Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Vận dụng phương pháp kể chuyện trong dạy học phần lịch sử trong môn lịch sử và địa lý lớp 4,5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.97 KB, 81 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại nền văn minh công nghiệp, cách mạng
khoa học công nghệ phát triển như vũ bão đòi hỏi người lao động phải có năng
lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Sự phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao với hệ thống giáo dục.
Với sản phẩm đặc biệt là con người, giáo dục là động lực cho sự phát triển bền
vững của đất nước. Để hoàn thành sứ mệnh to lớn của mình, giáo dục phải đổi
mới một cách toàn diện từ mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức.
Thực tiễn trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được, nền giáo
dục nước ta vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Chất lượng giáo dục còn thấp,
phương pháp dạy học còn lạc hậu, nảy sinh nhiều tiêu cực. Cũng trong tình
trạng đó, chất lượng dạy học ở bậc Tiểu học nói chung và chất lượng dạy học
các môn học nói riêng vẫn chưa cao. Một nguyên nhân dẫn đến chất lượng
dạy học chưa cao là do chất lượng sử dụng các phương pháp dạy học chưa cao.
Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy học càng trở nên bức xúc, trước hết là
đối với bậc Tiểu học bởi Tiểu học là bậc học nền tảng. Trẻ em vừa là mục tiêu
vừa là đối tượng của giáo dục vì thế mọi hoạt động giáo dục phải xuất phát từ
trẻ em (đối tượng giáo dục) và phải đáp ứng mọi nhu cầu phát triển tự nhiên
của trẻ em (mục tiêu giáo dục). Vì thế đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học
là tất yếu để phù hợp với trẻ em. Đổi mới phương pháp dạy học là phải khắc
phục cách thức truyền thụ thầy giảng - trò ghi, phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo của người học.
Môn Lịch sử và Địa lý lớp 4,5 là môn học tích hợp nhiều kiến thức khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội. Trong đó kiến thức về Lịch sử chiếm một
phần đáng kể. Mục tiêu của phần Lịch sử trong chương trình Tiểu học là đòi
hỏi học sinh có một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự kiện, hiện tượng,


Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

1


Khoá luận tốt nghiệp
nhân vật lịch sử tiêu biểu tương đối có hệ thống theo thời gian của lịch sử Việt
Nam từ buổi đầu dựng nước đến nay. Rèn luyện kĩ năng thu thập, tìm kiếm tư
liệu lịch sử từ các nguồn khác, biết nêu thắc mắc đặt câu hỏi trong quá trình
học tập và lựa chọn thông tin để giải đáp; trình bày lại kết quả học tập bằng lời
nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ... Bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, con người quê
hương, đất nước; tôn trọng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hoá gần gũi
với học sinh.
Trên cơ sở những mục tiêu này, đòi hỏi hoạt động tổ chức hướng dẫn
của giáo viên phải hướng tới hoạt động tự chiếm lĩnh kiến thức và tự rèn luyện
kĩ năng của học sinh. Học sinh phải được hoạt động tự bộc lộ mình và được
phát triển một cách tối đa thông qua hoạt động học tập. Mục tiêu này đòi hỏi
giáo viên khi tổ chức học sinh học tập phải sử dụng phối hợp linh hoạt các
phương pháp dạy học có tác dụng phát huy tính tích cực, chủ động nhận thức
của người học như: phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp nêu vấn đề
Kể chuyện là một phương pháp dạy học truyền thống đặc biệt là với dạy
học lịch sử thì đây là phương pháp dạy học đặc thù. Trước kia có phân môn
Truyện kể lịch sử và có phương pháp dạy học riêng phù hợp với tên gọi của
nó. Nhưng cách dạy học lịch sử trước kia không còn phù hợp với hiện nay.
Tuy nhiên, kể chuyện vẫn được coi là phương pháp quan trọng bởi thực tiễn đã
chứng minh phương pháp kể chuyện là phương pháp dạy học quen thuộc, tiện
lợi, dễ thực hiện và có tác dụng giáo dục sâu sắc tới tình cảm, thái độ, nhận
thức của người học. Nhưng sử dụng phương pháp kể chuyện như thế nào để
phát huy tính tích cực của học sinh là vấn đề cần quan tâm giải quyết.
Vì những lý do trên mà em chọn đề tài: Vận dụng phương pháp kể

chuyện trong dạy học phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nhằm làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của phương pháp kể
chuyện. Vận dụng hiệu quả phương pháp kể chuyện trong dạy học phần Lịch
sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

2


Khoá luận tốt nghiệp
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng phương pháp kể chuyện vào dạy học
Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5.
Khách thể nghiên cứu: Các phương pháp dạy học phần Lịch sử trong
môn Lịch sử và Địa lý ở Tiểu học.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu phương pháp kể chuyện và vận dụng trong dạy học phần Lịch
sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4 tại hai trường Tiểu học: Trường Tiểu học
Liên Minh - Thành phố Vĩnh Yên và trường Tiểu học Thị trấn Sóc Sơn - Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng phương pháp kể chuyện theo hướng tích cực hoá hoạt động
nhận thức của học sinh vào dạy học phần Lịch sử thì sẽ nâng cao chất lượng
dạy học môn Lịch sử và Địa lý nói riêng và góp phần đổi mới phương pháp
dạy học ở Tiểu học nói chung.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới phương pháp dạy học, vận
dụng phương pháp kể chuyện vào dạy học Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý.
Tiến hành vận dụng phương pháp kể chuyện vào dạy học Lịch sử trong

môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp điều tra nghiên cứu số liệu
Phương pháp quan sát
Phương pháp trò chuyện
8. Cấu trúc khóa luận
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Vận dụng phương pháp kể chuyện để dạy học phần Lịch
Sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

3


Khoá luận tốt nghiệp

Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học
Heghen quan niệm: Phương pháp là cách thức làm việc của chủ thể,
cách thức này phụ thuộc vào nội dung vì phương pháp là sự vận động bên
ngoài của nội dung.
Thuật ngữ phương pháp dạy học bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp: Methods

có nghĩa là con đường để đạt tới mục đích dạy học. Theo đó phương pháp dạy
học là con đường để đạt mục đích dạy học. Phương pháp dạy học là cách thức
hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định
nhằm đạt được mục đích dạy học.
Phương pháp dạy học đặc trưng bởi tính chất hai mặt: gồm hoạt động
của thầy và hoạt động của trò. Hai hoạt động này tồn tại và được tiến hành
trong mối quan hệ biện chứng. Hoạt động của thầy đóng vai trò chủ đạo (tổ
chức, điều khiển) và hoạt động của trò tích cực, chủ động (tự tổ chức, tự điều khiển).
1.1.2. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
1.1.2.1. Cơ sở lí luận của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về khoa học
giáo dục mang tính đột phá, bổ sung cho sự phát triển không ngừng của lực
lượng giáo dục nói chung và lực lượng dạy học nói riêng; đưa lí luận dạy học
lên một tầm cao mới là tiền đề quan trọng cho sự đổi mới phương pháp dạy
học. Sau đây là một vài nét chính:
- Tiếp cận hệ thống : Quá trình dạy học được coi là một hệ thống gồm
nhiều thành tố có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau,

