Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 75 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan………………………………………………………………………. i
Lời cảm ơn…..……………………………………………………………………..
ii
Mục lục…. ……………………………………………………………………….. iii
Danh mục các chữ viết tắt và ký hiệu……………… ……………………………. vi
Danh mục các bảng……….…………………………………………………..… viii
Danh mục các hình……... …………………………………………………...…... ix
Mở đầu .............................................................................................................. 1
Chương 1. Cơ sở lý luận về hoạt động xuất nhập khẩu ......................................... 4
1. 1. Khái niệm và vai trò của xuất nhập khẩu (XNK) ...................................... 4
1.1.1. Khái niệm về XNK ............................................................................ 4
1.1.2. Vai trò của XNK đối với nền kinh tế quốc gia. .................................... 5
1.2. Hình thức xuất nhập khẩu các doanh nghiệp đóng tàu đang áp dụng .......... 9
1.2.1. Các hình thức nhập khẩu.................................................................... 9
1.2.2. Các hình thức xuất khẩu .................................................................. 15
1.3. Các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện trong công tác quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội ................... 16
1.3.1. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả sử dụng NSNN của hoạt động XNK mang
lại cho doanh nghiệp ................................................................................. 16
1.3.2. Quy trình thực hiện nghiệp vụ XNK vật tư, thiết bị của doanh nghiệp 17
1.3.3. Quy trình quản lý hoạt động XNK của doanh nghiệp ........................ 21
1.3.4. Nhân sự thực hiện hoạt động XNK................................................... 21
iii


Chương 2. Thực trạng công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị tại
các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phỏng .......................... 22
2.1. Giới thiệu chung về các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải
Phòng. ......................................................................................................... 22


2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển .................................................... 22
2.1.2. Bộ máy tổ chức doanh nghiệp .......................................................... 25
2.1.3. Ngành nghề kinh doanh, thị trường tiêu thụ sản phẩm và kết quả hoạt
động kinh doanh giai đoạn 2010-2014 ....................................................... 29
2.2. Thực trạng quản lý hoạt động XNK vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp
đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng.................................................. 33
2.2.1. Quy trình nhập khẩu vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp .................. 33
2.2.2. Quy trình quản lý hoạt động XNK tại doanh nghiệp .......................... 40
2.2.3. Nhân sự thực hiện, quản lý hoạt động XNK vật tư, thiết bị tại các doanh
nghiệp ...................................................................................................... 42
2.3. Đánh giá Công tác quản lý hoạt động XNK vật tư, thiết bị tại các doanh
nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng ...................................... 43
2.3.1. Ưu điểm. ......................................................................................... 43
2.3.2. Hạn chế trong công tác quản lý hoạt động XNK ............................... 43
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý hoat động XNK ........ 50
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng
.........................................................................................................................54
3. 1. Định hướng phát triển của các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị
trường Hải Phòng giai đoạn 2015 – 2020....................................................... 54
3.1.1. Định hướng phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2015 – 2020 .............. 54
iv


3.1.2. Định hướng mở rộng thị trường cung cấp vật tư, thiết bị ................... 55
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý hoạt động XNK vật tư, thiết bị
tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng .................. 56
3.2.1. Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động XNK...................................... 56
3.2.2. Hoàn thiện công tác tuyển dụng và đào tạo nhân sự .......................... 62
3.2.3. Thực hiện tốt công tác tham mưu cho Thủ trưởng Bộ Quốc phòng về

nguồn luật, thông tư, quyết định áp dụng cho dự án.................................... 66
3.2.4. Một số giải pháp khác liên quan đến tỷ giá hối đoái .......................... 67
Kết luận và kiến nghị ....................................................................................... 69
Tài liệu tham khảo ........................................................................................... 71

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nhập nền kinh tế quốc tế là quá trình tất yếu của sự phát triển, giúp gắn
kết nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới. Việt Nam bắt đầu tiến
trình hội nhập năm 1986. Tiến trình này được ghi nhận bằng sự kiện Việt Nam gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, chính thức tham
gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 01/1996 và Tổ chức thương mại
thế giới năm 2007. Hội nhập kinh tế quốc tế thực sự có vai trò to lớn với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam, giúp Việt Nam từng bước xóa bỏ rào
cản thương mại, thu hút đầu tư tạo tiền đề cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, về quản lý vĩ mô, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cho nền
kinh kế Việt Nam không ít thách thức. Về quản lý vi mô ở cấp doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế đòi
hỏi các doanh nghiệp phải có sự cải tổ, đổi mới trong quản lý vì xuất nhập khẩu là
hoạt động buôn bán có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Doanh nghiệp nếu
không tự đổi mới và hoàn thiện chắc chắn sẽ bị loại khỏi sân chơi trong nước cũng
như quốc tế.
Các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Tìm hiểu ngành đóng tàu Việt Nam nói chung và các doanh
nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng nói riêng cho thấy khoảng
95% vật tư, thiết bị đóng tàu là hàng hóa nhập khẩu nên đòi hỏi các doanh nghiệp
không ngừng chú trọng và nâng cao chất lượng của hoạt động xuất nhập khẩu. Đề

tài “Hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị tại
các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng” được tôi lựa
chọn nghiên cứu nhằm giúp các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường
Hải Phòng từng bước hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư,
thiết bị, từ đó tối đa hóa hiệu quả hoạt động và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
tại các doanh nghiệp.
1


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động
xuất nhập khẩu nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu tại doanh nghiệp đóng tàu
quân đội nói riêng. Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng,
chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong công tác
quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, từ đó đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị đóng tàu quân
đội trên thị trường Hải Phòng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác quản lý hoạt động xuất nhập
khẩu vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải
Phòng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thực trạng quản lý hoạt động xuất nhập
khẩu vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải
Phòng. Tuy nhiên, do hiện nay chưa doanh nghiệp nào tham gia hoạt động xuất
khẩu vật tư, thiết bị với mục đích kinh doanh nên phạm vi nghiên cứu của đề tài
chủ yếu tập trung vào hoạt động nhập khẩu vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp
đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Kết hợp lý thuyết, thực nghiệm nhằm chọn ra hướng nghiên cứu để đạt kết

quả cao nhất, phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê,
tổng hợp, phân tích, phương pháp chuyên gia, phương pháp dự báo.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động xuất nhập khẩu
và công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị tại doanh nghiệp đóng
tàu quân đội
2


Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động xuất nhập
khẩu tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng, tìm ra
những mặt hạn chế, nguyên nhân của những mặt hạn chế trong công tác quản lý
hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị của các doanh nghiệp, từ đó đề xuất các
nhóm giải pháp hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư, thiết
bị tại các doanh nghiệp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn bao gồm 03 chương như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất nhập khẩu.
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vật tư,
thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng.
Chƣơng 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý hoạt động XNK
vật tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trường Hải Phòng.

