Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Sử dụng bảng biểu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới nhằm phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh trong môn địa lý THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.2 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

Mục
1

Nội dung

Trang

Mở đầu

2

1.1

Lí do chọn đề tài

2

1.2

Mục đích nghiên cứu

3

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3-4


1.4

Phương pháp nghiên cứu

4

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

5

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

5

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

5

2.3

Các SKKN

7

2.4


Hiệu quả của SKKN

20

3

Kết luận, kiến nghị

21

3.1

Kết luận

21

3.2

Kiến nghị

23

Tài liệu tham khảo

24

Phụ lục

24


2

1


1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài:
Môn Địa lí ở trường THCS là một môn học riêng với mức độ yêu cầu của
môn học: ngoài việc học sinh phải nắm được đặc điểm của khoa học Trái Đất (lớp
6),về tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của thế giới, các châu lục, các quốc gia điển
hình trong từng khu vực của một châu lục (Địa lí- lớp 7) hay của một nước cụ thể
(Địa lí Việt Nam- lớp 8, 9)…Môn Địa lí cấp THCS còn đòi hỏi mức độ tư duy tương
đối cao để tìm ra mối liên hệ Địa lí giữa các thành phần tự nhiên với kinh tế- xã hội;
mối quan hệ của các yếu tố trong từng thành phần. Yêu cầu về kĩ năng: tính toán, sử
lý số liệu; kĩ năng đọc, nhận xét bảng số liệu, bản đồ, biểu đồ…Kĩ năng vận dụng
kiến thức đã học để thực hành, để quan sát thực tế hoặc vận dụng kiến thức từ tìm
hiểu, quan sát thực tế, kĩ năng thực hành để giải quyết một vấn đề, để trình bày một
vấn đề có liên quan cần tìm hiểu của môn học. Từ những vấn đề đã tìm hiểu được,
yêu cầu học sinh trình bày được thái độ thông qua những đánh giá- tìm ra những mặt
tích cực, tiêu cực của vấn đề hoặc ảnh hưởng của những vấn đề đó và tìm các giải
pháp cho vấn đề tìm hiểu hoặc các vấn đề liên quan đến đối tượng tìm hiểu.
Với các yêu cầu cơ bản trên, hiện nay phần lớn giáo viên bộ môn Địa lí trong
huyện Thạch Thành đã tích cực nắm bắt nội dung chương trình, đầu tư nghiên cứu về
chuyên môn, áp dụng các phương pháp dạy học để đáp ứng yêu cầu giáo dục trong
gia đoạn mới. Điều này được thể hiện rất rõ qua sự chuyển biến về chất lượng đội
ngũ giáo viên qua các kì hội thảo chuyên đề, qua thi khảo sát, thi giáo viên giỏi các
cấp. Đặc biệt sự chuyển biến trên thể hiện rõ ở việc số học sinh yêu thích môn học
ngày càng tăng; chất lượng học sinh đại trà cũng như chất lượng mũi nhọn của các
đợt kiểm tra, thi học sinh giỏi đã phản ánh được điều đó.
Mặc dù có những chuyển biến tích cực đáng kể trên, song không thể phủ nhận

một điều: vẫn còn tồn tại trong bộ phận giáo viên cách nghĩ, cách làm: cho rằng môn
Địa lí chỉ cần học thuộc, học tủ để thi lấy điểm số là đủ. Đối với phụ huynh, khi có
con em chọn thi học sinh giỏi môn Địa lí hoặc thi tốt nghiệp, thi Đại học có môn Địa
lí đều có tâm lí chung cho rằng đây là môn học thuộc vì vậy thường có thái độ xem
thường và nhiều phụ huynh tỏ thái độ không đồng tình cho con phát triển ở môn học
này .
Vẫn còn tồn tại cách nghĩ, cách làm như trên một phần họ cho rằng làm như vậy là
đáp ứng được nguyện vọng của phần lớn phụ huynh và học sinh trong việc ưu tiên
thời gian và tâm trí cho những môn học chính. Đồng thời dạy học đối phó như thế
còn giúp giáo viên đỡ mất thời gian công sức nghiên cứu, tìm tòi. chính việc làm và
suy nghĩ trên của giáo viên và phần lớn phụ huynh cũng là một nguyên nhân quan
trọng dẫn tới ý thức ỷ lại, lười học, lười suy nghĩ của phần lớn học sinh đối với việc
học nói chung đối với bộ môn nói riêng.
Bên cạnh đó vẫn còn nhiều giáo viên chưa chú ý đến yêu cầu ở trang 3 của “
Phân phối chương trình trung học cơ sở” trong đó có nội dung: “ Điểm cốt lõi của đổi
mới phương pháp dạy học là hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập
thụ động”