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

4


Khoá luận tốt nghiệp
quyết định chất lượng của nhau. Mối quan hệ thầy, trò, phương tiện và điều
kiện dạy học, mục đích, nội dung và phương pháp dạy học với quá trình kiểm
tra, đánh giá trong quá trình dạy học có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Toàn
bộ quá trình dạy học chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế, xã hội.
- Quá trình dạy học tiếp cận nhân cách :
Quá trình dạy học muốn kiến tạo và phát triển nhân cách phải thông qua

sự thống nhất ba mặt đó là tính riêng biệt, độc đáo của cá nhân, hoà đồng của
các mối quan hệ liên nhân cách, ảnh hưởng của nhân cách tới xã hội, cộng
đồng. Đối với phương pháp dạy học theo tiếp cận nhân cách tức là phát triển
ba mặt trên của nhân cách.
- Quá trình dạy học theo cách tiếp cận hoạt động:
Quá trình dạy học được nghiên cứu là một hoạt động và có cấu trúc của một
hoạt động. Vì vậy phải đổi mới phương pháp và hình thức dạy học để quá trình
dạy học thực sự là quá trình giáo viên tổ chức các hoạt động khác nhau để học
sinh được hoạt động và lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo đồng thời hình
thành nhân cách của chính học sinh.
- Công nghệ dạy học :
Tư tưởng công nghệ dạy học thể hiện ở các quan điểm sau: Chuyển hoá
vào thực tiễn dạy học những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ từ
mục tiêu, phương pháp, hình thức tổ chức. Sử dụng tối đa và hiệu quả phương
tiện, kĩ thuật hiện đại đa kênh đa hình vào dạy học. Thiết kế được hệ dạy học
mới, vận hành theo nguyên lý mới, đó là hình thức dạy học: tự động hoá - cá
thể hoá - được trợ giúp.
- Thuyết dạy học cộng tác:
Thuyết này tích hợp hai quan điểm : hướng vào người học và hướng vào
người dạy, đưa ra quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học.
Theo thuyết này, dạy có chức năng thiết kế, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra quá
trình học, góp phần thi công nhưng không làm thay người học. Học là quá

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

5


Khoá luận tốt nghiệp
trình tự điều khiển, chiếm lĩnh tri thức của bản thân, tức là tự tổ chức, tự thi

công và tự kiểm tra việc học của chính mình dưới sự điều khiển của thầy. Hai
hoạt động thống nhất với nhau nhờ sự cộng tác - đây là yếu tố cơ bản duy trì,
phát triển sự thống nhất trọn vẹn của quá trình dạy học và là yếu tố dẫn đến
chất lượng cao của dạy tốt, học tốt.
1.1.2.2. Cơ sở thực tiễn của đổi mới phương pháp dạy học
- Xuất phát từ đặc điểm của thời đại:
Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và
công nghệ, do đòi hỏi của sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước nên nhà
trường phải trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, hiện đại cập nhật
với những thành tựu mới mẻ của khoa học công nghệ, gần gũi với đời sống và
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh Tiểu học. Mặt khác, thực tiễn
cũng đòi hỏi giáo dục và đào tạo nói chung và dạy học nói riêng phải đào tạo
những con người có phẩm chất: linh hoạt, năng động, sáng tạo, thích ứng với
đòi hỏi đa dạng về nhu cầu lao động của nền kinh tế thị trường.
- Xuất phát từ đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng:
Từ Nghị Quyết 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 7, Đảng ta đã
đề ra yêu cầu là phải đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các bậc học. Nghị
Quyết Trung ương 2 khoá 8, Đảng nêu rõ phương pháp giáo dục đào tạo chậm
đổi mới, chưa phát huy được tính sáng tạo của người học. Quán triệt tư tưởng,
đường lối của Đảng thì đổi mới phương pháp dạy và học là một việc rất cần
thiết, cấp bách.
- Xuất phát từ thực trạng việc sử dụng các phương pháp dạy học ở Tiểu học:
Dạy học Tiểu học hiện nay, dù nhiều giáo viên có ý thức về việc đổi
mới phương pháp dạy học nhưng việc đổi mới còn chậm và chưa đem lại hiệu
quả cao. Với các phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh như phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học kiến
tạovẫn chưa được sử dụng nhiều. Ngay cả với các phương pháp dạy học

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH


6


Khoá luận tốt nghiệp
truyền thống như : phương pháp thuyết trình, phương pháp kể chuyệnthì các
giáo viên vẫn chưa phát huy hết các ưu điểm của nó. Do đó giờ học còn mang tính
chất gò bó khô khan.
- Xuất phát từ nội dung dạy học ở Tiểu học:
Nội dung dạy học đã hiện đại hoá, tính hệ thống ngày càng cao, mức độ
ngày càng sâu rộng. Vì thế mà cần có phương pháp dạy học thích hợp tăng
cường hoạt động học tập của cá nhân qua đó kích thích được động cơ bên
trong của người học, làm cho họ tăng cường tính chủ động, tự tin, phát triển
khả năng suy lý, óc phê phán để tự phát hiện ra kiến thức. Muốn vậy cần phối
hợp cả những phương pháp dạy học hiện đại với sử dụng các phương pháp dạy
học truyền thống theo tinh thần mới.
1.1.3. Một số định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học là thay đổi lối dạy học truyền
thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học
sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện kĩ năng và
thói quen tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tạo hứng thú học tập cho học sinh. Qua đây học sinh chủ động tìm tòi, khám
phá, phát hiện, rèn luyện và xử lý thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực,
phẩm chất. Đổi mới phương pháp dạy học cũng cần theo hướng sử dụng
phương tiện dạy học hiện đại vào dạy học; theo hướng tăng cường kĩ năng thực
hành cho học sinh để học sinh có kĩ năng vận dụng các kiến thức lí thuyết vào
các tình huống cụ thể trong cuộc sống.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các
phương pháp dạy học truyền thống mà là kế thừa, phát triển mặt tích cực của
hệ thống phương pháp dạy học đã truyền thống đồng thời học hỏi, vận dụng
một số phương pháp mới, hiện đại. Bởi không phải mọi loại kiến thức học sinh