3


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1. 1. Khái niệm và vai trò của xuất nhập khẩu (XNK)
1.1.1. Khái niệm về XNK

Luật Thương mại Việt Nam số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 của Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN) định nghĩa:
“Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ
nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật” [13, tr.9].
“Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam
hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật” [13, tr.10].
Theo quy định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh XNK thì
hoạt động kinh doanh XNK phải nhằm phục vụ nền kinh tế trong nước phát triển
trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và thế mạnh sẵn có về
lao động, đất đai và các tài nguyên khác của nền kinh tế, giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và quy trình công nghệ sản
xuất, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng
các yêu cầu cơ bản và cấp bách về sản xuất, đời sống, đồng thời góp phần hướng
dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều hoà cung cầu để ổn định thị truờng trong nước.
XNK là hoạt động buôn bán trên phạm vi quốc tế và bao gồm cả một hệ thống
các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu
lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn
định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. XNK là hoạt động dễ đem lại
hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ
thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia XNK không
thể kiểm soát dễ dàng.
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh
doanh. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao
dịch với người nước ngoài, thị trường giao dịch rộng lớn khó kiểm soát, mua bán
4


qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh và chịu

tác động của sự biến động tỷ giá, hàng hoá vận chuyển qua biên giới cửa khẩu của
các quốc gia khác nhau và phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như của mỗi
quốc gia.
Hoạt động XNK được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ
khâu nghiên cứu thị trường, lựa chọn hàng hoá XNK, thương nhân giao dịch, các
bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức thực hiện hợp đồng
cho đến khi hàng hoá chuyển đến địa điểm chuyển giao quyền sở hữu, rủi ro cho
người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được
nghiên cứu đầy đủ.
Mặc dù XNK đem lại nhiều thuận lợi song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế sau:
+ Cạnh tranh không lành mạnh. Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước
một cách chặt chẽ, kịp thời XNK sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài.
Các hoạt động xấu về kinh tế xã hội như buôn lậu, trốn thuế, ép cấp, ép giá dễ phát
triển.
+ Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng các
biện pháp không lành mạnh như phá hoại, cản trở công việc của nhau…việc quản
lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn
hoá và đạo đức xã hội.
1.1.2. Vai trò của XNK đối với nền kinh tế quốc gia
1.1.2.1 Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của TMQT, nhập khẩu tác động trực
tiếp, quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu để đảm bảo cơ sở vật chất và
công nghệ hiện đại cho sản xuất, đảm bảo hàng hóa tiêu dùng mà trong nước
không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để
thay thế, nghĩa là nhập khẩu những mặt hàng mà sản xuất trong nước sẽ không có
lợi bằng nhập khẩu. Nhập khẩu sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và
khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, cơ
sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật.
5



Chính vì vậy, nhập khẩu có vai trò như sau:
Thứ nhất, nhập khẩu sẽ bổ sung cho tiêu dùng hàng hoá mà nền sản xuất
trong nước chưa đáp ứng đủ hoặc trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất
những không đảm bảo chất lượng, làm cân đối kinh tế, đảm bảo cho sự phát triển
ổn định và bền vững, khai thác tối đa khả năng và tiềm năng của nền kinh tế.
Thứ hai, nhập khẩu làm cho hàng hóa tiêu dùng trong nước đa dạng, phong
phú chủng loại hàng hoá, mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức sống của
người dân.
Thứ ba, nhập khẩu sẽ giảm thiểu hoặc xóa bỏ tình trạng độc quyền trong nền
kinh tế, xoá bỏ nền kinh tế lạc hậu tự cung, tự cấp và nhập khẩu là cầu nối cho sự
hợp tác quốc tế, làm cho nền tảng cho nền kinh tế tiên tiến, tiền đề để phát huy lợi
thế so sánh của từng quốc gia.
Thứ tư, nhập khẩu sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước không ngừng vươn lên,
không ngừng tìm tòi nghiên cứu để sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao, đảm
bảo, tăng cường sức cạnh tranh với hàng ngoại.
Thứ năm, nhập khẩu là hoạt động tất yếu trong chu kỳ sản phẩm quốc tế và sẽ
tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ, điều này tạo ra sự phát triển vượt bậc của
nền sản xuất hàng hoá, tạo ra sự cân bằng giữa các quốc gia về trình độ sản xuất,
tiết kiệm chi phí và thời gian.
Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy xuất khẩu, góp
phần nâng cao giá trị cũng như chất lượng hàng hoá xuất khẩu thông qua trao đổi
hàng hoá đối lưu, giúp Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới tham gia nhiều tổ chức kinh tế đặc biệt vững bước để tham gia tổ chức
thương mại thế giới WTO.
Do vai trò to lớn đó của nhập khẩu nên mỗi quốc gia luôn luôn cố gắng để tận
dụng tối đa, đem lại sự phát triển vượt bậc trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
để vận dụng tối đa vai trò đó là cả một vấn đề đặt ra với đường lối phát triển của
mỗi quốc gia, với những quan điểm lãnh đạo của Đảng. Để nhập khẩu vừa đảm
bảo phù hợp với lợi ích của xã hội vừa tạo ra lợi nhuận các doanh nghiệp, yêu cầu

