MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1 Cơ sở lý luận
2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.3 Các giải pháp thực hiện
2.4 Hiệu quả của sáng kiến
3. Kết luận, kiến nghị
TRANG
Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 9
Trang 11
1
1. Mở đầu:
1.1 Lí do chọn đề tài:
Mỗi một môn khoa học cơ bản ở trường THCS đòi hỏi cần có một phương pháp,
cách thức truyền thụ khác nhau. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ nội
dung yêu cầu và cả tâm sinh lí của đối tượng học sinh, quá trình, hình thức giảng
dạy môn học đó. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy đòi hỏi phải có phương
pháp, cách thức nào đó để truyền đạt kiến thức môn học đến người học một cách
hiệu quả nhất.
Phương pháp xuất phát từ thuật ngữ Hy Lạp “Methodo”, nghĩa là “con đường
nghiên cứu”, cách thức nhận thức”. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, “phương pháp”
là hình thức tìm hiểu thấu đáo về mặt lí luận và thực tiễn khách quan, xuất phát từ
quy luật vận động của khách thể nghiên cứu. Do đó, phương pháp là một hệ thống
các nguyên tắc điều khiển hoạt động cải thiện hiện thực hay hoạt động nhận thức
của con người.
Đối với việc dạy học lịch sử, đòi hỏi chúng ta cũng phải có biện pháp, cách thức
nào đó để đạt được hiệu quả giáo dưỡng và giáo dục tốt nhất, cao nhất.
Qua gần 10 năm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, bộ sách giáo khoa mới
khẳng định nhiều ưu điểm hơn so với sách giáo khoa cũ. Việc đổi mới phương pháp
dạy học đang được tiến hành đồng bộ và thu được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy
nhiên, một thực tế mà chúng ta đều biết về việc kết quả thi tuyển sinh vào các
trường Đại học của môn lịch sử quá thấp. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân về phương pháp học tập lịch sử còn lạc hậu, không được đổi mới kịp
thời so với xu hướng hiện đại hoá của đất nước ta hiện nay.
Thực trạng trên đặt ra nhiệm vụ cho các thầy cô dạy Lịch sử ở các trường phổ
thông là phải tạo ra hứng thú học tập môn Lịch sử cho học sinh. Có rất nhiều biện
pháp, cách thức nhằm nâng cao chất lượng giờ học Lịch sử mà giáo viên đã thực
hiện. Qua mấy năm trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử lớp 8 theo tinh thần đổi mới,
bằng những kinh nghiệm ít ỏi tích luỹ được, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “Sử
dụng phương pháp kể chuyện trong giờ học Lịch sử lớp 8 nhằm tạo hứng thú
học tập cho học sinh trường PTDTBT THCS Trung Tiến”.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử, tạo sự hấp dẫn, sự dễ hiểu,
nắm vững nội dung bài học bằng những câu chuyện.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp kể truyện trong giờ dạy học Lịch sử với mục đích tạo hứng
thú học tập cho học sinh.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành làm đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Kiểm tra đánh giá.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Thao giảng, dự giờ, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy.
2
- Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học.
- Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung.
- Kiểm tra đánh giá cuối cùng và hoàn chỉnh công việc
2. Nội dung:
2.1 Cơ sở lý luận:
“Sử dụng phương pháp kể chuyện trong giờ học Lịch sử lớp 8 nhằm tạo hứng
thú học tập cho học sinh trường PTDTBT THCS Trung Tiến”. Là một trong
những khâu quan trọng trong quá trình dạy học môn lịch sử. Vì từ những câu
chuyện học sinh mới hiểu được nội dung bài học. Chính vì vậy,tôi chú trọng rèn
luyện cho học sinh kỹ năng kể chuyện để học sinh hiểu bài một cách sâu sắc.
Như chúng ta biết Lịch sử có văn hoá, văn hoá gắn liền với các sự kiện lịch
sử, trong các sự kiện lịch sử thường xuất hiện các nhân vật lịch sử. Ngày trước, khi
vô tuyến truyền hình, phim truyện chưa nhiều như bây giờ thì các tích truyện, nhân
vật lịch sử trong các triều đại phong kiến, những nhà cách mạng qua hai cuộc
kháng chiến chồng Pháp và chống Mỹ được đông đảo mọi người biết đến từ chính
những bộ phim, vở kịch, chèo, cải lương ít ỏi đó. Nhưng ngày nay công chúng hiểu
biết về lịch sử nhân loại cũng như lịch sử dân tộc ít nhiều có giảm đi, điều này phải
chăng dân chúng không yêu lịch sử nữa? Không đúng bởi đông đảo mọi người vẫn
yêu lịch sử dân tộc với những bản hùng ca dựng nước và giữ nước, nhưng cái khó ở
đây là nếu trước kia tuồng, chèo, phim ảnh, đến với công chúng vừa ít lại phần
nhiều là theo các tích cổ truyền thống, do vậy kiến thức về lịch sử của họ nhiều
hơn, còn ngày nay nguồn thông tin đa chiều, trong khi đó các tác phẩm nghệ thuật
lấy đề tài lịch sử lại không thành công, không lôi cuốn được người xem đến với
mình, từ đó dẫn tới một chỗ trống qua kênh thông tin đó.
