Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế của huyện kiến thụy thành phố hải phòng gắn với thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.74 KB, 132 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Nội dung, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong Luận văn đều được
nêu rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ

Đặng Bá Cƣờng

i


LỜI CẢM ƠN
Học viên xin được gửi lời trân trọng cảm ơn tới các thầy, cô giáo Trường
Đại học Hàng Hải Việt Nam đã truyền đạt cho học viên những kiến thức cơ bản
về Quản lý kinh tế chương trình sau Đại học. Đặc biệt học viên trân trọng cảm
ơn Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Công Xưởng, Phó Trưởng phòng Khoa học công
nghệ Nhà trường đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo học viên trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành Luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời trân trọng cảm ơn tới các đồng chí trong Ban Thường
vụ Huyện uỷ, lãnh đạo UBND và các ngành của huyện Kiến Thụy đã tạo điều
kiện giúp đỡ và cung cấp tài liệu, thông tin, số liệu giúp tôi hoàn thành Luận
văn.
Tuy nhiên do kiến thức của bản thân chưa thật sâu rộng, thời gian dành
cho nghiên cứu đề tài không dài, vì vậy chắc chắn Luận văn này còn nhiều hạn
chế thiếu sót. Học viên rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo.

ii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ ...................................................... viii
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: .............................................................................. 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: ................................................... 2
2.1. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 2
2.2. Nhiệm vụ cụ thể........................................................................................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài................................................. 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................... 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 3
5. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn.............................................................. 3
5.1. Ý nghĩa khoa học ......................................................................................... 3
5.2. Ý nghĩa thực tiễn ......................................................................................... 4
6. Nội dung nghiên cứu ..................................................................................... 4
CHƢƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUY HOẠCH VÀ
CHƢƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI .................................................................................................................. 5
1.1. Cơ sở lý luận về quy hoạch......................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm, phân loại và phân cấp quy hoạch .............................................. 5
1.1.2 Mục tiêu của quy hoạch:............................................................................. 8
1.1.3 Yêu cầu của công tác quy hoạch: .............................................................. 10
1.1.4 Cơ sở lập quy hoạch: ................................................................................. 13
1.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến quy hoạch. ....................................................... 15
1.2 Những vấn đề cơ bản về Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới................................................................................................. 18
iii



1.2.1 Bối cảnh ra đời của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới........................................................................................................... 18
1.2.2 Những nội dung cơ bản của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới: ................................................................................................. 30
1.4 Kinh nghiệm quy hoạch của một số huyện trong toàn quốc: .................... 39
CHƢƠNG II ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA
HUYỆN KIẾN THỤY GIAI ĐOẠN 2010 - 2015 ............................................ 44
2.1 Đặc điểm tự nhiên, xã hội của huyện Kiến Thụy. ..................................... 44
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, xã hội của huyện Kiến Thụy. ....................................... 44
2.1.2 Phân tích đánh giá tiềm năng, lợi thế của huyện:........................................ 63
2.1.3. Phân tích những hạn chế, khó khăn của huyện: ......................................... 66
2.2. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện Kiến Thụy giai đoạn
2010 - 2015:..................................................................................................... 67
2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế của huyện:................................................... 67
2.2.2 Đánh giá thành tích, kết quả đạt được........................................................ 75
2.2.3 Đánh giá những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân .................................... 78
CHƢƠNG III QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ CỦA
HUYỆN KIẾN THỤY GIAI ĐOẠN 2015-2020 .............................................. 81
3.1 Định hƣớng phát triển kinh tế Huyện Kiến Thụy giai đoạn 2015-2020: ........ 81
3.1.1 Đối với ngành nông nghiệp:...................................................................... 82
3.1.2 Đối với ngành công nghiêp-xây dựng:....................................................... 84
3.1.3 Đối với ngành dịch vụ .............................................................................. 85
3.1.4 Đối với ngành thuỷ sản............................................................................. 87
3.2. Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế của huyện Kiến Thụy gắn với
thực hiện Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2015 - 2020. ............................................................................................ 87
3.2.1 Quy hoạch phát triển nông nghiệp:........................................................... 87
3.2.2 Quy hoạch phát triển công nghiệp ............................................................. 96

3.2.3 Quy hoạch phát triển thương mại dịch vụ ................................................ 101
iv


3.2.4 Quy hoạch phát triển ngành thủy sản....................................................... 105
3.2.5 Các giải pháp chung: .............................................................................. 111
KẾT LUẬN................................................................................................... 120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 123

v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Giải thích

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

CNH

Công nghiệp hóa

CP


Chính phủ

CT

Chỉ thị
Foreign Direct investment

FDI
(Đầu tư trực tiếp nước ngoài)
Gross Domestic Product
GDP
(Tổng sản phẩm nội địa)
HĐH