6


đặt ra như sau:
* Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng vốn nhập khẩu:
Trong điều kiện đơn giá nhập khẩu được tính theo giá quốc tế và đồng tiền
thanh toán là đồng tiền mạnh như đô la Mỹ, đồng tiền chung châu Âu…việc nhập
khẩu phải dựa trên vấn đề lợi ích và hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của quốc gia. Do
đó, mỗi doanh nghiệp phải xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân, nghiên cứu thị trường để nhập khẩu hàng hoá thích hợp với giá cả có lợi
phục vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống cho người lao động.
* Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại:
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ kể cả thiết
bị theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải tiếp thu công nghệ hiện đại có chọn
lọc, tránh nhập những công nghệ lạc hậu mà các nước phát triển đang tìm cách thải
ra và biến các nước đang phát triển, nước nghèo thành bãi rác của thế giới.
* Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước, đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu:
Ngành công nghiệp sản xuất trong nước còn non kém trong khi lượng hàng
sản xuất trên thế giới phong phú, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt
hơn với hàng hóa tự sản xuất trong nước nhưng nếu chỉ chú trọng nhập khẩu thì sẽ
“bóp chết” sản xuất trong nước .Vì vậy, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của
nước ta trong từng thời kì để bảo hộ và mở rộng sản xuất trong nước vừa đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị
trường ngoài nước.
1.1.2.2. Đối với xuất khẩu.
Xuất khẩu là một trong những yếu tố tạo đà thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển
kinh tế đều khẳng định để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có
bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật công nghệ. Nhưng hầu

hết các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) đều thiếu vốn, kỹ thuật
công nghệ. Do vậy, câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn, công nghệ và xuất khẩu
7


giải quyết vấn đề đó.
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp
nhất là phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo
nàn lạc hậu chậm phát triển. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam cho thấy nguồn vốn
sử dụng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện nay không phải từ xuất khẩu
mà từ FDI, vay nợ các nguồn viện trợ, thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ và chỉ
một lượng nhỏ là từ hoạt động XK. Rủi ro và trách nhiệm với nước ngoài là điều
kiện bất lợi từ các khoản vay nên nguồn vốn từ hoạt động XK rất quan trọng. Xuất
khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô, tốc độ tăng trưởng của
hoạt động nhập khẩu. Ở một số nước, một trong những nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn và do đó họ coi nguồn vốn ở
bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài
chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất
khẩu – nguồn vốn duy nhất để việc trả nợ thành hiện thực .
Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới
đã và đang thay đổi mạnh mẽ, xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
quốc gia từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Xuất khẩu tạo tiền
đề cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Điều này có thể thông qua ví dụ như
khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các ngành khác như bông, kéo sợi, nhuộm,
tẩy…sẽ có điều kiện phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản
phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô. Xuất khẩu góp phần
thúc đẩy chuyên môn hoá trong ngành công nghiệp, tăng cường hiệu quả sản xuất
của từng quốc gia cả về chiều rộng và chiều sâu.

Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc
sản xuất hàng xuất khẩu, các dịch vụ phục vụ xuất khẩu.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan
8


hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao
có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững
chắc để xây dựng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các
mối quan hệ khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc
tế… ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất
khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Có thể nói xuất khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung sẽ
dẫn tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của nền kinh tế bằng
hai cách:
+ Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng nhiều hơn so với số hàng hoá được sản
xuất ra.
+ Kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động
của xuất khẩu đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau.
1.2. Hình thức xuất nhập khẩu các doanh nghiệp đóng tàu đang áp dụng
1.2.1. Các hình thức nhập khẩu
1.2.1.1. Nhập khẩu trực tiếp
Ngày nay, hầu hết các doanh nghiệp đóng tàu của Việt Nam đều có chức năng
nhập khẩu trực tiếp hàng hóa để đảm bảo vật tư, thiết bị đóng tàu nên nhập khẩu
trực tiếp là hình thức phổ biến nhất. Đối với hình thức này, doanh nghiệp đóng tàu
trực tiếp tìm kiếm nguồn hàng từ nước ngoài hoặc thông qua các kênh trung gian
(không mất phí và không phải chi trả hoa hồng), đàm phán và trực tiếp ký kết hợp
đồng nhập khẩu với đối tác nước ngoài. Trong hình thức này, người xuất khẩu

nước ngoài sẽ giao hàng trực tiếp cho doanh nghiệp đóng tàu của Việt Nam theo
các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms 2000 hoặc Incoterms 2010) đã quy
định trong hợp đồng ngoại thương. Đồng thời, doanh nghiệp đóng tàu phải tự chịu
mọi rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng của bên xuất khẩu, phải tự bỏ vốn để
kinh doanh hàng nhập khẩu và chịu mọi chi phí giao dịch, nghiên cứu thị trường,
giao nhận, lưu kho bãi, nộp các lại thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có),
9


thuế bảo vệ môi trường (nếu có) và thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam, và bên nhập khẩu chịu trách nhiệm thực hiện nghiệp vụ ngoại
thương.
Với hình thức nhập khẩu trực tiếp, trong quá trình khai báo hải quan doanh
nghiệp đóng tàu sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng của hàng hóa, đối tượng sử dụng
sản phẩm của doanh nghiệp để lựa chọn loại hình nhập khẩu phù hợp. Do hạn chế
về năng lực tài chính, năng lực quản lý và để tránh rủi ro trong quá trình đóng tàu
cho doanh nhân nước ngoài nên các doanh nghiệp đóng tàu Việt Nam thường
không ký kết hợp đồng đóng tàu cho doanh nhân nước ngoài theo hình thức chìa
khóa trao tay (turnkey), chỉ có một số nhà máy đóng tàu lớn của Việt Nam như các
nhà máy của Vinashin cũ, bao gồm nhà máy đóng tàu Hạ Long, Nam Triệu, Phà
Rừng và một số nhà máy đóng tàu của quân đội như nhà máy đóng tàu Hồng Hà,
189, Sông Thu mới đủ năng lực để đóng tàu cho doanh nhân nước ngoài theo hình
thức chìa khóa trao tay. Điều này có nghĩa rằng đối với ngành đóng tàu, loại hình
nhập khẩu “nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu” không quá phổ biến. Ngoài ra, các
nhà máy đóng tàu thường khai báo hải quan loại hình “nhập khẩu tiêu dùng” để
nhập khẩu hàng hóa sử dụng để đóng các loại tàu cho các doanh nghiệp trong nước
hoặc cơ quan nhà nước như Bộ Quốc phòng (BQP), Tổng cục dự trữ Quốc gia,
Tổng cục Hải quan…
1.2.1.2. Nhập khẩu ủy thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức thuê và