Và có lẽ điểm thi môn Lịch sử của học sinh phổ thông trong thời gian vừa
qua quá thấp, đã là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả xã hội và những người làm giáo
dục. Có nhiều ý kiến đổ lỗi do chương trình, sách giáo khoa lịch sử chưa được hoàn
chỉnh. Sách còn đề cập tới quá nhiều vấn đề nhưng thời gian trong một tiết học 45
phút không đủ để truyền tải... Và những kiến thức trong sách giáo khoa được xem
là phần cứng của giáo trình, giáo viên không được tùy tiện sửa đổi, điều này cũng
khiến giáo viên thụ động hoàn toàn khi lên lớp.
Một trong những nguyên nhân của việc dạy và học Lịch sử kém hiệu quả nữa
là học sinh không ham mê môn học này là do việc học của học sinh lâu nay là học
chay và dạy chay. Chỉ đơn cử như việc cho học sinh xem phim về lịch sử cũng là
rất hạn chế chứ chưa nói đến việc đi thực tế các địa danh lịch sử. Lên lớp giáo viên
cũng khuyến khích học sinh đối thoại, nhưng tư liệu tham khảo thì lại quá thiếu, thế
nên dù muốn, học sinh cũng khó có thể tìm đọc và thảo luận theo yêu cầu của giáo
viên. Bên cạnh đó, nhiều học sinh và phụ huynh vẫn coi lịch sử là môn phụ nên rất
xem thường.
Vả lại trong tiềm thức mỗi chúng ta ngay từ thưở ấu thơ đã thích được lắng
nghe ông bà, cha mẹ kể chuyện cho nghe, nhất là chuyện kể về các vị anh hùng…
Nên trong quá trình giảng dạy giáo viên nên tăng cường lồng ghép kể chuyện về
nhân vật lịch sử có liên quan đến nội dung bài học cho học sinh, các nhân vật với
3
những thành tích hay chiến công của mình sẽ gây ấn tượng mạnh với học sinh, làm
các em ngưỡng mộ và ghi nhớ về nhân vật lịch sử này. Từ việc ghi nhớ nhân vật
lịch sử các em sẽ dễ dàng nhớ lại các sự kiện lịch sử có liên quan đến nhân vật đó
và nhớ lại được nội dung bài học.
2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
Thực trạng vấn đề:
- Lịch sử là môn học đòi hỏi học sinh phải tái hiện một cách chính xác, lôgíc các
sự kiện, nhân vật lịch sử…dẫn đến học sinh thường có tâm lí không thích học môn
này. Hầu hết học sinh chưa ham học, chưa thực sự yêu thích bộ môn lịch sử, chỉ đối
phó tức thời, năng lực tiếp thu cũng hạn chế, điều kiện học tập của các em chưa đáp
ứng được yêu cầu nội dung và đổi mới phương pháp dạy học.
+ Giáo viên còn lạm dụng quá việc kể chuyện, đưa vào bài học những chi tiết
không liên quan hoặc những chi tiết rườm rà không cần thiết, biến giờ học Lịch sử
thành tiết kể chuyện Lịch sử làm cho học sinh chỉ chú ý vào câu chuyện mà không
chú ý vào nội dung bài học.
+ Ngôn ngữ kể chuyện lịch sử của giáo viên chưa thật sự hấp dẫn, lôi cuốn được
học sinh, chưa khắc sâu nên học sinh nghe xong trên lớp về nhà là quên ngay.
+ Trong quá trình kể chuyện, giáo viên chưa đặt câu hỏi liên hệ thực tế với nội
dung, hay tình tiết nào đó của chuyện nên học sinh không phát huy được khả năng
tư duy của học sinh.
+ Giáo viên chưa kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp kể chuyện với các phương
pháp dạy học lịch sử khác.
- Chất lượng học sinh không đồng đều nên trong khi thực hiện đề tài phải có
nhiều yêu cầu khác nhau phù hợp với học sinh.