đều có thể chiếm lĩnh bằng các hoạt động tự lực dù có đủ phương tiện học tập;
phương pháp dạy học tích cực không phải dễ dàng được vận dụng ở mọi nơi,

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

7


Khoá luận tốt nghiệp
mọi lúc. Cũng không phải mọi học sinh đều tự nguyện, tự giác tham gia những
hoạt động tích cực và mỗi phương pháp không thể là vạn năng vì thế phải vận
dụng phối hợp các phương pháp.
Cần phải khai thác các phương pháp tích cực trong hệ thống phương
pháp truyền thống. Các sách lí luận chỉ rõ về mặt hoạt động nhận thức thì
phương pháp thực hành tích cực hơn phương pháp trực quan còn phương pháp
trực quan tích cực hơn phương pháp dùng lời. Trong nhóm các phương pháp
dùng lời thì lời (lời của thầy, lời của trò, lời của sách) đóng vai trò là nguồn tri
thức chủ yếu, đặc biệt quan trọng là lời thầy. Phương pháp dùng lời cũng có sử
dụng các phương tiện trực quan nhưng phương tiện này đóng vai trò minh hoạ
lời thầy. Trong các phương pháp dùng lời thì phương pháp vấn đáp, học sinh
làm việc với sách, báo cáo nhỏ của học sinh có nhiều thuận lợi để phát huy
tính tích cực của học sinh.
Các sách lí luận dạy học chỉ rõ, cần quan tâm tới mặt bên trong của
phương pháp dạy học (giải thích, minh hoạ, tìm tòi từng phần, nghiên cứu, quy
nạp hay diễn dịch, phân tích hay tổng hợp). Việc sử dụng một cái tranh, một
mô hình, một bản đồ sẽ đem lại những hiệu quả sư phạm khác nhau khi được
giáo viên sử dụng theo lối giải thích - minh hoạ trong phương pháp dùng lời,
hoặc theo lối tìm tòi bộ phận trong phương pháp trực quan hoặc theo lối
nghiên cứu trong phương pháp thực hành.
Đối với môn Lịch sử và Địa lý, phần Lịch sử là kiến thức thuộc khoa

học xã hội vì thế giáo viên sử dụng phương pháp dạy học đảm bảo đặc trưng
bộ môn và gây hứng thú cho học sinh: gây xúc cảm và giáo dục tư tưởng học
sinh qua từng tiết lịch sử; đảm bảo sự cân đối giữa hoạt động của giáo viên và
học sinh trong bài học; tiếp tục làm phong phú những kinh nghiệm rèn kĩ năng
học tập bộ môn cho học sinh. Khi dạy học Lịch sử, những phương pháp thường
dùng là: phương pháp thuyết trình, phương pháp kể chuyện, phương pháp
truyền đạt Đó là các phương pháp dạy học truyền thống. Trong khi sử dụng
các phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên cần khai thác chức năng

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

8


Khoá luận tốt nghiệp
khêu gợi vốn có của mỗi phương pháp để kích thích và phát huy vai trò chủ
động nhận thức của người học. Giáo viên đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn,
khích lệ đối với việc học tập của học sinh. Giáo viên đóng vai trò chủ đạo
trong đổi mới phương pháp dạy học trước hết là phải tìm tòi phương pháp
truyền đạt cho hiệu quả, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Giáo viên cần
chủ động bồi dưỡng chuyên môn, tìm tài liệu chuẩn cho phù hợp nhận thức
học sinh để cung cấp cho các em như: giáo viên thường xuyên theo dõi cập
nhật thông tin, số liệu, sự kiện lịch sử qua các phương tiện để có tư liệu giảng
dạy gây hứng thú. Qua đó hướng dẫn học sinh biết cách học, suy luận, biết
cách tìm lại những vấn đề đã quên, tìm tòi kiến thức mới. Nâng cao kĩ năng
thu thập thông tin, sử dụng nguồn tư liệu có sẵn từ sách giáo khoa và qua các
phương tiện truyền thông khác.
Như vậy vận dụng các phương pháp dạy học truyền thống vẫn phải coi
trọng rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh. Theo đó mối quan hệ thầytrò có sự thay đổi. Giáo viên không chỉ đơn thuần là người truyền thụ kiến
thức cho học sinh tiếp nhận mà còn là sự phản ánh trở lại của các em. Trên

quan điểm này khuyến khích học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp để có thể
hình dung trước những khái niệm, kiến thức sẽ tiếp thu và khắc sâu.
Nếu như biết vận dụng những phương pháp dạy học truyền thống một
cách tích cực phù hợp với từng môn, từng bài thì sẽ góp phần nâng cao chất
lượng dạy học Tiểu học hiện nay.
1.2. Phương pháp kể chuyện
1.2.1. Khái niệm phương pháp kể chuyện
Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Từ điển Tiếng Việt (Hoàng
Phê chủ biên) giải thích: Kể là nói có đầu có đuôi cho người khác biết và
nêu ví dụ: kể chuyện đời xưa [10, 485]. Khi ở vị trí một thuật ngữ, kể
chuyện bao gồm bốn phạm trù ngữ nghĩa sau:
- Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với loại hình trữ tình, loại
hình kịch) còn gọi là truyện hay tiểu thuyết.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

9


Khoá luận tốt nghiệp
- Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng.
- Chỉ tên một loại văn thuật chuyện trong môn Tập làm văn.
- Chỉ tên một phân môn được học ở các lớp trong trường Tiểu học.
ở đây đề cập đến phạm ngữ nghĩa thứ hai: Kể chuyện là phương pháp
trực quan sinh động bằng lời nói, khi cần thay đổi hình thức diễn giảng nhằm
thu hút sự chú ý của người nghe, người ta cũng xen kẽ phương pháp kể chuyện.
Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh, gọn, truyền cảm bằng
ngôn ngữ. Theo định nghĩa rộng, kể chuyện còn bao hàm toàn bộ ngôn ngữ
nói trong sinh hoạt hàng ngày. Kể chuyện không chỉ mang chức năng thông
tin mà cả chức năng giải trí hay cao hơn là chức năng nghệ thuật.