2


Ngoài ra, để thực hiện được một số yêu cầu trên chúng ta cần phải khắc phục
những hạn chế cơ bản sau:
- Sự chênh lệch về trình độ của học sinh theo vùng miền.
- Giáo viên sử dụng phương pháp thiên về yêu cầu học sinh ghi nhớ máy móc làm
cho học sinh thấy nhàm chán, thiếu tích cực, không phát huy được khả năng, năng lực
của học sinh. Hoặc giáo viên có sử dụng phương pháp, đồ dùng dạy học tiên tiến, áp
dụng công nghệ thông tin xong còn mang tính hình thức, áp đặt máy móc.
- Học sinh chưa tìm ra cách học, thiếu tính tự giác, ỷ lại.
- Nhận thức của phần lớn phụ huynh và xã hội còn thiên về việc chỉ quan tâm đến kết

quả của con em sau mỗi bài kiểm tra đánh giá trên giấy mà chưa khuyến khích trong
vấn đề con em tìm ra cách học, phương pháp học tập một cách thường xuyên.
Trong khi đó, mục tiêu đào tạo con người trong giai đoạn mới được thể hiện
qua luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định:
“ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh”.(1.1-tr 12 TL)
Vì vậy, việc bồi dưỡng phương pháp học tập, hướng dẫn cách học cho học sinh
để đạt được yêu cầu môn học, khắc phục một số nguyên nhân trên và đáp ứng được
yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Vì thế tôi chọn đề
tài: Sử dụng bảng biểu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động học tập của học sinh trong môn Địa lí THCS
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Việc chọn đề tài bồi dưỡng phương pháp học tập cho học sinh thông qua việc:
Sử dụng bảng biểu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động học tập của học sinh trong môn Địa lí THCS nhằm thể hiện một số
mục đích sau:
- Đưa ra cách làm, hiệu quả của phương pháp, tính ứng dụng và phạm vi ứng dụng
của phương pháp sử dụng bảng biểu cho những môn khác; với các đối tượng học sinh
theo vùng miền; với các dạng bài, các mức yêu cầu của môn học.
- Xác định, đánh giá lại phương pháp: sử dụng bảng biểu để tiếp tục phát huy ưu
điểm của phương pháp đồng thời tranh thủ các ý kiến đóng góp để hoàn thiện hơn
phương pháp sử dụng bảng biểu để phương pháp này đạt được tính ứng dụng cao hơn
nữa.
- Thông qua việc chọn đề tài nghiên cứu để đề xuất những ý kiến cần thiết đồng thời
là tiếng nói của bản thân trong việc đáp ứng phần nào yêu cầu giáo dục của địa
phương, của ngành giáo dục. Qua đề tài, giúp bản thân có thêm động lực để tiếp tục
nghiên cứu, học hỏi nâng cao trình độ bản thân góp phần nâng cao kết quả giáo dục

đôí với bộ môn nói riêng với mục tiêu giáo dục nói chung, đáp ứng nguyện vọng của
các cấp trong việc đào tạo con người giai đoạn mới.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:

3


Với đề tài nghiên cứu: Sử dụng bảng biểu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh trong môn Địa lí
THCS bản thân đã chọn nhằm hướng tới bồi dưỡng phương pháp học tập cho học
sinh thông qua các vấn đề sau:
- Cách sử dụng bảng biểu đối với giáo viên và học sinh
- Tác dụng của bảng biểu đối với phương pháp, thái độ học của học sinh và kết quả
đạt được.
- Tính ứng dụng của bảng biểu trong môn học với các mức độ yêu cầu của môn học
và các dạng bài cơ bản.
- Kết quả đạt được khi áp dụng: Sử dụng bảng biểu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
mới.
1.4 Phương pháp nghiên cứu :
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
+ Lựa chọn nội dung viết đề tài nghiên cứu dựa trên tính thiết thực, phù hợp với thực
tế giáo dục địa phương, với yêu cầu giáo dục trong giai đoạn mới; đảm bảo đề tài đã
được rút ra từ quá trình công tác, đã được kiểm nghiệm.
+ Lựa chọn tên đề tài nghiên cứu phù hợp với nội dung nghiên cứu
+ Lên đề cương về các bước thực hiện viết đề tài nghiên cứu
+ Hệ thống lại ưu, nhược điểm của vấn đề nghiên cứu
+ Tìm hướng khắc phục hạn chế và hướng nhân rộng ưu điểm của vấn đề nghiên cứu
thông qua trao đổi với tổ nhóm chuyên môn trong nhà trường để vấn đề nghiên cứu
có tính ứng dụng hiệu quả, phù hợp với môn học
+ Tìm các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu: đổi mới phương pháp dạy học;