Qua điều tra khảo sát thực trạng việc chuẩn bị bài mới môn Lịch sử, đặc biệt là
việc tìm hiểu các câu chuyện lịch sử có liên quan tới nội dung bài học của học sinh
khối 8 ở nhà trường PTDTBT THCS Trung Tiến Trung tôi thấy:
- Đại đa số học sinh khối 8 không có hứng thú học tập môn Lịch sử.
- Phần lớn học sinh lớp 8 được hỏi đều chưa có phương pháp học bài và chuẩn bị
bài tốt cho môn Lịch sử.
Kết quả khảo sát đầu năm như sau:
Tổng
số
23
Giỏi
SL
0
%
0
Kết quả điều tra
Khá
T Bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
2
8,69
12
47,84
6
26,08
Kém
SL
%
4
17,39
Nhận xét : - Tỷ lệ học sinh đạt điểm trung bình và dưới trung bình còn cao.
- Tỷ lệ học sinh khá, giỏi còn thấp.
Từ những thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn cải
tiến nội dung và phương pháp như sau:
2.3 Các giải pháp thực hiện:
4
- Trước hết, giáo viên phải xác định vị trí, ý nghĩa của việc kể chuyện lịch sử
trong dạy học lịch sử. Bởi vì phương pháp kể chuyện trong giờ học lịch sử nhằm
tạo hứng thú cho học sinh, góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, là chỗ
dựa để học sinh hiểu biết sâu sắc, nhớ lâu nội dung bài học.
- Giáo viên phải tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học
sinh trong quá trình tìm hiểu nôị dung lịch sử được phản ánh qua câu chuyện
lịch sử. Sau khi kết thúc một bài học ở trên lớp, giáo viên hướng dẫn học sinh về
nhà ( tuỳ vào từng bài) tự tìm hiểu các câu chuyện về các nhân vật, sự kiện lịch
sử…trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đến khi đến lớp học bài mới, học
sinh sẽ có dịp thảo luận (dưới sự hướng dẫn của giáo viên) những gì các em đã
chuẩn bị, tạo nên một không khí học tập sôi nổi, tạo tâm lí tốt cho học sinh khi học
tập, phát huy được tính tích cực, độc lập của học sinh. Muốn vậy, việc chuẩn bị ở
nhà của giáo viên là vô cùng cần thiết.
- Chuẩn bị của giáo viên: Đối với công việc dạy học, việc chuẩn bị ở nhà của
giáo viên là vô cùng cần thiết. Giáo án như bản thiết kế cho tiết học. Ngoài việc xác
định mục đích, yêu cầu, chuẩn bị các tài liệu liên quan tới bài dạy, dự định các
phương pháp sử dụng trong tiết dạy, người giáo viên cần dự định kiến thức cho bài
dạy. Đối với những bài nào có liên quan tới các câu chuyện lịch sử thì giáo viên cần
phải sưu tầm, dự kiến sẽ áp dụng vào mục nào, thời gian trong bài học…Tuyệt đối
giáo viên chỉ sử dụng các câu chuyện lịch sử bổ sung cho tiết học sinh động chứ
không biến giờ lịch sử thành tiết kể chuyện lịch sử.
- Sưu tầm tài liệu
Để nâng cao chất lượng môn lịch sử mỗi giáo viên cần phải trau dồi kiến thức,
tích cực sưu tầm sách báo, đọc các loại tài liệu tham khảo lịch sử, các câu chuyện
lịch sử và luyện ngôn ngữ kể chuyện sao cho thật sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn học
sinh và thực sự hỗ trợ cho tiết dạy đạt kết quả cao nhất.
Các biện pháp tổ chức thực hiện:
*.Các nguyên tắc khi sử dụng:
- Kể chuyện phải vừa sức tiếp thu của học sinh.
- Đối với học sinh, khi giáo viên kể chuyện còn là dịp để giáo viên kiểm tra kiến
thức học sinh và rèn luyện năng lực tư duy, phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
- Kể chuyện có thể kết hợp với việc sử dụng các loại đồ dùng trực quan hay các
phương pháp khác để phát huy hiệu quả dạy học lịch sử.
- Không phải bất kì bài học nào cũng kể chuyện, mà phải tuỳ vào nội dung bài
học mà vận dụng phù hợp nhất.
Cách thức sử dụng phương pháp kể chuyện trong giờ học lịch sử. Sử dụng như
thế nào cho đạt hiệu quả cao nhất?
*. Giáo viên phải lựa chọn câu chuyện phù hợp với nội dung và mục tiêu bài
học:
Có thể cắt giảm những chi tiết không liên quan, chi tiết rườm rà không cần
thiết. Không phải bất kì bài học nào cũng kể chuyện, mà tuỳ vào nội dung bài học
mà vận dụng phù hợp nhất. Không nên lạm dụng quá việc kể chuyện làm loãng
không khí học tập, hoặc lãng phí thời gian tiết học.