Hiện đại hóa

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

NXB

Nhà xuất bản
Offcial Development Asisstance

ODA
(Hỗ trợ phát triển chính thức)
THCS


Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân
vi


Vật liệu xây dựng

VLXD

vii


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Số bảng, sơ đồ

Tên bảng, biểu đồ, sơ đồ

Trang

Hình 2.1

Bản đồ huyện Kiến Thụy


46

Bảng 2.1

Thống kê một số tiêu chí về xã hội huyện

65

Bảng 2.2

Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của huyện

70

Bảng 2.3

Tổng hợp số xã đạt tiêu chí nông thôn mới

75

Biểu đồ 2.1

Tỷ lệ đóng góp Ngân sách năm 2012

78

Biểu đồ 2.2

Tỷ lệ đóng góp Ngân sách năm 2013


79

Biểu đồ 2.3

Tỷ lệ đóng góp Ngân sách năm 2014

79

Biểu đồ

viii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
1.1. Trong những năm qua, công tác quy hoạch đã được các ngành, các
địa phương hết sức quan tâm, triển khai một cách sâu rộng và quy hoạch đã thực
sự trở thành một trong những công cụ quản lý đắc lực của Nhà nước ở cả Trung
ương và địa phương. Dù còn những mặt hạn chế, yếu kém nhất định, song nhờ
có quy hoạch mà các cơ quan quản lý đã có những căn cứ thông tin khoa học
cho những quyết định quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, lĩnh
vực và địa phương.
Công tác quy hoạch giúp các ngành, các địa phương đảm bảo tính chủ
động, thống nhất, đồng bộ, bền vững trong quá trình phát triển. Nó cho phép huy
động mọi nguồn lực cho sự phát triển, đảm bảo hiệu quả cao nhất về kinh tế - xã
hội. Quy hoạch còn cho phép tranh thủ thời cơ, phát huy mọi tiềm năng lợi thế,
khắc phục được những hạn chế, khó khăn của mỗi ngành, mỗi địa phương trong
quá trình phát triển. Dựa vào quy hoạch, các ngành, các địa phương đã tổ chức
xây dựng các kế hoạch 5 năm và hàng năm, chủ động xây dựng các chương
trình, dự án thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước, tạo điều kiện thúc đẩy tốc độ

tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng,
phát triển văn hóa - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh…
“Quy hoạch là cương lĩnh thứ hai của Đảng, sau cương lĩnh chính trị”
(Lênin). Có thể nói, không có quy hoạch sẽ không có sự phát triển bền vững và
đồng bộ của mỗi ngành, mỗi địa phương nhất là đối với những địa phương có
điểm xuất phát thấp. Những năm qua Hải Phòng đã thực hiện tốt công tác quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương trong đó có các huyện ngoại
thành.
1.2. Kiến Thụy là một huyện ven biển nằm ở phía Đông Nam thành phố
Hải Phòng. Sau nhiều lần chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính, nhất là
sau khi triển khai thực hiện Nghị định số 145/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Kiến
1


Thụy về cơ bản trở thành một huyện thuần nông với điểm xuất phát thấp.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện Kiến Thụy sau
khi đã tách 6 xã có tốc độ đô thị hóa cao để thành lập quận Dương Kinh và quận
Đồ Sơn, ngày 03/8/2009, UBND thành phố Hải Phòng đã ban hành Quyết định
số 1472/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội huyện Kiến Thụy đến năm 2020”.
Đề án ban hành theo Quyết định 1472/QĐ-UBND là cơ sở quan trọng cho
việc triển khai lập các quy hoạch chuyên ngành, lĩnh vực, các dự án đầu tư trên
địa bàn theo quy định. Tuy nhiên sau khi đề án trên được phê duyệt, ngày
04/6/2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg về phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là nội
dung xuyên suốt, chi phối toàn bộ quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông
thôn, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các địa bàn nông thôn,
đặc biệt đối với các địa phương khó khăn với điểm xuất phát thấp như huyện
Kiến Thụy. Trong khi đó, nội dung, tinh thần của Chương trình mục tiêu quốc

gia xây dựng nông thôn mới chưa được thể hiện trong Đề án “Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Kiến Thụy đến năm 2020”.
Việc quy hoạch phát triển các ngành kinh tế giai đoạn 2015 - 2020 gắn
với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đối với
một đơn vị cấp huyện là hết sức cần thiết và cấp bách để phát huy tiềm năng, lợi
thế, tạo bước đột phá trong sự phát triển kinh tế của huyện. Xuất phát từ vấn đề
mang tính thời sự đó, học viên chọn “Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế
của huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng gắn với thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đến năm 2020” làm Đề tài luận
văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế của huyện Kiến Thụy gắn với
2


thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến năm
2020
2.2. Nhiệm vụ cụ thể
2.2.1 Hệ thống hóa cơ sở lý luận và các văn bản quy phạm pháp luật về
quy hoạch và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
2.2.2. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện Kiến Thụy 20102015
2.2.3 Đề xuất quy hoạch chi tiết phát triển các ngành kinh tế của huyện
Kiến Thụy từ năm 2015 đến năm 2020
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các ngành kinh tế của huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Thời gian số liệu khảo sát, phân tích đánh giá: từ năm 2010 - 2015
3.2.2 Không gian: trên địa bàn huyện Kiến Thụy