Đối với giáo viên thì lời nói được coi là công cụ hữu hiệu nhất trong
hoạt động sư phạm vì khi biết cách diễn đạt các ý tưởng thì những khái niệm
trừu tượng nhất, xa lạ nhất cũng có thể trở thành dễ hiểu và gần gũi đối với học
sinh. Kể chuyện là một trong những phương pháp dạy học được dùng nhiều ở
Tiểu học. Các nhà sư phạm khuyến khích sử dụng phương pháp kể chuyện
trong dạy học vì đó là cách hiệu quả nhất để xây dựng kết cấu cho thông tin
mới trong nhận thức của trẻ em. Những truyện kể là một trong những hình
thức nhận thức thế giới của trẻ, giúp các em chính xác hóa các biểu tượng đã
có về thực tế xung quanh, từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới, và
mở rộng kinh nghiệm sống cho các em.
Trong quá trình dạy học, giáo viên thường sử dụng hai hình thức kể
chuyện sau: kể chuyện chiếm cả tiết học, kể chuyện xen kẽ trong quá trình
giảng bài. Giới thiệu một số phương pháp kể chuyện thường dùng là:
- Kể chuyện một mạch hoặc phân đoạn theo trí nhớ.
- Kể chuyện kết hợp với đọc truyện.
- Kể chuyện dưới dạng giới thiệu nội dung một bức thư.
- Kể chuyện kết hợp với phương tiện nghe nhìn dưới dạng dẫn chuyện
hoặc thuyết minh cho phim đèn chiếu

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

10


Khoá luận tốt nghiệp
Trong dạy học Tiểu học, phương pháp kể chuyện chủ yếu dùng trong
phân môn kể chuyện; đặc biệt ở các lớp đầu Tiểu học thì lời nói được coi là
phương tiện duy nhất để truyền đạt kiến thức. Ngoài ra, các môn khoa học tự
nhiên, kể chuyện để giới thiệu tiểu sử một nhà khoa học, một phát minh khoa
học hoặc mô tả một hiện tượng trong tự nhiên hay xã hộiVới Lịch sử có một

số bài học được chuyển tải qua các câu chuyện lịch sử, kể chuyện sẽ tạo nên
một bức tranh sinh động về những biến cố, những nhân vật lịch sử dễ kích
thích hứng thú học tập cho học sinh.
Có nhiều định nghĩa về phương pháp kể chuyện như
Kể chuyện là phương pháp dùng lời nói, cử chỉ, điệu bộ để mô tả diễn
biến quan hệ giữa các nhân vật, sự việc theo một câu chuyện nhằm giúp học
sinh nắm được nội dung và từ đó rút ra bài học cần thiết. [6, 1]
Kể chuyện là cách dùng lời nói trình bày một cách sinh động, có
hình ảnh và truyền cảm đến người nghe về một nhân vật lịch sử, một sự kiện
lịch sử, để hình thành một biểu tượng, một khái niệm với một niềm tin
sâu sắc. [5, 52]
Với phương pháp kể chuyện, giáo viên và học sinh hầu như thoát li hẳn
sách vở, giao hoà tình cảm một cách hồn nhiên thông qua những nội dung câu
chuyện được kể, thông qua lời kể của giáo viên và học sinh. Gần như mối quan
hệ thầy- trò mới được xác lập giữa một không khí mới, không khí của lòng vị
tha, nhân ái.
Với phương pháp kể chuyện, những câu chuyện không chỉ đơn giản là
những hành động mô tả mà là một quá trình phức tạp nhằm giải thích ý nghĩa
của thế giới, giải thích các chi tiết của cuộc sống của chúng ta và nhất là chính
cuộc sống của ta. Những câu chuyện kể là phương tiện diễn dịch mà qua đó
con người nắm bắt được, hiểu được và sống cuộc sống của họ.
Kể chuyện có thể đi từ vật chất (văn bản) vào ý thức (tư duy lịch sử).
Câu chuyện chỉ là văn bản còn hoạt động kể chuyện tức là sáng tạo và thưởng

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

11


Khoá luận tốt nghiệp

thức. Lịch sử là một câu chuyện dài, rất hay và ý nghĩa. Đã có nhiều câu
chuyện hay về vua Lê Lợi, Quang TrungHọc sinh thích nghe các câu
chuyện như vậy, người thầy có nhiệm vụ khơi gợi cho học sinh cảm nhận cái
hay của câu chuyện.
Như vậy có thể nói: Phương pháp kể chuyện trong dạy học Lịch sử là
phương pháp dùng lời để trình bày một cách sinh động, có hình ảnh và truyền
cảm đến người nghe về một nhân vật lịch sử, một sự kiện lịch sử, một phát
minh khoa học, một vùng đất xa lạđể hình thành một biểu tượng, một khái
niệm với một niềm tin sâu sắc.
1.2.2. Đặc điểm của phương pháp kể chuyện
Một là: Dạy học Lịch sử thông qua tổ chức các hoạt động kể chuyện
cho học sinh
Đặc trưng của phương pháp kể chuyện là dạy học thông qua tổ chức các
hoạt động kể chuyện cho học sinh. Có thể là kể lại những câu chuyện sưu tầm
được, kể chuyện phân vai, đóng kịch và nhiều hình thức kể chuyện phong phú
khác để thu hút học sinh. Việc kể chuyện góp phần phát triển ở trẻ sự tưởng
tượng tái tạo (sao chép lại, có sáng tạo) làm nảy sinh tiền đề cho sự tưởng
tượng sáng tạo. Qua câu chuyện học sinh rút ra được ý nghĩa cho cuộc sống
hiện tại. Sức mạnh của truyện kể của giáo viên còn ở sự tạo ra niềm tin vao
chân - thiện - mĩ và sức sáng tạo vô hạn của con người trong việc cải tạo thế
giới tự nhiên, xã hội. Do đó phương pháp kể chuyện phù hợp để học sinh tiếp
thu những bài học của quá khứ qua những lần kể chuyện, thảo luận tìm hiểu
truyện
Hai là: Học tập qua các câu chuyện
Bản chất của phương pháp kể chuyện là học tập qua diễn biến, ý nghĩa
của những câu chuyện kể. Những câu chuyện giúp các em dựng lại hình ảnh
của quá khứ một cách sống động, giúp học sinh biết và hiểu được sâu sắc lịch
sử. Trong truyện kể thường có những sự kiện, tình huống xảy ra cùng với cách