5
a. Khi trình bày diễn biến của một cuộc khởi nghĩa, một cuộc kháng chiến, hay
một chiến dịch…
Khi học các bài có nội dung liên quan đến diễn biến của một cuộc khởi nghĩa,
cuộc kháng chiến hay chiến dịch, giáo viên ngoài sử dụng lược đồ, bản đồ hay sa
bàn trong quá trình tường thuật sự kiện, giáo viên kết hợp kể những câu chuyện liên
quan đến sự kiện đang trình bày, điều này có tác dụng giúp học sinh ghi nhớ tốt hơn
diễn biến đó.
- Ví dụ khi dạy Bài 24: Tiết 36-37: “Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm
1873”
( tiết 2), phần II. Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến năm 1873, giáo
viên kể chuyện về tinh thần chiến đấu kiên quyết của nhân dân ta, bất chấp sự ngăn
cản của triều đình bằng câu chuyện Trương Định phúc đáp thư của vua Tự Đức: “
Triều đình hoà nghị thì cứ việc hoà nghị, còn việc Định thì Định cứ làm, Định thà
chịu tội với triều đình chứ nhất định không chịu ngồi nhìn giang sơn chìm đắm” và
Ông cùng nhân dân đã chống lệnh của triều đình để đánh Pháp. Qua câu chuyện
này, học sinh sẽ thấy được tinh thần kiên quyết đánh giặc của nhân dân ta cho dù
phải trái lệnh Vua.
b. Khi trình bày các sự kiện có liên quan đến các chân dung nhân vật lịch sử:
Khi trình bày các sự kiện có liên quan đến chân dung nhân vật lịch sử nào, giáo
viên cần sưu tầm những mẩu chuyện liên quan đến nhân vật đó, có thể là kể về tài
năng, sự đóng góp hay cống hiến của nhân vật đối với quê hương, đất nước hay
một câu chuyện vui về nhân vật đó. Điều này có tác dụng làm cho học sinh nhớ lâu
về nhân vật đó.
- Ví dụ khi dạy Bài 26: Tiết 40-41: “ Phong trào kháng Pháp trong những năm
cuối thế kỉ XIX” (tiết 1) phần I. Cuộc phản công của phái chủ chiến tại kinh thành
Huế. Vua Hàm Nghi ra “ Chiếu Cần vương”, ngoài việc sử dụng Lược đồ kinh
thành Huế năm 1885 và chân dung Hàm Nghi có trong sách giáo khoa, giáo viên
cần khắc hoạ cho học sinh hình ảnh ông vua trẻ tuổi Hàm Nghi, khác hẳn với các
ông vua khác với trước đó và sau này: “ Vua Hàm Nghi lên ngôi lúc 14 tuổi. Ông là
vị vua trẻ tuổi, yêu nước, có tinh thần chống Pháp, tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự
cường của dân tộc. Sau khi kinh thành Huế lọt vào tay giặc Pháp, ông đã cùng Tôn
Thất Thuyết chạy ra căn cứ Tân Sở ( Quảng Trị) để tính chuyện kháng chiến lâu
dài. Tại đây, ngày 13/07/1885, vua Hàm Nghi hạ Chiếu Cần vương (do Tôn Thất
Thuyết soạn thảo), kêu gọi toàn dân giúp vua đánh Pháp. Nhận thấy hạn chế của
căn cứ Tân Sở, tháng 10/1885, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng
Phú Gia ( Hương Khê, Hà Tĩnh) để xây dựng căn cứ kháng chiến. Giặc Pháp ra sức
lùng bắt nhà vua. Đầu tháng 11/1885, thực dân Pháp đã mua chuộc được Trương
Quang Ngọc ( Người hầu cận của vua Hàm Nghi). Y đã dẫn đường cho quân Pháp
đột nhập căn cứ, vua Hàm Nghi đã bị bắt. Bọn Pháp ra sức dụ dỗ, mua chuộc,
nhưng không lay chuyển được ý chí của Vua. Cuối cùng, chúng đày Hàm Nghi
sang An-giê-ri. Khi đó “ông mới 17 tuổi”. Từ đó, học sinh hiểu rằng không phải
ông vua nào cũng hèn nhát trước sức mạnh xâm lược của kẻ thù, sợ thực dân Pháp.
Các em sẽ có ấn tượng tốt về vị vua này.
6
c. Khi trình bày những sự kiện lớn mang tính bước ngoặt: Giáo viên sử dụng
những câu chuyện liên quan đến những sự kiện nào thì có thể kết hợp với các bài
giảng trên lớp hoặc là lồng ghép trong các buổi học ngoại khoá.