nhận làm dịch vụ nhập khẩu được thực hiện trên cơ sở hợp đồng uỷ thác nhập khẩu
giữa các doanh nghiệp, phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh
tế. Do đó, nhập khẩu ủy thác là hình thức nhập khẩu gián tiếp thông qua trung gian
thương mại. Hoạt động ủy thác nhập khẩu phải được thực hiện theo Chương 3 của
Nghị định số 187/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật
thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế và các hoạt động đại lý mua,
bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Trong hoạt động ủy thác, Bên
ủy thác nhập khẩu sẽ phải trả một khoản tiền (thường tính theo tỷ lệ % tổng giá trị
10


hàng hóa) cho bên nhận ủy thác nhập khẩu dưới hình thức phí ủy thác, quyền lợi
và nghĩa vụ của bên ủy thác, bên nhận ủy thác nhập khẩu do các bên tự thỏa thuận
trong hợp đồng ủy thác, nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa. Hình thức này giúp cho
doanh nghiệp nhận ủy thác không mất nhiều chi phí tài chính, độ rủi ro thấp nhưng
lợi nhuận từ hoạt động này không cao.
Điều kiện để thực hiện ủy thác nhập khẩu là bên ủy thác có giấy phép kinh
doanh trong nước và/hoặc giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, có hạn ngạch
hoặc có chỉ tiêu nhập khẩu, nếu uỷ thác nhập khẩu những hàng hoá thuộc hạn
ngạch hoặc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã duyệt đối với các mặt hàng có liên quan
đến cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. Trường hợp cần thiết Bộ Công thương
có văn bản cho doanh nghiệp được nhập khẩu uỷ thác theo hạn ngạch hoặc có chỉ
tiêu kế hoạch đã giao cho bên nhận uỷ thác, được cơ quan chuyên ngành đồng ý
bằng văn bản đối với những mặt hàng nhập khẩu chuyên ngành và có khả năng
thanh toán hàng hoá nhập khẩu uỷ thác. Bên nhận ủy thác phải có giấy phép kinh
doanh xuất nhập khẩu, có ngành hàng phù hợp với hàng hoá nhập khẩu uỷ thác.
Về phạm vi hoạt động nhập khẩu uỷ thác: Uỷ thác và nhận uỷ thác nhập khẩu
những mặt hàng không thuộc diện Nhà nước cấm nhập khẩu, bên uỷ thác chỉ được
uỷ thác nhập khẩu những mặt hàng nằm trong phạm vi kinh doanh đã được quy
định trong giấy phép kinh doanh trong nước, hoặc trong giấy phép kinh doanh xuất

nhập khẩu.
Nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên: Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho
bên uỷ thác các thông tin về thị trường, giá cả, khách hàng có liên quan đến đơn
hàng uỷ thác nhập khẩu. Bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác thương lượng và ký kết
hợp đồng uỷ thác. Quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của hai bên do hai bên thỏa
thuận và ghi trong hợp đồng uỷ thác. Bên uỷ thác thanh toán cho bên nhận uỷ thác
tiền hàng và các khoản phí phát sinh khi thực hiện uỷ thác.
Ngày nay, hầu hết các doanh nghiệp đóng tàu của Việt Nam đều đăng ký chức
năng nhập khẩu và có đủ khả năng về trình độ chuyên môn để tự nhập khẩu vật tư,
thiết bị đóng tàu thông dụng. Hơn nữa, từ năm 2010 trở lại đây, các Bộ, Ngành
11


tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy trình mua sắm hàng hóa phục vụ các dự án
đóng tàu có sử dụng ngân sách Nhà nước, đặc biệt là các dự án đóng tàu của Bộ
Quốc phòng. Theo đó, các dự án đóng tàu có 30 % tổng mức đầu tư từ nguồn ngân
sách Nhà nước phải thực hiện nghiêm Luật Đấu thầu 43/2013/QH13 của Quốc hội
ngày 26 tháng 11 năm 2013 (có hiệu lực áp dụng từ ngày 01 tháng 7 năm 2013) và
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu và/hoặc các quy định riêng của các
Bộ, ngành về mua sắm hàng hóa. Trong khi đó, Luật đấu thầu và quy định của các
Bộ không quy định về nhập khẩu ủy thác nên các doanh nghiệp đóng tàu gần như
không thể ký kết hợp đồng nhập khẩu ủy thác ngoại trừ các chủng loại vật tư, thiết
bị không đăng ký trong giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các mặt hàng
Nhà nước không cho phép nhập khẩu như vũ khí. Để thực hiện nhập khẩu vũ khí
phục vụ đóng tàu bảo vệ an ninh, quốc phòng, các doanh nghiệp đóng tàu như nhà
máy đóng tàu Hạ Long, Sông Thu, Ba son, (Công ty Hồng Hà được phép nhập
khẩu trực tiếp) thường ủy thác cho Công ty XNK Vaxuco - Bộ Quốc phòng nhập
khẩu. Do đó, những năm gần đây hình thức nhập khẩu này không còn được sử
dụng rộng rãi.

1.2.1.3. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nhập khẩu hàng đổi hàng là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, đây
là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Hàng hóa xuất nhập khẩu là hàng hóa
được quy định trong hợp đồng ngoại thương theo nhu cầu sử dụng của các bên.
Hoạt động này được thanh toán không phải bằng tiền mà chính là hàng hóa. Bên
nhập khẩu cũng chính là bên xuất khẩu. Hai bên sẽ tiến hành ký kết hợp đồng
ngoại thương và mở tài khoản Clearing (tài khoản bù trừ, cả hai bên của hợp đồng
hoặc chỉ cần một bên mở tài khoản Clearing) tại ngân hàng của mình và được bên
còn lại chấp nhận. Sau khi giao hàng, bên xuất khẩu sẽ không được thanh toán trực
tiếp và ngay tiền hàng, bên nhập khẩu cũng không phải trả ngay tiền hàng. Giá trị
hàng giao sẽ được ghi Có vào tài khoản Clearing của bên xuất khẩu và ghi Nợ vào
tài khoản Clearing của bên nhập khẩu. Sau khi các bên thực hiện xong nghĩa vụ
12