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH


12


Khoá luận tốt nghiệp
ứng xử, giải quyết của các nhân vật dẫn đến những hậu quả nhất định. Từ
những hậu quả đó, học sinh rút ra được bài học cho bản thân về sự thành công
hay thất bại, về cái tốt hay cái xấu Những câu chuyện hay, hấp dẫn luôn có
sức tác động mạnh mẽ đến tâm hồn trẻ thơ khiến các em không thể nào quên.
Những câu chuyện sẽ thu hút các em nhập vai vào tình huống của truyện kể.
Qua đó định hướng một cách tự nhiên, thoải mái cho những suy nghĩ, hành
động đúng đắn của học sinh.
Ba là: Gây hứng thú.
Phương pháp kể chuyện thúc đẩy mong muốn học tập của người học,
tác động mạnh mẽ tới tình cảm và tâm hồn các em. Phương pháp kể chuyện sẽ
tạo ra một bầu không khí học tập sôi nổi, thoải mái tạo điều kiện để mọi học
sinh đều tiếp thu được bài học một cách dễ dàng, để mọi học sinh được hoạt
động, được bộc lộ khả năng, hiểu biết, ý kiến và thái độ của mình trong học
tập, giáo viên không còn giảng giải những kiến thức lịch sử khô khan còn học
sinh thì ngồi nghe. Kể chuyện kết hợp sử dụng các tranh ảnh minh hoạ và các
phương tiện dạy học khác nhau sẽ lôi cuốn và kích thích hứng thú học tập của
học sinh. Kể chuyện thông qua các trò chơi, sắm vai để học sinh trực tiếp
bộc lộ năng lực của mình. Học mà chơi, chơi mà học cùng với không khí học
tập sôi nổi sẽ giảm áp lực học tập cho học sinh. Đó chính là điều kiện để nâng
cao hiệu quả học tập.
Bốn là: Giáo viên là người thiết kế, tổ chức các hoạt động, học sinh tích
cực, tự giác tham gia vào các hoạt động.
Kể chuyện là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Kể chuyện có tính
khoa học vì nó phải đảm bảo được yêu cầu của chủ đề giáo dục; đảm bảo được
tính đầy đủ và tính chính xác của nội dung truyện; đảm bảo được tính logic

trong trình bày; phù hợp với các đặc điểm tâm sinh lí, trình độ nhận thức và
kinh nghiệm sống của học sinh. Kể chuyện là một nghệ thuật vì nó phải gây

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

13


Khoá luận tốt nghiệp
được xúc cảm, cảm xúc thẩm mĩ mạnh mẽ, sâu sắc ở học sinh; thu hút học
sinh nhập vai vào tình huống của truyện.
Muốn đảm bảo được các yêu cầu của kể chuyện thì phải làm thay đổi
cách nhìn nhận của giáo viên và học sinh về kiến thức và cách nhìn nhận vai
trò của mình trong quá trình học tập. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và
khích lệ các hoạt động kể chuyện đảm bảo quá trình học tập và lĩnh hội kiến
thức của học sinh có ý nghĩa chứ không phải là người cung cấp.
Học sinh tích cực tham gia hoạt động kể chuyện, tìm hiểu truyện để tiếp
thu kiến thức, ghi nhớ các sự kiện cơ bản. Học sinh được trao đổi thảo luận
nhiều chiều, được đóng góp tiếng nói vào mục đích học tập.
Giáo viên là chuyên gia thiết kế, tổ chức, hướng dẫn hoạt động độc lập
hoặc theo nhóm để học sinh kể chuyện, tìm hiểu truyện, tự lực chiếm lĩnh nội
dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo
chương trình
1.2.3. Vai trò của giáo viên và học sinh trong phương pháp kể chuyện
1.2.3.1. Vai trò của giáo viên
Để có một giờ học sôi nổi hào hứng, học sinh thích thú tham gia thì
người giáo viên phải bỏ nhiều công sức chuẩn bị cho bài giảng. Khi thiết kế
giáo án phải xác định mục đích, yêu cầu, đồ dùng và xây dựng hệ thống câu
hỏi gợi mở để học sinh nhớ truyện và kể lại đúng diễn biến. Giáo viên phải lựa
chọn hình thức kể chuyện phù hợp với từng bài sao cho nhiều học sinh được kể,

trao đổi với nhau về nội dung, ý nghĩa, nhân vật của truyện kể.
Giáo viên là người giữ vai trò gợi mở, xúc tác, động viên, kích thích các
hoạt động của học sinh. Tức là, giáo viên không chỉ đơn thuần giảng giải,
truyền thụ, thuyết trình kiến thức lịch sử mà giáo viên là người thiết kế, tổ
chức các hoạt động cho học sinh, gợi mở hứng thú thi đua học tập cho học sinh
để các em tích cực chủ động trong việc ghi nhớ các sự kiện, nhân vật lịch sử.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

14


Khoá luận tốt nghiệp
Để học sinh lắng nghe câu chuyện mình kể, giáo viên phải có nghệ
thuật kể, lời kể có ngữ điệu, giọng điệu và biết sử dụng các yếu tố phi ngôn
ngữ kết hợp các phương tiện trực quan để tăng khả năng ghi nhớ câu chuyện.
Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có quá trình rèn kĩ năng kể chuyện, tập kể ở nhà
trước khi kể cho học sinh. Thực tế cho thấy kĩ năng và nghệ thuật kể chuyện
của giáo viên đóng vai trò quan trọng quyết định sự thành công của việc sử
dụng phương pháp này.
1.2.3.2. Vai trò của học sinh
Học sinh được tham gia kể chuyện dưới nhiều hình thức phong phú có
thể kể tiếp đoạn kết của một câu chuyện, có thể kể phân vai, đóng kịchđồng
thời được tìm hiểu bài học, đối thoại để hiểu các tình tiết chủ yếu của bài học
lịch sử hoặc đọc thêm các tài liệu tham khảo và tự hình thành biểu tượng lịch sử.
Như vậy các em không còn thụ động khi tiếp thu các kiến thức lịch sử
mà các em chính là trung tâm hoạt động tích cực, tự giác, chủ động, tự tin
không chỉ lĩnh hội kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự kiện, hiện tượng, nhân
vật lịch sử tiêu biểu mà còn rèn luyện kĩ năng quan sát, thu thập tư liệu lịch sử,
biết nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập.

1.2.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp kể chuyện
1.2.4.1. Ưu điểm
- Kể chuyện làm thỏa mãn nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ:
Trẻ em luôn mong ước được khám phá cuộc sống bằng những câu
chuyện với những bài học nhẹ nhàng về xã hội loài người. Mỗi một nội dung lí
thú, mỗi nhân vật đẹp đẽ là những cái lôi cuốn sự chú ý của trẻ, đem lại cho
các em niềm vui đồng thời có tác dụng giáo dục các em. Những câu chuyện là
một trong những hình thức nhận thức thế giới của trẻ, giúp các em chính xác
hóa các biểu tượng đã có về thực tế xung quanh, từng bước cung cấp những
khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