Khi dạy Bài 15: Tiết 23-24: “ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc
đấu tranh bảo vệ cách mạng ( 1917-1921)” ( Tiết 1), phần I. Hai cuộc cách mạng
ở nước Nga năm 1917, giáo viên kể câu chuyện cuộc tấn công ở Cung điện Mùa
Đông, đánh dấu Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười đã giành được thắng lợi
hoàn toàn, giúp học sinh khắc sâu sự kiện lịch sử trọng đại này: “ Cung điện Mùa
Đông – thủ phủ của Chính phủ lâm thời tư sản. ý thức được tầm quan trọng của
Cung điện đối với việc lật đổ Chính phủ lâm thời tư sản. Uỷ ban khởi nghĩa quyết
định huy động lực lượng lớn: thuỷ thủ, binh sĩ…quyết tâm tấn công và giành thắng
lợi. Khoảng 1 giờ sáng, tiếng súng trường, tiếng súng máy, tiếng đại bác hoà thành
một cảnh náo động, liên tục, hoả lực ở các chiến luỹ yếu dần. Quân khởi nghĩa tiến
sát đến cung điện…Tiếng súng hiệu “ Xung phong” và một tiếng “ Hua ra” ( hoan
hô) ngân lên trong không trung. Quân khởi nghĩa trèo qua các chiến luỹ, tràn ngập
các lối ra vào cung điện…khuấy động sự yên tĩnh trong các căn phòng của Nga
hoàng. Cuộc tấn công Cung điện Mùa Đông giành thắng lợi”.
d. Khi trình bày các sự kiện sách giáo khoa chỉ nêu hoặc trình bày vắn tắt:
Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện vừa có tác dụng làm rõ sự kiện, vừa
khắc sâu kiến thức cho học sinh vì sách giáo khoa nêu quá sơ lược:
- Ví dụ các sự kiện:
+ Cách mạng tư sản Nêđéclan chống thực dân Tây Ban Nha thế kỉ XVI.
+ Cuộc chiến tranh thuốc phiện ở Trung Quốc ( 1840-1842).
+ Sự kiện đội quân của Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu Hi vọng của Pháp trên
sông Vàm Cỏ.
+ Phong trào chống sưu thuế ở Trung Kì do ảnh hưởng của phong trào Duy tân do
Phan Châu Trinh khởi xướng.
e. Khi trình bày các bài học về kinh tế, văn hoá, chính trị: Giáo viên cần đưa ra
các câu chuyện sinh động tăng thêm sự hấp dẫn cho bài dạy.
- Ví dụ khi dạy Bài: 1: Tiết 1,2,3: “Những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên”, giáo
viên kể về phương thức sản xuất mới hình thành và phát triển ở các nước Tây Âu
trong các thế kỉ XV và XVII, đó là các công ti thương mại lớn dần được thay thế
cho các thương hội thời trung đại; câu chuyện về các cuộc phát kiến địa lí của Magien-lăng, của Cô-lôm-bô để tìm ra những vùng đất mới. Từ đó, học sinh thấy được
sự xuất hiện phương thức sản xuất mới tư bản chủ nghĩa nó kéo theo nhiều việc tất
yếu.
- Đặc biệt khi trình bày Bài 8: Tiết 15: “ Sự phát triển của kĩ thuật, khoa học,
văn học và nghệ thuật thế kỉ XVIII-XIX”, giáo viên nhất thiết phải đưa ra những câu
chuyện liên quan đến các phát minh, hay những câu chuyện về các nhà khoa học,
những thành tựu ngoài sức tưởng tượng hiện nay của nhân loại.
+ Khi dạy mục I. Những thành tựu chủ yếu về kĩ thuật, để tạo biểu tượng cho học
sinh về tác dụng của xe lửa đối với sản xuất và đời sống, giáo viên có thể kể câu
chuyện:
7
“ Năm 1814, đoạn đường sắt đầu tiên được xây dựng ở nước Anh nối liền hai trung
tâm công nghiệp Li-vơ-pun và Man-che-xtơ. Đầu máy kéo 8 toa. Tất cả mọi người
đều hồi hộp chờ đợi. Sau một hồi còi kéo dài, đầu máy chuyển động chạy song
song là một cỗ xe 4 mã lực do ngựa kéo. Đến chỗ ngoặt tàu tăng tốc vượt xa trong
tiếng reo hoan hô không ngớt của mọi người có mặt”.