giao hàng, tài khoản Clearing của hai bên sẽ được bù trừ và số liệu giữa hai tài
khoản phải trùng khớp nhau. Tài khoản bên nào có số dư Có thì bên đó sẽ được
thanh toán phần dư và tài khoản bên nào có số dư nợ thì bên đó phải thanh toán.
Tiền tệ được sử dụng trong thanh toán bù trừ là đồng tiền clearing tức là đồng tiền
không được chuyển đổi ra bất kỳ đồng tiền nào khác. Đồng tiền thanh toán sau bù
trừ là đồng tiền của một trong hai bên hoặc đồng tiền của một nước thứ 3.
Ngày nay, hình thức nhập khẩu này không còn được sử dụng nhiều như trước.
Hình thức này chủ yếu được các công ty thương mại kinh doanh xuất nhập khẩu
(gom hàng) áp dụng. Đối với ngành đóng tàu, hiện nay chỉ còn Công ty đóng tàu
Hồng Hà/Bộ Quốc phòng thực hiện loại hình nhập khẩu này khi Công ty nhập
khẩu vũ khí để đóng tàu chiến cho Bộ Tư lệnh Hải quân. Mặt hàng đối lưu là cà
phê và hồ tiêu. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ chuyên môn của các bộ nhân
viên và do các ngành nghề đăng ký kinh doanh nên Công ty đóng tàu Hồng Hà
cũng không thể tự mình gom mua các mặt hàng đối lưu để xuất khẩu mà phải ký
kết hợp đồng kinh tế với một công ty XNK của Bộ Quốc phòng để thực hiện

nghiệp vụ này.
1.2.1.4. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết
kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó có ít nhất một bên là
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao
dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến kinh doanh nhập khẩu,
hướng hoạt động này có lợi cho tất cả các bên, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu
lỗ.
Đặc điểm hình thức nhập khẩu liên doanh:
Mỗi doanh nghiệp tham gia liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn
nhất định, quyền hạn và trách nhiệm mà mỗi bên phải gánh chịu tỷ lệ với số vốn
góp. Việc phân chia chi phí, nộp thuế hay chia lợi nhuận cũng theo tỷ lệ góp vốn
đã thỏa thuận. Trong liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim
ngạch nhập khẩu nhưng khi hàng về tiêu thụ thì doanh nghiệp chỉ được tính doanh
13


số trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp
trong liên doanh phải ký hai hợp đồng: hợp đồng với đối tác nước ngoài và hợp
đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác.
Đối với ngành đóng tàu, hầu hết các doanh nghiệp đóng tàu của Việt Nam
(ngoại trừ các doanh nghiệp đóng tàu nhỏ), đặc biệt là các doanh nghiệp đóng tàu
quân đội đều có chức năng, khả năng chuyên môn và năng lực tài chính để thực
hiện nhập khẩu trực tiếp và độc lập vật tư, thiết bị phục vụ sản xuất ngoại trừ các
mặt hàng mà nhà máy của bên xuất khẩu sản xuất theo đơn đặt hàng và có quy
định về số lượng đặt hàng tối thiểu như sản phẩm thép tấm đóng tàu. Thị trường
nhập khẩu thép tấm đóng tàu của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, các nhà máy
cán thép tấm Trung Quốc chỉ chạy dây truyền sản xuất khi có đơn đặt hàng của
mỗi khách hàng hoặc tất các các khách hàng có cùng nhu cầu đảm bảo về số lượng
sản xuất tối thiểu. Để đặt mua thép tấm cho các dự án nhỏ, các doanh nghiệp đóng

tàu Việt Nam trên cùng địa bàn hoặc ở các tỉnh lân cận thường liên doanh nhập
khẩu như Công ty TNHH MTV đóng tàu Hồng Hà và Công ty đóng tàu Hạ Long.
1.2.1.5. Nhập khẩu gia công
Nhập khẩu gia công là hình thức nhập khẩu theo đó bên nhập khẩu (là bên
nhận gia công) tiến hành nhập khẩu nguyên vật liệu từ phía người xuất khẩu (bên
đặt gia công) để tiến hành gia công theo những quy định trong hợp đồng gia công
ký kết giữa hai bên. Tuy nhiên, theo Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015
của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, hàng hóa
nhập khẩu trực tiếp phục vụ hợp đồng gia công không do bên đặt gia công cung
cấp cũng được coi là hàng hóa nhập khẩu gia công và được thanh khoản thuế theo
quy định. Đây là hình thức nhập khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp đóng tàu xuất
khẩu của Việt Nam như Công ty đóng tàu Hạ Long, Công ty đóng tàu Sông Cấm,
Công ty đóng tàu 189, Công ty đóng tàu Hồng Hà, Công ty đóng tàu Sông Thu,
Công ty đóng tàu Ba Son, Công ty đóng tàu Phà Rừng… Nguyên vật liệu nhập
khẩu gia công chủ yếu là các vật tư chính, máy móc thiết bị. Khi nhập khẩu, doanh
14


nghiệp nhận gia công được thanh khoản toàn bộ số tiền thuế nhập khẩu sau khi làm
thủ tục thực xuất hàng hóa gia công xuất khẩu. Doanh nghiệp sẽ không phải nộp
ngay tiền thuế giá trị gia tăng mà số tiền này sẽ được miễn khi doanh nghiệp làm
thủ tục thực xuất trong thời gian quy định.
Ngoài những hình thức nhập khẩu nêu trên mà các doanh nghiệp đóng tàu của
Việt Nam đang sử dụng, hiện nay khi nền kinh tế của Việt Nam phát triển với sự ra
đời của các doanh nghiệp thương mại, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa thì
hình thức tạm nhập tái xuất trở lên khá phổ biến ở Việt Nam. Hàng hóa khi tạm
nhập vào Việt Nam để tái xuất là đối tượng được xét hoàn thuế nhập khẩu (theo
Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính) trừ phi hàng hóa
đó được thay đổi mục đích sử dụng sau khi tạm nhập. Thời hạn tái xuất hàng hóa

tạm nhập là 60 ngày (quy định tại Nghị định số 187/2013/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động mua bán háng hóa Quốc tế
và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài)
kể từ ngày hoàn thiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa tạm nhập.
1.2.2. Các hình thức xuất khẩu
Hiện nay, toàn ngành đóng tàu của Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào có
thể kinh doanh xuất khẩu vật tư, thiết bị đóng tàu. Lý do chủ yếu là nền sản xuất
công nghiệp nặng của Việt Nam chưa phát triển, chưa thể sản xuất vật tư, thiết bị
phục vụ cho ngành. Hơn nữa, mặc dù có chức năng xuất khẩu nhưng năng lực khai
thác thị trường nhập khẩu và thị trường xuất khẩu trong hoạt động thương mại của
các doanh nghiệp còn quá hạn chế. Vì vậy, hình thức xuất khẩu duy nhất của các
doanh nghiệp này là tạm xuất, tái nhập với mục đích duy nhất là phục vụ hoạt
động sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp đối với hàng hóa xuất trả để bảo hành.
Theo khoản 2 Điều 29 Luật Thương mại Việt Nam số 36/2005/QH11:
Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra nước ngoài
hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt
Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hóa đó vào Việt Nam [13, tr.10].
15