15


Khoá luận tốt nghiệp
Các câu chuyện đến với các em có khi là những chiến thắng rực rỡ trong
lịch sử như: chiến thắng Chi Lăng, Quang Trung đại phá quân Thanh, Cách
mạng tháng 8, Điện biên Phủ có khi là diễn biến của một trận đánh hay một
cuộc khởi nghĩa đầy li kì, hấp dẫn như: khởi nghĩa Hai Bà Trưng, kháng chiến
chống Tống xâm lược, chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947, Sấm sét đêm giao
thừa có khi là những sự kiện hào hùng nhưng cũng đầy đau thương của dân
tộc như: Xô viết Nghệ-Tĩnh, Bến tre đồng khởi Các em như được sống trong
không khí lịch sử với bao biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc. Những nhân
vật trong các câu chuyện là những người anh hùng như: Ngô Quyền, Đinh Bộ
Lĩnh, Lí Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, là lãnh tụ trong các
cuộc khởi nghĩa, kháng chiến hay những người có công trong việc dựng nước,
giữ nước, tâm huyết với đất nước như: Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu
Không có gì nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ hay hơn là những câu chuyện về

những nguời anh hùng, những hành động phi thường.
Những câu chuyện có thật trong lịch sử hào hùng, hấp dẫn phù hợp với tâm
lý trẻ em. Vì thế các em thích nghe kể chuyện, đọc truyện và kể chuyện cho
người khác nghe.
- Kể chuyện góp phần rèn luyện kĩ năng và năng lực TiếngViệt:
Hành động kể là một hành động nói đặc biệt trong hoạt động giao
tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về lịch sử và tạo điều
kiện học sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng Tiếng Việt như nghe,
nói, đọc trong hoạt động giao tiếp.
Kể chuyện phát triển kĩ năng nói cho học sinh. Kể chuyện rèn kĩ năng
nói trước đám đông dưới dạng độc thoại thành bài. Nghĩa là trẻ phải có lời nói
mạch lạc hay sự diễn đạt mở rộng nội dung xác định, được thể hiện một cách
logic, tuần tự, và có tính biểu cảm. Sự mạch lạc của lời nói chính là sự mạch
lạc của tư duy. Lời nói mạch lạc phản ánh tư duy logic của trẻ, kĩ năng suy
nghĩ về cái tiếp nhận được và phản ánh nó một cách đúng đắn.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

16


Khoá luận tốt nghiệp
Khi kể lại chuyện, trẻ cố gắng sử dụng những từ, câu có hình tượng. Các
em thể hiện suy nghĩ của mình một cách chặt chẽ, tuần tự, chính xác và có
hình ảnh.
Trẻ có kĩ năng kể lại truyện một cách hào hứng và lôi cuốn người nghe
bằng sự diễn đạt của mình, giúp trẻ thích giao tiếp hơn, khắc phục tình trạng
rụt rè. Kĩ năng kể chuyện là kĩ năng có tính chất tổng hợp của kĩ năng nói và
kĩ năng diễn cảm.
Một trong những kĩ năng mà kể chuyện rèn cho học sinh là kĩ năng

nghe và phân tích truyện. Việc rèn luyện kĩ năng này được thực hiện ngay tại
lớp khi giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi nhớ, cách kể lại, cách diễn đạt
ngôn ngữ, cách phối hợp điệu bộ và nét mặt. Các câu chuyện thường đến với
học sinh qua lời kể của giáo viên, các bạn nên kĩ năng nghe được phát triển rõ rệt.
Qua các câu chuyện, các em có vốn Tiếng Việt phong phú và kĩ năng sử
dụng chúng linh hoạt. Cùng với sự rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ, tư duy
được phát triển. Đặc biệt sống trong thế giới các nhân vật, thâm nhập vào tình
tiết câu chuyện, tư duy hình tượng và cảm xúc thẩm mĩ của trẻ phát triển.
- Kể chuyện góp phần hình thành nhân cách cho học sinh:
Mỗi câu chuyện lịch sử sẽ mở rộng tầm hiểu biết cho các em về lịch sử
dân tộc, làm tăng vốn kinh nghiệm về cuộc sống xã hội, thúc đẩy sự sáng tạo
và ước mơ của các em.
Những câu chuyện giúp trẻ xác lập thái độ với các nhân vật lịch sử, với
kẻ thù xâm lược từ đó hình thành nhân cách trẻ. Khi nghe kể chuyện, trẻ sống
trong các nhân vật, trong diễn biến truyện đồng tình với chính nghĩa, lên án
cái phi nghĩa. Có những chiến thắng oanh liệt giúp các em thích thú, có những
hi sinh cao cả khiến các em xúc động. Những bài học về sự cảnh giác, lòng
dũng cảm, đoàn kết dân tộc, nghệ thuật quân sự thấm nhuần vào tư duy trẻ,
giúp ích cho trẻ trong cuộc sống sau này. Một điều quan trọng là làm sao từ
thời thơ ấu giúp các em biết tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc và có ý thức
giữ gìn, phát huy truyền thống đó.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

17


Khoá luận tốt nghiệp
1.2.4.2. Nhược điểm
Sử dụng phương pháp kể chuyện theo hướng tích cực đòi hỏi giáo viên

phải có năng lực thiết kế giáo án và năng lực tổ chức tiết học. Nếu không thiết
kế và tổ chức tốt thì giờ học sẽ đơn điệu, không phát huy được tính tích cực
của học sinh.
Khi thiết kế bài học, giáo viên phải mất nhiều thời gian cho việc lên kế
hoạch, chuẩn bị kể chuyện sao cho tiết học sôi nổi, hấp dẫn, hiệu quả. Muốn
vậy giáo viên phải lựa chọn được câu chuyện kể phù hợp với bài học, nhận
thức của học sinh; xác định hình thức kể chuyện phát huy được tính tích cực
của học sinh. Câu chuyện không hấp dẫn, hình thức kể chuyện cũ sẽ không lôi
cuốn được sự tham gia tích cực của học sinh.
Khi tổ chức kể chuyện, nếu không phân phối thời gian hợp lý sa đà vào
việc kể chuyện thì sẽ không kiểm soát được thời gian dẫn đến không đảm bảo
mục tiêu của bài học.
Một nhược điểm khác là nếu giáo viên không có nghệ thuật kể chuyện
hay, hấp dẫn thì sẽ không gây được hứng thú ở học sinh. Kể chuyện là một
năng khiếu vì thế không dễ kể hay ngay từ đầu mà phải rèn luyện liên tục, lâu dài.
Học sinh gặp khó khăn trong việc nhớ, nắm vững nội dung truyện. Nhiều
học sinh tìm được truyện hay, thú vị, nội dung phù hợp với bài nhưng truyện quá
dài. Học sinh chưa biết cách tóm tắt truyện, khái quát nội dung, ý nghĩa truyện.
Các em thấy khó nhớ, khó thuộc vì thế khi kể các em hay lúng túng.
Học sinh gặp khó khăn khi kể lại diễn biến câu chuyện. Khi kể học sinh
nhớ lẫn lộn mối quan hệ giữa các nhân vật, chưa biết lựa chọn, nhấn mạnh
hoặc bỏ quên những chi tiết tiêu biểu, thậm chí kể quá vắn tắt.
Trong lớp học, học sinh có tính cách khác nhau có em nhút nhát có em
mạnh dạn nhưng khi kể không biết sử dụng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu giáo viên
không phân loại được học sinh thì sẽ không thể tổ chức tốt được tiết học Lịch
sử với phương pháp kể chuyện.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