3.2.3 Nghiên cứu quy hoạch chi tiết các ngành kinh tế của huyện Kiến
Thụy gắn với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tổng hợp, đánh giá
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích hệ thống
5. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quy hoạch phát triển các lĩnh vực kinh tế

3


5.2. Ý nghĩa thực tiễn
5.2.1 Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện Kiến Thụy, khẳng
định những thành tựu đã đạt được, nhận rõ tiềm năng lợi thế của huyện cũng
như những khó khăn yếu kém của các ngành kinh tế huyện Kiến Thụy
5.2.2 Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế của huyện Kiến Thụy gắn
với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2015 - 2020
6. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung chính của đề tài bao
gồm 3 chương cụ thể:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về quy hoạch và Chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Chương II: Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện Kiến Thụy giai
đoạn 2010 - 2015

Chương III: Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế của huyện Kiến Thụy
giai đoạn 2015 - 2020

4


CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUY HOẠCH VÀ
CHƢƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI
1.1. Cơ sở lý luận về quy hoạch
1.1.1. Khái niệm, phân loại và phân cấp quy hoạch
1.1.1.1. Khái niệm quy hoạch
Cương lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) có nêu: “Nhà nước quản lý nền kinh
tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”. Như vậy,
trong các công cụ quản lý Nhà nước, có chiến lược, có quy hoạch, có kế hoạch.
Tuy nhiên trên thực tế, có nhiều ý kiến còn nhầm lẫn giữa chiến lược và quy
hoạch. Có ý kiến lại nhầm lẫn giữa quy hoạch và kế hoạch.
Có nhiều khái niệm khác nhau về quy hoạch, song có thể nói khái niệm
quy hoạch được đưa ra trong dự thảo Luật quy hoạch là chặt chẽ và sát hợp nhất.
Theo đó, quy hoạch là định hướng và sắp xếp, phân bổ không gian các hoạt
động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường để sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn lực hữu hạn của đất nước phục vụ cho mục tiêu phát triển bền
vững do Nhà nước đặt ra cho thời kỳ dài hạn trên một lãnh thổ xác định [9].
Như vậy, có thể thấy rằng, sự khác biệt giữa chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch nằm ở các tiêu chí như: thời gian định hướng; mức độ chi tiết, cụ thể của
các phương hướng; việc tổ chức, bố trí không gian các định hướng phát triển
(chỉ riêng quy hoạch là có); mức độ chi tiết của các giải pháp.

So với chiến lược, quy hoạch có những điểm khác biệt như quy hoạch chi
tiết hơn về định hướng phát triển, bố trí tương đối cụ thể theo lãnh thổ; bước đầu
dự báo các nguồn lực thực hiện quy hoạch; có danh mục dự án ưu tiên nghiên cứu
đầu tư.
5


Còn so sánh giữa quy hoạch và kế hoạch thì kế hoạch có những điểm
khác biệt như: các định hướng, mục tiêu cho thời gian mang tính ràng buộc,
pháp định cao hơn; các cân đối chủ yếu (tích lũy - tiêu dùng, thu - chi ngân sách,
cán cân thanh toán, cân đối vốn đầu tư phát triển , cân đối lao động - việc
làm…) được cụ thể hóa; chương trình, dự án đầu tư công được xác định cụ thể.
Mục tiêu của quy hoạch là nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực
hữu hạn của đất nước vào các yêu cầu phát triển bền vững. Nhiều quốc gia đã
phải trả giá cho sự phát triển một cách tự phát, thiếu quy hoạch dẫn đến cạn kiệt
nguồn tài nguyên hoặc gây ra những bất ổn về mặt xã hội. Ý nghĩa của công tác
quy hoạch chính là đảm bảo cho một sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, địa
phương.
Quy hoạch được xây dựng cho một thời kỳ dài hạn trên một lãnh thổ xác
định. Đây chính là sự khác nhau giữa quy hoạch và kế hoạch và cũng là căn cứ
để xác định các cấp quy hoạch (cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh và cấp huyện).
1.1.1.2. Phân loại quy hoạch:
Hệ thống quy hoạch ở nước ta hiện nay có thể phân thành 4 loại chủ yếu:
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển ngành, sản
phẩm; quy hoạch xây dựng; quy hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là luận chứng phát triển
kinh tế - xã hội và tổ chức không gian các hoạt động kinh tế - xã hội hợp lý trên
một vùng lãnh thổ nhất định trong một thời gian xác định.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội bao gồm:
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, vùng kinh tế trọng điểm.

Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cấp tỉnh.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cấp huyện [10].
Đối với quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm:
Các ngành kinh tế - kỹ thuật phải lập quy hoạch gồm: công nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản; công nghiệp khai thác mỏ; công nghiệp chế biến nông, lâm
sản; công nghiệp dệt, da, may; công nghiệp hóa chất; công nghiệp cơ khí và gia
6


công kim loại. Thương mại, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; du lịch; giao thông
vận tải, bưu chính, viễn thông; thủy lợi và sử dụng tổng hợp nước; năng lượng;
hệ thống giáo dục - đào tạo, hệ thống cơ sở y tế và chăm sóc sức khỏe; thể dục,
thể thao, khoa học công nghệ bảo vệ môi trường.
Các sản phẩm chủ yếu phải lập quy hoạch bao gồm: mạng lưới giao thông
đường bộ, đường sắt, đường hàng không và hệ thống sân bay; hệ thống cảng
biển, hệ thống các khu công nghiệp và đô thị với các khu công nghiệp; hệ thống
các trường Đại học, các Trung tâm dạy nghề; sản xuất xi măng và vật liệu xây
dựng cao cấp, luyện kim; điện, điện tử và tin học, ô tô, xe máy; đóng và sửa
chữa tàu thuyền; phát triển khai thác và chế biến thủy sản, hải sản; quy hoạch
phát triển một số cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả; quy hoạch vùng nguyên
liệu [10].
Quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm bao gồm:
Quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực cấp quốc gia.
Quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực cấp tỉnh.
Quy hoạch phát triển các sản phẩm chủ yếu cấp quốc gia.
Quy hoạch phát triển các sản phẩm chủ yếu cấp tỉnh [10].
Quy hoạch xây dựng: là việc tổ chức không gian của đô thị, nông thôn và
khu chức năng đặc thù; tổ chức hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội; tạo lập môi trường thích hợp cho người dân sống tại các vùng lãnh thổ, đảm
bảo sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích Quốc gia với lợi ích cộng đồng, đáp ứng mục

tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, ứng phó
với biến đổi khí hậu. Quy hoạch xây dựng được thể hiện thông qua đề án quy
hoạch xây dựng gồm sơ đồ, bản vẽ, mô hình và thuyết minh.
Quy hoạch xây dựng gồm: quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị, quy hoạch
khu chức năng đặc thù, quy hoạch nông thôn.
Quy hoạch sử dụng đất: là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và
pháp chế của Nhà nước về tổ chức và sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, khoa học và có
hiệu quả cao nhất thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất cả nước, tổ
7


chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn
liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và
môi trường [3].
Quy hoạch sử dụng đất thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử, tính khống
chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp thành
quan trọng của hệ thống quy hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân [3].
1.1.2 Mục tiêu của quy hoạch:
Trong các nội dung quản lý Nhà nước thì xây dựng và chỉ đạo thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch luôn là nội dung hàng đầu, chi phối các nội
dung khác. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) có nêu: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định
hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”.
Như vậy, có thể thấy Nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch
nhằm tới các mục tiêu sau đây:
1.1.2.1 Đảm bảo tính chủ động, thống nhất, đồng bộ và bền vững của sự
phát triển kinh tế, xã hội.
Như đã phân tích, quy hoạch là công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước
mà trước hết là Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước Nhà nước xã hội chủ nghĩa,

các nhà nước phong kiến, tư sản chỉ có chức năng bạo lực trấn áp, trấn áp sự
phản kháng của gia cấp bị trị. Đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức xây
dựng là chức năng quan trọng để đảm bảo cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới
đối với tàn dư và sự phản kháng của giai cấp bóc lột, phản động.
Vai trò tổ chức xây dựng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện
thông qua chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Chính quy hoạch (cùng với chiến
lược và kế hoạch) là sự đảm bảo cho kinh tế - xã hội phát triển một cách chủ
động, thống nhất, đồng bộ và bền vững. Nhà nước tư sản, sau nhiều thế kỷ phát
triển với những cuộc đại khủng hoảng kinh tế dần dần cũng đã có sự điều chỉnh
để vươn sang thực hiện chức năng tổ chức xây dựng, can thiệp vào quá trình
8


phát triển kinh tế của xã hội. Cho đến bây giờ, không còn ai nghi ngờ về vai trò
của quy hoạch đối với sự phát triển bền vững của các quốc gia.
1.1.2.2 Huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển, đảm bảo hiệu quả cao
nhất về kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ chiến lược, quy hoạch cụ thể hóa bằng định hướng phát triển,
dự báo các nguồn lực thực hiện, cụ thể hóa các cân đối chủ yếu và đề ra các
chính sách để huy động nguồn lực. Rõ ràng, nếu không có quy hoạch thì không
thể dự báo các nguồn lực và huy động được nguồn lực. Một chính sách đúng đắn
xuất phát từ quy hoạch có thể huy động được nguồn lực to lớn, rộng rãi của toàn
xã hội. Một chính sách đúng đắn và đồng bộ cũng đảm bảo cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội có hiệu quả cao nhất thông qua các đơn vị trong quản lý
kinh tế, xã hội do dự báo được diễn biến của tình hình, các chỉ tiêu và kịch bản
phát triển. Nhờ có dự báo diễn biến tình hình, kịch bản phát triển, quy hoạch đã
“minh bạch hóa” cả tương lai, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có sự lựa chọn
tối ưu trong đầu tư kinh doanh, đảm bảo cho đầu tư có hiệu quả cao nhất.
1.1.2.3 Phát huy mọi tiềm năng lợi thế, tranh thủ thời cơ, khắc phục được
những hạn chế, khó khăn của mỗi ngành, mỗi địa phương trong quá trình phát