+ Khi dạy mục II. Những tiến bộ về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, giáo
viên kể chuyện về Niutơn ( 1643-1727) – nhà vật lí, nhà toán học nước anh, được
cả thế giới biết đến là : “ Người sáng lập ra Vật lí học cổ điển”. Niu-tơn là người
phát minh nhiều định luật trong Vật lí và Toán học, tiêu biểu là nguyên lí “ Vạn vật
hấp dẫn”. Một lần Niu – tơn trông thấy quả táo rụng từ trên cây xuống, ông liền
nghĩ đến nguyên nhân của sự rơi và tìm ra sức hút của Trái đất.
Trên đây là một số những sự kiện không được trình bày bày trong sách giáo khoa.
Nhưng nhất thiết giáo viên phải sưu tầm được những câu chuyện liên quan đến bài
dạy để kể cho học sinh, có thể là vào giờ ngoại khoá.
*. Kết hợp phương pháp kể chuyện với các phương pháp khác:
Sử dụng phương pháp kể chuyện trong giờ học lịch sử sẽ làm cho bài học nhẹ
nhàng sinh động, làm cụ thể hoá những vấn đề lịch sử mà giáo viên trình bày. Tuy
nhiên, tiến hành kể chuyện trong giai đoạn này phải đảm bảo những nguyên tắc của
phương pháp trình bày miệng, phải có tính cụ thể, phải khoa học, mạch lạc, ngôn
ngữ trong sáng mới phát huy được hiệu quả trong dạy học lịch sử.
Tiến hành các cách thức dạy học sử dụng các câu chuyện kể cũng cần phối hợp
với các phương pháp dạy học khác như trực quan, nêu vấn đề, dùng hệ thống các
câu hỏi gợi mở phát vấn học sinh…mới phát huy được tính tích cực, chủ động của
học sinh trong học tập lịch sử, góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng
bộ môn như yêu cầu cấp thiết hiện nay trong công tác giảng dạy lịch sử ở trường
THCS. Đó là điều chúng ta cần lưu ý nhất, tránh dùng một phương pháp giảng dạy
đơn điệu không hiệu quả. Trái lại, quá lạm dụng một phương pháp nào đó trong dạy
học lịch sử cũng sẽ làm học sinh dễ nhàm chán, nhất là phương pháp kể chuyện,
lạm dụng sẽ làm bài giảng của giáo viên trở tiết kể chuyện lịch sử, học sinh bị “
loãng”, không tập trung vào mục đích chính của bài, không đáp ứng được yêu cầu
bài dạy.
a. Giáo viên có thể kết hợp kể chuyện với việc cho học sinh xem tranh ảnh,
quan sát lược đồ, sa bàn.
- Ví dụ khi dạy Bài 26: Tiết 40-41: “ Phong trào kháng Pháp trong những năm
cuối thế kỉ XIX” (tiết 2), phần II. Những cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần
vương, giáo viên kết hợp câu chuyện kể về căn cứ Hương Khê với việc hướng dẫn
học sinh tìm hiểu lược đồ căn cứ Hương Khê trong sách giáo khoa: “Địa bàn hoạt
động của nghĩa quân Hương Khê lan rộng khắp 4 tỉnh miền Trung: Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Đại bản doanh đặt tại khu Ngàn Trươi thuộc
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Khu trung tâm Ngàn Trươi là vùng rừng núi rậm
rạp, nằm ở cuối con sông Ngàn Sâu, bên cạnh dãy núi Vụ Quang hiểm trở. Từ
Ngàn Trươi có 3 con đường độc đạo, khúc khuỷu có thể vào Quảng Bình, Quảng
Trị và ra Nghệ An, Thanh Hoá, thông sang Lào và Xiêm. Lợi dụng địa hình hiểm
8
trở, nghĩa quân chủ yếu áp dụng lối đánh du kích, gây cho Pháp nhiều phen khốn
đốn”. Từ đó, giúp học sinh hiểu rõ hơn thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã
biết lợi dụng địa hình hiểm trở để đánh giặc, hiểu rõ hơn tại sao khởi nghĩa Hương
Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương.