18



Khoá luận tốt nghiệp
1.3. Môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5 và vấn đề sử dụng phương pháp kể chuyện
1.3.1. Nội dung chương trình phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5
* Lịch sử lớp 4 bao gồm các nội dung sau
- Buổi đầu dựng nước và giữ nước Văn Lang, Âu Lạc
- Hơn 1000 năm đấu tranh giành độc lập. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
chiến thắng Bạch Đằng.
- Bước đầu độc lập: Đinh Bộ Lĩnh kháng chiến chống Tống lần 1.
- Nước Đại Việt thời Lý: Rời đô ra Thăng Long, kháng chiến chống
Tống lần 2.
- Nước Đại Việt thời Trần: Đắp đê làm thủy lợi; Ba lần chống Nguyên Mông.
- Nước Đại Việt thời Lê: Chiến thắng Chi Lăng; Cải cách đất nước thời Lê.
- Trịnh Nguyễn phân tranh.
- Thời Tây Sơn: Tiến ra Thăng Long; Quang Trung đại phá quân Thanh;
Những cải cách của Quang Trung.
- Thời Nguyễn: Nửa đầu thế kỉ XIX; Sự ra đời nhà Nguyễn; Kinh đô Huế.
- Tìm hiểu lịch sử địa phương.
* Lịch sử lớp 5 gồm các nội dung sau
- 80 năm chống thực dân Pháp xâm lược.
- 9 năm kháng chiến (46-54).
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội 1975 đến nay. Một số thành tựu
tiêu biểu.
- Tìm hiểu lịch sử địa phương.
1.3.2. Đặc điểm của phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5
Phần Lịch sử bên cạnh sự cố gắng đạt được các yêu cầu: Trình bày
chính xác, phù hợp với tâm lý học sinh đã thể hiện điểm nhấn quan trọng là
đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, trong đó việc học tập của học

sinh được hiểu không phải là quá trình tiếp thu kiến thức mà là quá trình tự

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

19


Khoá luận tốt nghiệp
khám phá, tự phát hiện thông qua các hoạt động tìm tòi, điều tra, nghiên cứu
để hình thành hiểu biết người học. Sách giáo khoa viết ngắn gọn, rõ ràng, vừa
sức có tính đến việc dành thời gian cho hoạt động tự lập, tìm tòi, sáng tạo của
học sinh. Không viết theo lối diễn giảng, truyền thụ một chiều mà viết theo lối
gợi mở, nêu vấn đề. Các tài liệu khoa học được giới thiệu luôn kèm theo những
câu hỏi, những yêu cầu hoạt động theo ý đồ của người viết. Tranh ảnh không
chỉ minh họa mà là tư liệu cho học sinh. Ví dụ: Chiến thắng Điện Biên Phủ
bên ảnh Đoàn xe thồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, sách giáo khoa nêu:
Qua hình ảnh đoàn xe thồ, em có nhận xét gì. Các câu hỏi phong phú, đa
dạng đòi hỏi nhiều dạng tư duy khác nhau, nhằm vào nhiều đối tượng học sinh,
hướng vào tổ chức nhiều hoạt động khác nhau đối với các dạng khác nhau của
nguồn tư liệu lịch sử. Các sơ đồ, biểu bảng để minh họa cho bài viết hoặc là
nguồn nhận thức, nguồn dữ liệu để tổ chức hoạt động học tập của học sinh.
Chương trình chọn các yếu tố cốt lõi là hoạt động của con người và thành
tựu của hoạt động đó trong thời gian. Về thời gian và tiến trình lịch sử dân tộc :
tập trung vào những nội dung cơ bản nhất của lịch sử dân tộc từ buổi đầu dựng
nước đến nay, chú trọng giới hạn tạo cho học sinh các biểu tượng lịch sử về
các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu. Về cơ bản, nội dung vẫn giữ các chủ đề
như chương trình biên soạn từ 1998. Điểm mới thể hiện ở chỗ:
+ Đảm bảo sự chính xác của các sự kiện lịch sử, cập nhật những thành
tựu khoa học lịch sử trong thời gian qua.
+ Tinh giản nhằm đáp ứng yêu cầu của mục tiêu và đồng thời phù hợp

với trình độ nhận thức của học sinh.
Phần Lịch sử ở Tiểu học không trình bày lịch sử theo một hệ thống chặt chẽ
như ở các lớp lớn. Mỗi bài là một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu
biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Ví dụ: Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước (1954-1975) chỉ chọn dạy
học sinh các sự kiện, hiện tượng tiêu biểu như: đồng khởi ở miền Nam, nhân

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

20


Khoá luận tốt nghiệp
dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại và chi viện cho miền Nam, tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân 1968, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Khác với chương trình lịch sử trước đây và truyện kể lịch sử, chương
trình này không phải là sự tóm tắt của tiến trình phát triển của lịch sử, mỗi bài
là một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu được trình bày trong
bối cảnh lịch sử và trong tiến trình phát triển của lịch sử. Do đó sử dụng
phương pháp kể chuyện phù hợp bằng lời nói để tái tạo lịch sử, truyền cho các
em những cảm xúc mạnh mẽ.
Ngoài ra những bài học lịch sử có nội dung phản ánh những đặc trưng
địa phương nên dành thời gian để học sinh tìm hiểu, liên hệ với thực tế. Có thể
mời người hiểu biết về lĩnh vực kiến thức liên quan đến nội dung bài học kể
chuyện với học sinh.
1.4. Vai trò của phương pháp kể chuyện trong việc vận dụng để dạy học
phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5
Lịch sử là những sự việc đã diễn ra và tồn tại khách quan trong quá khứ.
Do đó không thể phán đoán, suy luận, tưởng tượng để nhận thức lịch sử, cũng
không thể quan sát (tri giác) trực tiếp những sự việc đã xảy ra, bởi nó là cái đã

qua và không thể tái diễn.
Muốn nhận thức lịch sử, con người phải thông qua những dấu tích của
quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại của các sự việc để tái tạo lịch sử, dựng
lại hình ảnh của sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử một cách cụ thể, rõ nét.
Vậy tái tạo lịch sử, dựng lại hình ảnh của quá khứ bằng cách nào? Có nhiều
biện pháp, con đường như cho học sinh tiếp nhận các thông tin tư liệu lịch sử,
sử dụng các phương tiện trực quan như tranh ảnh, bản đồ, mẫu vật, đồ phục
chế, xem phim tài liệu song phương pháp tỏ ra tiện dụng và hiệu quả nhất đó
là sử dụng lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên để kể chuyện. Có thể
nói đây là phương pháp đóng vai trò chủ đạo trong dạy học lịch sử rất phù hợp
với lứa tuổi học sinh Tiểu học. Nhờ có kể chuyện, từng sự kiện, biến cố lịch sử