triển.
Trong quá trình xây dụng quy hoạch, việc phân tích đánh giá điều kiện tự
nhiên, các nguồn lực phát triển, hiện trạng phát triển, những vấn đề cần giải
quyết là một trong những việc làm đầu tiên. Khâu mở đầu này của công tác quy
hoạch giúp chúng ta đánh giá đúng thời cơ và thuận lợi, nhận rõ khó khăn, thách
thức và hạn chế yếu kém.
Quy hoạch còn dự báo tình hình có liên quan, các chỉ tiêu và kịch bản
phát triển, cho phép chúng ta nhận rõ thời cơ và thách thức.
Quy hoạch với những giải pháp được đề ra sẽ giúp cho chủ thể xây dựng
quy hoạch tranh thủ được thời cơ, phát huy mọi tiềm năng lợi thế, đồng thời
khắc phục được hạn chế, khó khăn, yếu kém của mỗi ngành, địa phương trong
quá trình phát triển.
9


1.1.3 Yêu cầu của công tác quy hoạch:
1.1.3.1 Đảm bảo tính thống nhất, tính tuân thủ trong hệ thống quy hoạch
Trong hệ thống quy hoạch ở nước ta hiện nay, quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội là “quy hoạch cái”, “quy hoạch gốc” và phải đảm bảo vai
trò đi trước đối với các quy hoạch khác. Trong xây dựng quy hoạch, cần đảm
bảo tính gắn kết, thống nhất giữa các quy hoạch.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay sự thiếu gắn kết giữa
các quy hoạch nhất là khi xử lý các vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng diễn
ra khá phổ biến. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội chỉ xác định
những chỉ tiêu, định hướng phát triển mà xem nhẹ việc tổ chức không gian lãnh
thổ. Quy hoạch ngành thiếu tính tổng thể, xem nhẹ việc gắn kết ngành và lãnh
thổ. Quy hoạch xây dựng vùng thiếu cơ sở để xác định động lực cho sự phát
triển. Quy hoạch sử dụng đất thiếu sự gắn kết với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng vùng.
Mỗi quy hoạch được xây dựng phải đảm bảo tương thích với các quy

hoạch khác, đồng thời tránh trùng lặp với quy hoạch khác trên cùng một không
gian lãnh thổ. Đảm bảo lồng ghép, tích hợp quy hoạch ngành, sản phẩm, quy
hoạch xây dựng vùng và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nhưng
đồng thời phân định rõ nội dung của từng loại quy hoạch, từng cấp quy hoạch.
1.1.3.2 Đảm bảo sự tham gia của các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp và
cá nhân trong quá trình xây dựng quy hoạch.
Quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch là vấn đề liên quan đến toàn xã
hội, mang tính chất xã hội sâu rộng. Kể cả với quy hoạch phát triển một ngành,
một sản phẩm nào đó thì nó cũng liên quan đến hoạt động của ngành, lĩnh vực
khác. Hơn nữa, quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch luôn có tác động ảnh
hưởng đến sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn
lãnh thổ hoặc trong ngành, lĩnh vực đó.
Các hoạt động quy hoạch thiếu sự tham gia của các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp… sẽ mất đi tính khả thi của nó. Xây dựng quy hoạch không thể
10


dựa trên ý chí của một người, hoặc một nhóm người. Xây dựng quy hoạch phải
được thực hiện theo quy trình đã được pháp luật quy hoạch.
Thực tế hiện nay ở nhiều nơi, quá trình xây dựng quy hoạch (cũng như
chủ trương kế hoạch) chưa đảm bảo tính công khai, dân chủ do vậy đã làm cho
nội dung quy hoạch không sát với thực tế vì nó chỉ xuất phát từ ý chí chủ quan
của một số người.
Ngoài các ngành chức năng, các tổ chức doanh nghiệp hoạt động trên địa
bàn lãnh thổ đó, trong lĩnh vực, ngành đó cũng phải xuất phát từ thực tiễn hoạt
động của mình để tham gia xây dựng quy hoạch.
1.1.3.3 Đảm bảo tính khoa học, đáp ứng được yêu cầu thực tế và phù hợp
với xu thế phát triển chung trên thế giới.
Tính khoa học phải được thể hiện trong cả nội dung quy hoạch, quy trình
lập, thẩm định quy hoạch. Yêu cầu về đảm bảo tính khoa học trong quy hoạch