- Khi dạy Bài 30: Tiết 49-50: “ Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ
XX đến năm 1918”, khi dạy mục I, ý 3. Cuộc vận động Duy tân và phong trào
chống thuế ở Trung Kì, giáo viên có thể kể chuyện về Phan Châu Trinh kết hợp với
việc yêu cầu học sinh quan sát ảnh trong sách giáo khoa ( hoặc giáo viên có thể
dùng ảnh đã được phóng to có trong thư viện của trường) để giới thiệu cho học sinh
về Phan Châu Trinh: “Ông sinh ra trong một gia đình quan lại nhỏ. Năm 1900, ông
thi đỗ cử nhân, năm 1903, đỗ Phó bảng và làm Thừa biện Bộ lễ. Năm 1905, ông
cáo quan; từ năm 1906, ông hoạt động trong phong trào Duy tân. Phan Châu Trinh
kịch liệt lên án tư tưởng phong kiến cổ hủ, lạc hậu và tích cực đề xướng tư tưởng
dân chủ tư sản. Những hoạt động của ông đã góp phần chuẩn bị về tư tưởng cho
phong trào quần chúng đấu tranh chống thuế quyết liệt ở Trung Kì năm 1908. Vì
thế, ông bị chính quyền thực dân bắt giam. Năm 1911 được tha, ông sang Pháp hoạt
động. Năm 1912, ông cùng với Phan Văn Trường thành lập Hội đồng bào thân ái
của Việt kiều tại Pháp. Năm 1916, tham gia thành lập Hội những người Việt Nam
yêu nước. Năm 1922, khi Khải Định sang Pháp, Phan Châu Trinh đã viết Thất điều
thư gửi cho Khải Định đã làm cho Khải Định và triều đình Huế vừa bị mất mặt, vừa
lo sợ, còn đông đảo kiều bào ta ở Pháp và nhân dân trong nước hả dạ. Năm 1925,
Phan Châu Trinh về nước. Ngày 24/03/1926, ông mất tại Sài Gòn, đám tang của
Phan Châu trinh được các giới đồng bào tổ chức lớn như “ một quốc tang”, riêng ở
Sài Gòn có tới 14 vạn người đến dự. Lễ truy điệu Phan Châu Trinh được cử hành
trọng thể từ Nam ra Bắc”. Qua đây, học sinh hiểu được rằng mặc dù còn hạn chế
( dựa vào Pháp), song tư tưởng cải cách dân chủ của ông thể hiện tinh thần yêu
nước, góp phần thức tỉnh đồng bào.
b. Trong quá trình kể chuyện, giáo viên có thể đặt câu hỏi liên hệ thực tế với
nội dung, hay tình tiết nào đó của chuyện cho học sinh dễ hiểu.
- Ví dụ khi dạy Bài 29: Tiết 47-48: “Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp và những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam” ( Tiết 2), phần II. Những
chuyển biến của xã hội Việt Nam, giáo viên kể chuyện về tình cảnh người nông dân
Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc: “Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, người
nông dân Việt Nam cơ cực trăm bề. Họ bị tước đoạt hết ruộng đất, phải chịu rất
nhiều thứ thuế và các khoản phụ thu khác. Giai cấp nông dân chiếm trên 90% dân
số, chiếm 97% số nông hộ, nhưng chỉ có 36% diện tích ruộng đất, trong đó nhiều
hộ không có một “ tấc đất cắm dùi”. Những nông dân có ruộng hoặc làm tá điền
cho địa chủ vẫn canh tác bằng những công cụ lao động cũ kĩ, lạc hậu không khác gì
hàng ngàn năm trước. Công cụ chủ yếu bằng tre, gỗ, công cụ bằng kim khí rất ít”.
Sau khi kể xong, giáo viên có thể hỏi học sinh: Em có suy nghĩ gì về đời sống
người nông dân dưới thời thuộc Pháp?. Trên cơ sở ý kiến của học sinh, giáo viên
khẳng định lại dưới ách thống trị của thực dân Pháp người nông dân Việt Nam bị
9
bóc lột đến cùng cực, đời sống của họ vô cùng cực khổ, vì vậy họ luôn đi đầu trong
cuộc đấu tranh đòi tự do và no ấm.
2. 4 Hiệu quả của sáng kiến:
Từ thực trạng về ý thức cũng như về chất lượng học tập của học sinh học kì I, tôi
đã tiến hành thực nghiệm đề tài đối với khối 8, kết quả thu được sau học kì I so
sánh với khảo sát đầu năm có sự khác nhau như sau:
- Học sinh khối 8 có ý thức tự giác tìm hiểu các kiến thức lịch sử, các câu
chuyện lịch sử trước khi đến lớp.
- Trên lớp học sinh học tập tích cực, chủ động hơn, hầu hết học sinh nắm được
nội dung cơ bản của bài học ngay tại lớp, nhớ lâu những câu chuyện mà giáo viên
kể trong bài học.
- Học sinh có phương pháp học tập phù hợp, hiểu bài nên hứng thú học tập cũng
được nâng lên đáng kể. Số lượng học sinh thích học môn Lịch sử và tự chuẩn bị các
câu chuyện lịch sử mà sách giáo khoa chưa đề cập đến để nâng cao sự hiểu biết của
mình ngày càng nhiều.