Hàng hóa tạm xuất, tái nhập của các doanh nghiệp đóng tàu chủ yếu là hàng
nhập khẩu bị lỗi, hàng hóa gửi đi bảo hành tại nơi sản xuất. Hàng hóa tạm xuất
thuộc đối tượng chịu thuế, sau khi tái nhập người khai hải quan thực hiện thủ tục
hoàn thuế, không thu thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu cho tờ khai tạm xuất.
1.3. Các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện trong công tác quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu vật tƣ, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội
Đối với các doanh nghiệp đóng tàu tư nhân, hoạt động XNK vật tư, thiết bị
phục vụ đóng mới là một yếu tố chính mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đối với doanh nghiệp đóng tàu quân đội, lợi nhuận mang lại cho doanh

nghiệp từ hoạt động này rất nhỏ do phương pháp quyết toán giá thành sản phẩm
với chủ đầu tư. Hoạt động XNK vật tư, thiết bị chủ yếu tác động đến hiệu quả sử
dụng NSNN. Vì vậy, mức độ hoàn thiện trong công tác quản lý hoạt động XNK vật
tư, thiết bị tại các doanh nghiệp đóng tàu quân đội được đánh giá dựa trên những
tiêu chí sau:
1.3.1. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả sử dụng NSNN của hoạt động XNK
Như đã trình bày ở trên, đối với các doanh nghiệp đóng tàu quân đội, hiệu quả
kinh tế của hoạt động XNK vật tư, thiết bị không nằm ở đơn giá nhập khẩu vật tư,
thiết bị vì đơn giá quyết toán của vật tư, thiết bị là đơn giá thực nhập vật tư, thiết bị
đó tính theo giá CIP/CIF và không bao gồm thuế NK và thuế GTGT (hàng hóa
phục vụ ANQP không chịu thuế GTGT và được miễn thuế NK theo Thông tư số
219/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính) mà nằm ở việc giảm thiểu các chi phí tài
chính liên quan đến việc lưu kho bãi, hạn chế và tận dụng vật tư, thiết bị tồn kho,
thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện thông
quan hàng hóa nhập khẩu trước khi hợp đồng nhập khẩu được cấp phép thực hiện.
Vì vậy, thực hiện tốt quy trình XNK là yếu tố đảm bảo hiệu quả kinh tế mà hoạt
động XNK mang lại cho doanh nghiệp. Quá trình lựa chọn nhà thầu ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả sử dụng NSNN ở cấp độ doanh nghiệp. Đơn giá dự thầu (so
sánh với Thiết kế kỹ thuật – Tổng mức đầu tư (TKKT – TMĐT)), chất lượng hàng
hóa nhập khẩu và sự biến động của tỷ giá ngoại tế (chi phí tài chính được tính vào
16


giá thành của sản phẩm) là yếu tố tác động đến hiệu quả sử dụng NSNN của doanh
nghiệp.
1.3.2. Quy trình thực hiện nghiệp vụ XNK vật tƣ, thiết bị của doanh nghiệp
Quy trình này mô tả chi tiết các bước trong hoạt động XNK của doanh nghiệp.
Việc thực hiện đúng quy trình XNK mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng
NSNN trong hoạt động XNK của doanh nghiệp. Do đặc thù là doanh nghiệp đóng
tàu quân đội nên quy trình quy trình XNK vật tư, thiết bị của các doanh nghiệp này

phức tạp hơn các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp quốc doanh khác và bao
gồm các bước sau:
1.3.2.1. Nghiên cứu và mở rộng thị trƣờng nhập khẩu vật tƣ, thiết bị
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là sự thu thập và phân tích các dữ liệu về thị
trường nhập khẩu nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các quyết định nhập khẩu của doanh
nghiệp. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu bao gồm thu thập thông tin về ngành
hàng, về nhà sản xuất, nhà cung cấp, giá cả và sự biến động về giá cả của hàng hóa,
uy tín của nhà cung cấp, nhà sản xuất trên thị trường, tình hình chính trị của khu
vực để từ đó phân tích, so sánh, đánh giá thị trường. Mục đích của việc nghiên cứu
thị trường nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu đúng chủng loại mà doanh nghiệp
cần nhập khẩu với mức giá cả hợp lý và đảm bảo chất lượng, tiến độ sản xuất của
doanh nghiệp với mức độ rủi ro thấp nhất.
Nền công nghiệp nặng của Việt Nam, đặc biệt là nền công nghiệp sản xuất vật
tư, thiết bị phục vụ ngành công nghiệp đóng tàu chưa phát triển. Hầu hết vật tư,
thiết bị của ngành đóng tàu phải nhập khẩu, thị trường trong nước chỉ cung cấp
được một số vật tư phụ như bu lông, ốc vít... Do đó, ngành đóng tàu của nước ta
nói chung, ngành công nghiệp đóng tàu quân đội nói riêng luôn thụ động và gần
như phụ thuộc tuyệt đối vào thị trường nhập khẩu vật tư, thiết bị của ngành. Thị
trường nhập khẩu vật tư, thiết bị đóng vai trò quan trọng đối với ngành đóng tàu
của Việt Nam, đảm bảo yếu tố đầu vào của sản xuất nên công tác nghiên cứu và
mở rộng thị trường càng trở nên quan trọng. Hơn nữa, tìm kiếm và mở rộng thị
trường để đảm bảo tính cạnh tranh về giá, về chất lượng và các điều kiện thương
17