xin được đi sâu phân tích cụ thể trong phần tiêu chí về nội dung và tiêu chí về
quy định lập, thẩm định quy hoạch.
1.1.3.4 Bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hóa, lịch sử, nét đặc trưng của
dân tộc và của từng địa phương trong quá trình lập quy hoạch.
Bảo vệ môi trường là vấn đề lớn, mang tính thời đại trên phạm vi toàn
cầu. Rất nhiều quốc gia đã phải trả giá đắt cho sự phát triển “nóng” của mình.
Sự phát triển mà không có quy hoạch, hoặc quy hoạch mà không tính đến yếu tố
bảo vệ môi trường thì sẽ để lại đằng sau sự phát triển đó những bãi sa mạc. Bảo
vệ môi trường, bởi vậy chính là sự bảo vệ cho cuộc sống của các thế hệ tương
lai. Thực tế ở một số địa phương thời gian qua, vấn đề bảo vệ môi trường chưa
được sự quan tâm đúng mức đã dẫn đến những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với
cuộc sống của người dân mà để khắc phục, Nhà nước đã phải chi ra một khoản
kinh phí không nhỏ. Bảo vệ môi trường là đảm bảo tính bền vững cho sự phát
triển. Quy hoạch cũng nhằm đến sự bền vững trong sự phát triển. Chính vì vậy có
thể nói, bảo vệ môi trường là yêu cầu tiên quyết, không thể tách rời trong quá
trình quy hoạch.
11


Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã xác định “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc,
là cốt lõi bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới, và giao lưu văn
hóa.” Như vậy bảo tồn văn hóa lịch sử chính là bảo tồn bản sắc dân tộc, là sự
đảm bảo cho sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Ở một vị trí địa lý hết sức đặc
biệt, với một chiều dài lịch sử luôn phải đấu tranh cam go để bảo vệ chủ quyền
quốc gia dân tộc, dân tộc Việt Nam đã tồn tại và chiến thắng. Một phần quan
trọng, quyết định sức mạnh của dân tộc ta chính là ở chỗ dân tộc ta luôn biết bảo
tồn văn hóa, lịch sử. Với ý nghĩa đó, trong quá trình lập quy hoạch, phải bảo tồn
văn hóa, lịch sử, nét đặc trưng của dân tộc và của từng địa phương.
1.1.3.5 Phân bổ, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên

nhiên đất đai, mặt nước và các nguồn lực khác để phát triển bền vững; đảm bảo
yêu cầu công bằng xã hội, quốc phòng và an ninh trong quy hoạch.
Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương có định hướng phát triển khác
nhau với nhu cầu về nhân, tài, vật, lực khác nhau. Luôn có sự mâu thuẫn giữa
nhu cầu phục vụ phát triển của các ngành, lĩnh vực, địa phương với khả năng
đáp ứng của các nguồn lực quốc gia cả về tài nguyên thiên nhiên và không gian
lãnh thổ. Quy hoạch là gì, nếu không phải là sự sắp xếp, điều phối chung cho
nhu cầu phát triển của tất cả các ngành, lĩnh vực, địa phương? Bản thân khái
niệm quy hoạch đã bao hàm sự phân bổ, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả
nhất tài nguyên và các nguồn lực có hạn của đất nước nhắm đến mục tiêu phát
triển bền vững. Nói một cách khác, không đảm bảo được yêu cầu này thì có thể
coi là chưa có quy hoạch.
Công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là lực của quá trình phát triển.
Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Và cũng chỉ có công bằng xã hội, cùng với thực hành dân chủ rộng rãi mới tạo
ra được một động lực mạnh mẽ, cho phép phát huy nội lực của cả dân tộc để đưa
đất nước và xã hội phát triển, ngày càng văn minh. Chính vì vậy, quy hoạch
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường phải hết sức chú ý giữ vững định
12


hướng xã hội chủ nghĩa để đảm bảo công bằng xã hội.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta. Tăng cường và củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
là điều kiện quan trọng để đảm bảo môi trường hòa bình, thuận lợi cho sự phát
triển chung của đất nước cũng như của mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương. Trong
thực tế, giữa phát triển kinh tế - xã hội và cũng cố quốc phòng, an ninh có nơi có
lúc xét trong phạm vi hẹp có sự xung đột về mặt nhu cầu phát triển và cũng đã
có nơi có lúc, có ngành, địa phương vì lợi ích cục bộ của ngành mình, địa
phương mình trong quá trình phát triển đã làm ảnh hưởng lợi ích quốc phòng, an

ninh. Chính vì vậy, quy hoạch phải đảm bảo được lợi ích quốc phòng, an ninh
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.4 Cơ sở lập quy hoạch:
Các nguyên tắc cơ bản của quy hoạch sẽ được phân tích cụ thể ở phần 1.1.5.
Trong các nguyên tắc đó, đảm bảo tính khoa học, đáp ứng được yêu cầu thực tế và
phù hợp với xu thế phát triển chung trên thế giới là một nguyên tắc hết sức quan
trọng. Có thể coi đây là nguyên tắc cơ bản giúp cho việc lập quy hoạch đảm bảo
dựa trên cơ sở vững chắc. Như vậy, có thể thấy việc lập quy hoạch phải được dựa
trên một số cơ sở sau:
1.1.4.1 Định hướng chiến lược có liên quan đến quy hoạch
Như đã phân tích ở phần 1.1.1 , cùng với quy hoạch thì chiến lược cũng là
một trong các công cụ quản lý Nhà nước quan trọng. Và so với quy hoạch thì chiến
lược mang tính định hướng tổng quát. Ngược lại, quy hoạch thì chi tiết hơn về định
hướng phát triển, bố trí tương đối cụ thể theo lãnh thổ, bước đầu dự báo các nguồn
lực thực hiện, có danh mục dự án ưu tiên nghiên cứu đầu tư.
Như vậy rõ ràng rằng, khi lập quy hoạch, dù là quy hoạch phát triển kinh tế
xã hội, quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử
dụng đất thì căn cứ đầu tiên để lập quy hoạch phải là những định hướng chiến lược
có liên quan đến quy hoạch.
Khi xây dựng quy hoạch ở cấp mình, cơ quan lập quy hoạch phải căn cứ vào
13