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

21


Khoá luận tốt nghiệp
quan trọng hiện lên với đầy đủ tính cụ thể, gợi cảm và đầy kịch tính của nó,
đem đến cho học sinh những cảm xúc mạnh mẽ không thể nào quên.
Học sinh Tiểu học có các đặc điểm:
- Đặc điểm chú ý:
Chú ý có chủ định bắt đầu ổn định. Các phẩm chất ý chí: độc lập, kiên trì,
tự chủ bắt đầu hình thành. Học sinh có kĩ năng phân phối chú ý và hướng chú ý
vào nội dung cơ bản của bài học. Đặc điểm này cho phép giáo viên rèn luyện học
sinh thực hiện thành thục các thao tác, các kĩ năng nghe, nói trong kể chuyện.
- Đặc điểm tri giác:
Các em thường tri giác những gì phù hợp với nhu cầu, những gì thường
gặp, được hướng dẫn. Tri giác gắn liền với cảm xúc. Điều này cho thấy sự cần
thiết hướng dẫn học sinh nghe và kể chuyện thường xuyên.

- Đặc điểm trí nhớ:
Trí nhớ từ ngữ logic phát triển hơn trí nhớ trực quan nên các em có thể ghi
nhớ được câu chuyện, tự tìm được bằng nhiều hình thức trong đó có hình thức nói
thầm để ghi nhớ là chủ yếu.
- Đặc điểm tư duy:
Tư duy tưởng tượng khái quát hóa đang dần dần chiếm ưu thế. Học sinh
biết dựa vào các dấu hiệu bản chất của đối tượng rút ra nội dung, ý nghĩa câu
chuyện.
Do đó sử dụng phương pháp kể chuyện trong dạy học lịch sử rất phù
hợp đặc biệt là với những bài có tình tiết liên quan đến nhau theo thứ tự thời
gian như một cuộc khởi nghĩa, một trận đánh
2. Cơ sở thực tiễn
Để nắm được thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học và việc sử
dụng phương pháp kể chuyện vào dạy học Lịch sử trong môn Lịch Sử và Địa
lý lớp 4, 5 nói riêng, chúng tôi đã tiến hành điều tra tại hai trường Tiểu học:
- Trường Tiểu học Liên Minh Thành phố Vĩnh Yên
- Trường Tiểu học Thị trấn Sóc Sơn Hà Nội

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

22


Khoá luận tốt nghiệp
2.1. Nhận thức của giáo viên về phương pháp kể chuyện
Trước tiên, chúng tôi điều tra sự hiểu biết của giáo viên về phương pháp
kể chuyện. Để có kết quả chính xác, khách quan, chúng tôi sử dụng phiếu điều
tra kết hợp với trao đổi trò chuyện với giáo viên.
Nội dung phiếu điều tra: câu1 (phụ lục 1)
Kết quả điều tra được tổng kết bằng biểu đồ 1


90

84%

80
70
60
50
40
30
20
10

8%

8%

0

Quan niệm 1

Quan niệm 2

Quan niệm 3

Biểu đồ 1: Quan niệm của giáo viên về phương pháp kể chuyện

Biểu đồ cho thấy phần lớn các giáo viên đều có nhận thức đầy đủ về
phương pháp kể chuyện. Có 16% giáo viên hiểu biết chưa đầy đủ về phương

pháp kể chuyện và có tới 84% giáo viên đã hiểu biết đầy đủ về phương pháp
kể chuyện. Các thầy cô đều cho rằng đây là phương pháp dạy học truyền thống
phổ biến trong dạy học phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý ở Tiểu học
hiện nay.

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

23


Khoá luận tốt nghiệp
2.2. Mức độ và hiệu quả sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học
trong dạy học phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5
Nội dung phiếu điều tra: câu 2 (phụ lục 1 )
Kết quả điều tra được, chúng tôi tổng kết ở biểu đồ 2
90

83 %

80

75 %
67%

70

58 %

60
50


42 %

40

33 %

33 %

30
20

25 %

25 %
17 %

25 %
16 %

10
0 0

0 0

0

0

0


3 học
Dạy
dự án

Dạy 4học nêu
vấn đề

0

0
1
Thuyết trình

Thảo2luận
nhóm

Thường xuyên

Hiếm khi

Thỉnh thoảng

Chưa bao giờ

5
Kể chuyện

Biểu đồ 2: Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học trong dạy học phần
Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5

Biểu đồ cho thấy hiện nay các phương pháp dạy học được giáo viên sử
dụng chủ yếu vẫn là các phương pháp dạy học truyền thống. Phương pháp ưu
thế nhất vẫn là phương pháp thuyết trình (83% giáo viên được hỏi cho rằng
thường xuyên sử dụng phương pháp này) và 67% giáo viên thường xuyên sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm. Các phương pháp dạy học hiện đại như

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

24


Khoá luận tốt nghiệp
dạy học theo dự án, dạy học nêu vấn đề giáo viên còn sử dụng ở mức khiêm
tốn (0% giáo viên thường xuyên sử dụng các phương pháp này).
Từ việc nghiên cứu lí luận và nghiên cứu nội dung phần Lịch sử trong
môn Lịch sử và Địa lý, chúng tôi thấy nếu vận dụng phương pháp kể chuyện
vào dạy học Lịch sử một cách hợp lí sẽ đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, việc
vận dụng phương pháp kể chuyện vào dạy học Lịch sử ở mức chưa cao (16%
giáo viên được hỏi hiếm khi sử dụng phương pháp này).
2.3. Mức độ và hiệu quả sử dụng phương pháp kể chuyện trong dạy học
phần Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5
Nội dung điều tra: câu 3 ( phụ lục 1)
Kết quả điều tra được tổng kết ở biểu đồ 3
70
60

58%

50
40


25%

30

16%
20
10
0
0

Thường1xuyên

Thỉnh 2thoảng

3 khi
Hiếm

4 bao giờ
Cha

Biểu đồ 3: Mức độ sử dụng phương pháp kể chuyện trong dạy học phần
Lịch sử trong môn Lịch sử và Địa lý lớp 4, 5
Như vậy trong dạy học Lịch sử ở Tiểu học, phương pháp kể chuyện đã
và đang được sử dụng tương đối phổ biến. Có 58% giáo viên được hỏi là

Đặng Thị Bích - Lớp K32A-GDTH

25



×