mại giữa các nhà cung cấp cho doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ có nhiều lựa chọn
hơn về nguồn hàng và từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước.
1.3.2.2. Lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu
Lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu là khâu đầu tiên trong quá trình lựa chọn nhà
thầu và là cơ sở để thực hiện các bước tiếp theo trong quy trình XNK vật tư, thiết

bị của doanh nghiệp. Đối với các dự án trọng điểm và gấp rút, doanh nghiệp được
Thủ trưởng BQP phân cấp, ủy quyền lập và phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu
và báo cáo chủ đầu tư, Bộ Quốc phòng để làm cơ sở theo dõi thực hiện. Đối với
các dự án không yêu cầu gấp về tiến độ, Thủ trưởng BQP sẽ phê duyệt kế hoạch
lựa chọn nhà thầu trên cơ sở đề xuất của chủ đầu tư. Kế hoạch lựa chọn nhà thầu
lập không phù hợp với điều kiện khai thác hàng hóa thực tế trên thị trường sẽ gây
khó khăn cho doanh nghiệp và kế hoạch lựa chọn nhà thầu không khoa học sẽ gây
lãng phí cho doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng NSNN. Việc lập kế hoạch
lựa chọn nhà thầu phải tuân theo Luật Đấu thầu hiện hành và Nghị định quy định
việc thực hiện Luật Đấu thầu, các thông tư hướng dẫn có liên quan.
1.3.2.3. Lập kế hoạch nhập khẩu vật tƣ, thiết bị
Mục đích của việc lập kế hoạch nhập khẩu vật tư, thiết bị là thiết lập trình tự
mua sắm vật tư thiết bị cho dự án nhằm đảm bảo khả năng cung ứng theo đúng tiến
độ sản xuất của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí tài chính và sử
dụng có hiệu quả nguồn NSNN. Kế hoạch nhập khẩu vật tư, thiết bị không chính
xác sẽ làm chậm tiến độ sản xuất, hoàn thiện, bàn giao sản phẩm cho chủ đầu tư và
sẽ làm tăng các chi phí phát sinh không được quyết toán vào giá thành sản phẩm
mà doanh nghiệp phải tự chi trả như tiền lãi ngân hàng phát sinh sau thời gian bàn
giao sản phẩm theo quy định trong hợp đồng đóng tàu cho các khoản vay thanh
toán… Do đó, kế hoạch nhập khẩu vật tư, thiết bị đóng tàu trong các nhà máy đóng
tàu quân đội luôn đòi hỏi độ chính xác cao.
Kế hoạch nhập khẩu của doanh nghiệp phải được lập dựa trên quy trình đóng
tàu (trình tự đóng tàu), tiến độ đóng tàu và dựa trên TKKT – TMĐT của từng sản
18


phẩm đã được BQP phê duyệt, nêu rõ vật tư, thiết bị cần nhập khẩu, thị trường
nhập khẩu dự kiến, đơn giá nhập khẩu dự kiến của từng vật tư, thiết bị, thời gian
dự kiến hoàn thiện thủ tục xin phê duyệt và cấp phép thực hiện hợp đồng nhập
khẩu, thời gian dự kiến hàng hóa nhập khẩu được đưa về doanh nghiệp, thời gian

dự kiến hoàn thiện thủ tục miễn thuế NK.
Có thể thấy rằng kế hoạch nhập khẩu vật tư, thiết bị của doanh nghiệp cho
từng dự án đóng tàu có vai trò quan trọng đối với sự thành công của dự án. Ngoài
chức năng định hướng thực hiện nhập khẩu vật tư, thiết bị đảm bảo sản xuất, kế
hoạch nhập khẩu của doanh nghiệp đóng tàu quân đội là một yếu tố đảm bảo hiệu
quả sử dụng NSNN.
1.3.2.4. Lựa chọn nhà thầu cung cấp vật tƣ, thiết bị, đàm phán, ký kết hợp
đồng nhập khẩu
Lựa chọn nhà thầu cung cấp vật tư, thiết bị đóng tàu quân đội được thực hiện
theo Luật Đấu thầu 43/2013/QH13 của Quốc hội ngày 26 tháng 11 năm 2013 (có
hiệu lực áp dụng từ ngày 01 tháng 7 năm 2013), Nghị định số 63/2014/NĐ-CP
ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật đấu thầu và/hoặc các quy định riêng của các Bộ, ngành về mua sắm hàng
hóa và Quyết định số 84/QĐ-BQP ngày 15/8/2007 của Bộ Quốc phòng ban hành
quy chế xuất, nhập khẩu, mua sắm hàng hóa quốc phòng. Việc thực hiện Luật Đấu
thầu tương đối phức tạp và phải tuân thủ đúng quy định thời gian tối thiểu cho từng
bước trong đấu thầu nên hiểu, nắm rõ và thực hiện đúng, đầy đủ các quy định về
lựa chọn nhà thầu và mua sắm hàng hóa quốc phòng giúp doanh nghiệp cung cấp
vật tư, thiết bị theo tiến độ đóng tàu.
“Đám phán thương mại là quá trình mà đối thoại giữa người bán và người
mua nhằm đạt được những thỏa thuận, nhất trí về những nội dung của hợp đồng
ngoại thương để sau quá trình đàm phán người mua và người bán có thể đi đến ký
kết hợp đồng ngoại thương” [4, tr.108]. Việc đàm phán hợp đồng phải tuân thủ
“Không tiến hành thương thảo đối với các nội dung mà nhà thầu đã chào thầu theo
19