định hướng chiến lược có liên quan nội dung quy hoạch cần xây dựng. Chẳng hạn
quy hoạch phát triển nông nghiệp ở một địa phương phải căn cứ vào định hướng
chiến lược phát triển nông nghiệp của cả nước, cả về lộ trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, về quỹ đất dành cho nông nghiệp, cho trồng lúa, về định hướng cơ cấu nội
bộ ngành (tổng công ty chăn nuôi trồng trọt …) Và ở quy hoạch chuyên ngành của
cấp trên cũng là căn cứ quan trọng để xây dựng quy hoạch chuyên ngành cấp dưới
(quy hoạch phát triển công nghiệp cấp huyện phải dựa trên quy hoạch phát triển

công nghiệp cấp tỉnh).
1.2.4.2 Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Quy hoạch là một công cụ quản lý Nhà nước, do vậy nó phải dựa trên những
căn cứ pháp lý, đó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Quy
hoạch nếu không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì nó chỉ là
công trình nghiên cứu mà chưa phải là công cụ quản lý Nhà nước.
Như vậy rõ ràng là quy hoạch, với tính cách là một công cụ quản lý Nhà
nước phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan. Đó là những văn bản quy phạm pháp luật về công tác quy hoạch: những quy
định về nguyên tắc lập quy hoạch; những văn bản quy định về phát triển ngành,
lĩnh vực có liên quan, những văn bản mang tính chỉ đạo chiến lược của Trung
ương, mang tính chỉ đạo thực hiện của các bộ, ngành, của các tỉnh… Khi xây dựng
quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực này, chúng ta không thể bỏ qua các văn bản
quy phạm trong lĩnh vực, ngành có liên quan: quy hoạch hệ thống sân golf phải
căn cứ vào những văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc sử dụng đất ( đất
nông nghiệp, đất công nghiệp)
Nhiều quy hoạch được lập trong thời gian qua ở một số địa phương do thiếu
nghiên cứu kỹ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan nên sau đó đã phải điều
chỉnh.
1.1.4.3 Tình hình đặc điểm và thực trạng phát triển kinh tế xã hội của địa
phương.
Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Không có và sẽ không bao giờ có
14


một quy hoạch mẫu nào có thể áp dụng tuyệt đối cho mọi ngành, sản phẩm, lĩnh
vực, địa phương. Quan điểm duy vật biện chứng đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế
khách quan, phát huy tính năng động chủ quan.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của một huyện đồng bằng ven
biển với những tiềm năng lợi thế để phát triển thủy sản không thể được áp dụng

vào để phát triển kinh tế xã hội của một huyện trung du hay miền núi. Quy hoạch
sử dụng đất ở một huyện đồng bằng sông Cửu Long không thể được áp dụng đối
với một quận nội thành Hà Nội.
Việc xây dựng quy hoạch phải căn cứ vào tình hình đặc điểm tự nhiên (vị trí
địa lý, địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu …) và xã hội (dân số, dân trí, phong tục, tập
quán …), vào thực trạng phát triển KT-XH của một địa phương với những tiềm
năng lợi thế, những khó khăn thách thức riêng có. Đó là một vấn đề tuyệt đối đúng.
1.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến quy hoạch.
Xây dựng quy hoạch là một quá trình vừa mang tính khoa học, phù hợp
với xu thế phát triển chung của thế giới đồng thời phải xuất phát từ thực tiễn và
phù hợp, thống nhất với chiến lược và quy hoạch của cấp trên. Chất lượng quy
hoạch phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà những người làm
quy hoạch cần nắm vững.
1.1.5.1 Tư duy nhận thức của các cấp, các ngành lập quy hoạch
Tư duy nhận thức chi phối hành động. Tư duy nhận thức đúng thì hành
động mới có thể đúng. Hiện nay, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, có cấp, ngành chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của quy hoạch trong
nền kinh tế thị trường, còn mang nặng tư tưởng cục bộ khi xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật và những chính sách liên quan đến quy hoạch. Tư tưởng chủ
nghĩa bình quân, căn bệnh thành tích và sự phối hợp kém hiệu quả của các cấp,
các ngành đã tác động mạnh mẽ đến công tác quy hoạch, làm cho quy hoạch
thiếu khách quan, không khả thi và điều chỉnh tùy tiện.
Xuất phát từ việc chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của quy hoạch,
có ngành, có địa phương chưa quan tâm đến quy hoạch, còn tư tưởng “khoán
15


