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội, lúc đó NHTM huy động vốn dễ dàng
25