Kết quả kiểm tra chất lượng học kì I của 2 lớp 8 như sau:
Tổng
số
23
Giỏi
SL
3
%
13,04
Kết quả điều tra
Khá
T Bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
10 41,31 10 41,31
1
4,34
Kém
SL
%
0
0
Nhận xét: - Số lượng học sinh khối 8 có điểm khá, giỏi tăng lên đáng kể
- Học sinh có điểm yếu giảm
3. Kết luận, kiến nghị:
Như vậy, kể chuyện có vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh nhớ kỹ,
hiểu sâu những kiến thức lịch sử. Chính vì thế, để nâng cao chất lượng dạy, học bộ
môn lịch sử, người giáo viên phải luôn sử dụng tốt các phương pháp dạy học lịch
sử một cách nhuần nhuyễn, trong những phương pháp đó, việc sử dụng phương
pháp kể chuyện trong tiết học có tác động rất lớn. Kể chuyện chính là một biện
pháp rất sinh động thể hiện sự sáng tạo của người giáo viên.
Muốn đạt được kết quả cao trong bộ môn lịch sử, theo tôi cần có những yêu
cầu sau:
- Nhà trường cần mua một số tư liệu, tài liệu có liên quan đến bộ môn lịch sử để
trong thư viện nhà trường để giáo viên và học sinh tham khảo thêm như: “ Những
mẩu chuyện lịch sử văn minh thế giới” tập 1 và tập 2; “ Việt sử giai thoại” ; “ Các
triều đại Việt Nam” ; “ 13 vua 9 chúa”; “ Lịch sử văn minh thế giới” ; phim tài liệu,
băng ghi âm lời nói của các nhà cách mạng, sách viết về tiểu sử của các anh hùng
dân tộc và các sách nói về phương pháp giảng dạy bộ môn lịch sử.
- Trong các phong trào thi đua của Nhà trường như chào mừng ngày nhà giáo Việt
Nam, ngày thành lập Đoàn…các tổ chức Đoàn, Đội trong Nhà trường nên tổ chức
10
các cuộc thi có liên quan đến môn Lịch sử như dựng lại các câu chuyện lịch sử kể
về các danh nhân, các nhân vật có công dựng nước và giữ nước, thi kể chuyện lịch
sử, các câu đố về lịch sử.
- Với phương châm “ Trăm nghe không bằng mắt thấy”, là giáo viên dạy lịch sử
tôi kiến nghị trong chương trình cần cho học sinh đi thực tế, sau đó viết bài thu
hoạch, tổ chức giờ ngoại khoá, những buổi đi thăm các bà mẹ Việt Nam anh hùng,
thăm nghĩa trang liệt sĩ ở địa phương nhằm giáo dục lòng biết ơn các anh hùng liệt
sĩ…đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc để đất nước có được như ngày hôm
nay.
Trên cơ sở bàn về phương pháp kể chuyện trong giờ dạy-học lịch sử ở lớp 8
THCS chắc chắn sẽ làm cho học sinh yêu thích bộ môn này hơn, nhận thức đúng
việc học tập môn lịch sử đúng mức. Từ đó, hình thành cho học sinh một thói quen
tư duy, ghi nhớ sự kiện, nhân vật thông qua việc liên tưởng tới các câu chuyện được
kể, để từ đó khắc sâu hơn nữa nội dung đó, hay một vấn đề lịch sử nào đó mà mục
tiêu bài học đặt ra cho thầy và trò cần đạt được đối với bộ môn được cho là không
mấy hấp dẫn đối với người học này.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn Lịch
sử, hiểu biết và kinh nghiệm của tôi chắc chắn không tránh khỏi những sai sót.
Kính mong Hội đồng sư phạm xem xét và bổ sung, đóng góp ý kiến để bài viết của
tôi được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Trung Tiến, ngày 28 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
Viết không sao chép nội dung của người khác
Giáo viên
Mai Văn Huyên
11
Tài liệu tham khảo
1. Các phương pháp dạy học lịch sử- Năm 2003 (Nhà xuất bản giáo dục)
2. Thiết kế bài giảng lịch sử 8 (Nhà xuất bản giáo dục)
3. Tài liệu chuẩn kiến thức, kỹ năng môn lịch sử.
4. Những mẩu chuyện lịch sử - Năm 2001 (Nhà xuất bản giáo dục)
5. Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1 – Năm 2003 (Nhà xuất bản giáo dục)
6. Sách giáo khoa Lịch sử 8 – Cơ bản - Năm 2008. (Nhà xuất bản giáo dục)
7. Sách giáo viên Lịch sử 8 – Nâng cao - Năm 2008 (Nhà xuất bản giáo dục)
8. Lịch sử thế giới trung đại - Năm 2003 ( Nhà xuất bản giáo dục)
12