trắng” việc xây dựng quy hoạch cho đơn vị tư vấn lập quy hoạch mà chưa nhận
thức đúng rằng, đơn vị tư vấn lập quy hoạch chỉ là người thể hiện ý tưởng của
ngành mình, địa phương mình, còn bản thân ngành mình, địa phương mình mới

là chủ thể trong việc xây dựng quy hoạch.
Các ngành, các địa phương cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của quy
hoạch, tránh “tư duy nhiệm kỳ”, phải thấy rõ quy hoạch là công cụ quản lý quan
trọng của Nhà nước ở cả Trung ương và địa phương, từ đó quan tâm đầu tư trí
tuệ để xây dựng quy hoạch, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của ngành
mình, địa phương mình.
1.1.5.2 Chất lượng đội ngũ những người tham gia vào công tác quy hoạch
(quản lý Nhà nước, tư vấn lập quy hoạch…)
Đây là yếu tố con người, có tác động ảnh hưởng lớn đến quá trình xây
dựng quy hoạch và chất lượng quy hoạch. Như đã phân tích, chất lượng của
nhiều quy hoạch còn thấp, tầm nhìn ngắn hạn, một phần chủ yếu do hạn chế của
những người tham gia vào quá trình lập, thẩm định quy hoạch. Bên cạnh tình
trạng “tư duy nhiệm kỳ”, do công tác dự báo còn nhiều bất cập, việc sử dụng các
công cụ hiện đại vào công tác quy hoạch còn có những hạn chế dẫn đến quy
hoạch có tầm nhìn ngắn hạn, còn mang tính chủ quan, áp đặt, mong muốn mà
chưa thực sự dựa trên các cơ sở khoa học vững chắc.
Đội ngũ cán bộ, chuyên gia tư vấn quy hoạch cần được đào tạo bài bản để
đáp ứng được yêu cầu đổi mới về phương pháp lập quy hoạch trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường, cần xây dựng rõ nội dung quy hoạch nào là do Nhà nước tổ chức thực
hiện, nội dung nào do thị trường quyết định.
1.1.5.3 Tính khoa học trong quá trình tổ chức lập quy hoạch
Như đã phân tích, quá trình tổ chức lập quy hoạch phải đảm bảo tính khoa
học, phải phù hợp với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Quá trình tổ chức lập quy hoạch cần áp dụng kinh nghiệm quốc tế nhưng
16


phù hợp với trình độ và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là nước đang phát

triển và có nền kinh tế chuyển đổi.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phương pháp lập quy hoạch
như hiện nay không phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường và chưa
theo kịp xu thế tiến bộ của thế giới. Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố thị
trường thường xuyên có sự biến động, trong khi quy hoạch đưa ra các chỉ tiêu cụ
thể, cứng nhắc mà không có kịch bản phát triển phù hợp nên quy hoạch thiếu
thực tế.
Tuy nhiên, tính khoa học trong quá trình tổ chức lập quy hoạch lại phụ
thuộc vào quy định về công tác tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch.
Cũng theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay quy định về công tác
tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch chưa hợp lý, thiếu đồng bộ và
còn mang tính hình thức. Các bộ, ngành, địa phương tự tổ chức lập, thẩm định,
trình phê duyệt trong điều kiện cơ chế phối hợp chưa tốt dẫn đến sự thiếu khớp
nối, mâu thuẫn và chồng chéo giữa các loại quy hoạch. Việc phân cấp quy hoạch
chưa hợp lý: phân cấp mạnh mẽ cho các bộ, ngành, địa phương mà chưa có cơ
chế phối hợp chặt chẽ dẫn đến sự chia cắt, mâu thuẫn giữa các quy hoạch. Các
quy hoạch ngành, quy hoạch địa phương hiện nay được tổ chức lập, thẩm định
trình phê duyệt một cách tương đối “khép kín”, việc tham gia, phối hợp của các
bộ, ngành, địa phương khác là chưa chặt chẽ, nhiều khi mang tính hình thức, do
vậy dẫn đến sự chia cắt, mâu thuẫn và không đảm bảo nguồn lực thực hiện các
quy hoạch. Nhiều quy hoạch được phê duyệt nhưng không được thực hiện do
thiếu sự chỉ đạo, điều hành kiên quyết của các cấp, các ngành hoặc do thiếu cơ
quan trực tiếp chỉ đạo điều hành phát triển. Vì thế nhiều dự án “ưu tiên đầu tư”
trong quy hoạch bị “treo” một thời gian rất dài.
Có thể nói, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch hiện được
ban hành quá nhiều (hoạt động quy hoạch được điều chỉnh tại 52 Luật, 07 pháp
lệnh và 59 nghị định hướng dẫn luật, pháp lệnh), song lại không thống nhất, nhất
là các văn bản quy phạm pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn với nhau là nguyên
17



×