đúng yêu cầu của hồ sơ mời thầu” [12, tr.66] và “Việc thương thảo hợp đồng không
được làm thay đổi đơn giá dự thầu của nhà thầu sau khi sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch
và trừ đi giá trị giảm giá (nếu có)” [12, tr.66]. Các bên chỉ đàm phán những nội

dung chưa có trong hồ sơ mời thầu. Hợp đồng ngoại thương là cơ sở để các bên
thực hiện, mọi tranh chấp phát sinh trong hợp đồng ngoại thương đều được giải
quyết trên cơ sở hợp đồng và tuân thủ các phong tục, tập quán và thông lệ quốc tế
về mua bán quốc tế. Vì vậy, để tránh mọi rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng
ngoại thương, các doanh nghiệp cần quy định chặt chẽ nội dung của hồ sơ mời
thầu và thực hiện tốt công tác đàm phán, thương thảo hợp đồng.
1.3.2.5. Trình chủ đầu tƣ, Bộ Quốc phòng phê duyệt, cấp phép thực hiện hợp
đồng nhập khẩu
Quyết định phê duyệt hợp đồng nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, giấy xác
nhận hàng quốc phòng do chủ đầu tư và Bộ Quốc phòng cấp là cơ sở để hợp đồng
ngoại thương trở nên có hiệu lực. Thông thường, thời gian giao hàng được các bên
quy định tính từ thời điểm tạm ứng cho bên bán hoặc mở thư tín dụng. Tuy nhiên,
các Thông tư của Bộ Quốc phòng quy định việc tạm ứng, mở thư tín dụng chỉ được
thực hiện sau khi hợp đồng nhập khẩu của doanh nghiệp được Bộ Quốc phòng
thẩm định, phê duyệt và cấp phép thực hiện nhằm tránh rủi ro cho các doanh
nghiệp đóng tàu. Do đó, sai sót trong các khâu lựa chọn nhà thầu, đàm phán và ký
kết hợp đồng sẽ ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng, tiến độ sản xuất của doanh
nghiệp.
1.3.2.6. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu và thủ tục miễn thuế nhập khẩu
Hợp đồng nhập khẩu có hiệu lực sau khi được phê duyệt và cấp phép thực
hiện. Thực hiện hợp đồng đối với doanh nghiệp nhập khẩu bao gồm tạm ứng, thanh
toán, theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, hoàn thiện thủ tục hải quan và giao nhận
hàng hóa. Để đảm bảo tiến độ cung ứng vật tư, thiết bị cho sản xuất, doanh nghiệp
đóng tàu cần thực hiện đúng, đủ trách nhiệm của mình theo hợp đồng. Việc miễn

20


thuế nhập khẩu hoàng hóa phục vụ quốc phòng thực hiện sau khi hàng hóa đã
thông quan theo quy định của Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính.

1.3.3. Quy trình quản lý hoạt động XNK của doanh nghiệp
Quản lý là đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận
của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và thay đổi
các nguồn tài nguyên. Như vậy, mục đích quản lý hoạt động XNK tại doanh nghiệp
là việc định hướng, hướng dẫn thực hiện, kiểm soát việc thực hiện quy trình XNK
của các bộ phận để đảm bảo hoạt động XNK vật tư, thiết bị tại doanh nghiệp được
thông suốt, cung ứng kịp thời vật tư, thiết bị cho sản xuất, giảm thiểu các chi phí
tài chính, nâng cao hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp và hiệu quả sử dụng NSNN.
Cách thức quản lý và trình độ chuyên môn của người quản lý là yếu tố quan trọng
trong quản lý hoạt động XNK của doanh nghiệp.
1.3.4. Nhân sự thực hiện hoạt động XNK
Trình độ chuyên môn và năng lực công tác của mỗi thành viên trong Công ty
là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trong kinh doanh. Xét về tiềm lực của
doanh nghiệp thì con người là vốn quý nhất. Một đội ngũ vững vàng về chuyên
môn, kinh nghiệm trong giao thương quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước
biến động của thị trường và say mê nhiệt tình trong công việc luôn là đội ngũ lý
tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Để có lực lượng nhân sự có trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của
công việc thì công tác tuyển dụng nhân sự là yếu tố quan trọng. Tuyển dụng nhằm
sàng lọc và lựa chọn những ứng viên sáng giá và phù hợp nhất với vị trí tuyển
dụng. Tuy nhiên, đào tạo là bước giúp các ứng viên đã được tuyển dụng thích ứng
với môi trường làm việc, đáp ứng được yêu cầu của công việc. Tạo môi trường làm
việc thuận lợi, chế độ lương thưởng và cơ hội thăng tiến trong công việc là nhân tố
giúp doanh nghiệp giữ được người tài phục vụ lâu dài cho doanh nghiệp và khích
lệ tinh thần cống hiến cho công việc tại doanh nghiệp.

21


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

XUẤT NHẬP KHẨU VẬT TƢ, THIẾT BỊ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
ĐÓNG TÀU QUÂN ĐỘI TRÊN THỊ TRƢỜNG HẢI PHÒNG
2.1. Giới thiệu chung về các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị trƣờng
Hải Phòng
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Thị trường Hải Phòng có 14 doanh nghiệp đóng tàu trong đó có 4 doanh
nghiệp là doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc Bộ Quốc phòng và được giao nhiệm
vụ đóng tàu quân đội phục vụ nhiệm vụ an ninh, quốc phòng. Tuy có xuất phát
điểm tương đối giống nhau nhưng các doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị
trường Hải Phòng có sự phát triển không đồng đều do mỗi lãnh đạo doanh nghiệp
có định hướng phát triển doanh nghiệp khác nhau. Dưới đây là phần tóm tắt quá
trình hình thành và phát triển của bốn doanh nghiệp đóng tàu quân đội trên thị
trường Hải Phòng.
2.1.1.1. Công ty TNHH MTV đóng tàu Hồng Hà (Công ty đóng tàu Hồng Hà)
Công ty đóng tàu Hồng Hà là doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng/Bộ Quốc phòng có trụ sở tại Thôn Phí Xá, Xã Lê Thiện,
Huyện An Dương, Thành phố Hải Phòng, được thành lập theo Quyết định số
0200290105 ngày 07/10/2010 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng cấp. Tiền thân
của Công ty là Ban Ca nô được thành lập ngày 30/10/1965 với nhiệm vụ sửa chữa
các sản phẩm vận tải phục vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Sau ngày đất nước thống
nhất, Công ty được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ sửa chữa và đóng mới các
phương tiện thủy để phục vụ vận chuyển quân nhu và đảm bảo tính sẵn sàng chiến
đấu cho lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam. Đến năm 2010, Công ty
chính thức được chuyển đổi mô hình sang Công ty TNHH MTV đóng tàu Hồng Hà
(gọi tắt là Công ty đóng tàu Hồng Hà) với số vốn điều lệ là 334.547.000.000 đồng
và khoảng 1.200 CBCNV. Hiện nay, Công ty đóng tàu Hồng Hà đang từng bước
đẩy mạnh đóng tàu có hàm lượng công nghệ cao, kỹ thuật phức tạp, từ các tàu cho
22



×