Luật giáo dục; Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát
triển năng lực học sinh; thành tựu giáo dục…
- Sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
+ Điều tra qua gặp gỡ, tiếp xúc với phụ huynh thông qua các cuộc họp phụ huynh (có
thể tranh thủ các cơ hội gặp gỡ phụ huynh) để trao đổi về những chuyển biến của học
sinh trong thái độ, tinh thần học tập, cách học tập, để hiểu thái độ của phụ huynh
trong việc học và với kết quả học tập đạt được của học sinh. Tiếp nhận sự phản ánh
của phụ huynh để đề ra hướng khắc phục hoặc phát huy trong thời gian tới nhằm giải
quyết vấn đề đưa ra.
+ Thông qua các giờ dạy, qua các hoạt động tiếp xúc với học sinh để nhận biết sự
chuyển biến về thái độ của học sinh; qua trao đổi trong sinh hoạt tổ nhóm chuyên
môn để thu thập thông tin phản hồi từ đồng nghiệp về điểm tích cực , hạn chế và giải
pháp của phương pháp. Từ đó có cơ sở xác định ảnh hưởng của SKKN đến phong
trào giáo dục trong nhà trường và địa phương; xác định hướng mở rộng nghiên cứu
đề tài trong thời gian tới.
- Sử dụng phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
Khảo sát thực tế, thu thập thông tin từ kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng đại trà, thi
học sinh giỏi các cấp để thống kê mặt tích cực, hạn chế trước và sau khi thực hiện đề
tài nghiên cứu để xác định thực trạng và đưa ra kết luận cần thiết của vấn đề nghiên
cứu.

4


+ Đưa ra thông số về tỉ lệ kết quả kiểm tra đánh giá trước và sau khi áp dụng đề tài
vào giảng dạy nhằm minh chứng cho vấn đề nghiên cứu một cách khách quan, sát
thực.
2. Nội dung
2.1 Cơ sở lí luận:
Trong môn Địa lí, việc hình thành các mối quan hệ Địa lí là rất quan trọng thì

trong dạy học, mối quan hệ giữa việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới ở nhà với việc học
trên lớp của học sinh; mối quan hệ giữa việc tổ chức hướng dẫn của giáo viên với
việc học của học sinh cũng tương tự như vậy. Vì vậy trong quá trình dạy học , việc
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà là một việc làm không thể thiếu trong các
môn học nói chung, môn Địa lí nói riêng.
Việc chuẩn bị bài mới ở nhà một cách khoa học, nhanh, đạt kết quả tốt sẽ giúp
học sinh chủ động khi tham gia các hoạt động học trên lớp. Vì vậy nó góp phần
không nhỏ cho sự thành công của một tiết học, giúp giáo viên và học sinh khắc phục
được giới hạn 45 phút một tiết học trên lớp và làm tốt hơn, rõ hơn yêu cầu giáo dục
trong giai đoạn hiện nay: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh,
trong đó có năng lực tự học.
Việc sử dụng bảng biểu để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới, đặc biệt là
việc phát huy phần rèn luyện kỹ năng, trong đó có nhóm kỹ năng: đọc phân tích bản
đồ, biểu đồ, bảng số liệu đối với học sinh các lớp 7,8,9 là một hình thức rất khoa học,
rễ làm, nhanh gọn mà hiệu quả đạt được không phải là nhỏ.Căn cứ theo từng dạng
bài, nhóm bài của môn học Địa lí và căn cứ vào đối tượng học sinh, mức độ nhận
thức của học sinh để giáo viên có các dạng hướng dẫn chuẩn bị bài mới bằng hệ
thống câu hỏi; bằng hệ thống bảng biểu hoặc áp dụng cả hai hình thức trên.
2.2. Thực trạng
Việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới là một yêu cầu bắt buộc trong phần
chuẩn bị giáo án lên lớp của giáo viên. Mục này hầu như trong tất cả các giáo án lên
lớp đều tuân thủ nhưng trong thực tế giảng dạy, mục này ít được chú trọng và đôi khi
bị bỏ qua. Để khắc phục điều này:
1/ Về phía giáo viên:
- Chưa thực sự coi trọng phần “Hướng dẫn chuẩn bị bài mới” cho học sinh cuối
mỗi tiết học một cách thường xuyên, thường mới chỉ dừng lại ở các tiết dự giờ thao
giảng, một số tiết học được cho là khó như ôn tập và trước các tiết kiểm tra.Thông
thường giáo viên mới thực hiện tương đối thường xuyên phần kiểm tra bài cũ, chú
trọng và nghiên cứu sâu nội dung tiết dạy trên lớp được thể hiện trên giáo án và việc
làm thực tế.

-Chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
mới trong đổi mới phương pháp và dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh thể hiện ở việc đôi khi bỏ qua khâu này hoặc chỉ dặn dò chung chung bằng lời
cuối mỗi tiết học.
-Chưa thực sự đầu tư nghiên cứu sâu cho tiết dạy tới, công tác chuẩn bị cho tiết
dạy chưa chu đáo từ khâu lập kế hoạch, chuẩn bị cho đến khâu lên lớp, nhiều giáo
viên còn chủ quan cho đây là phần phụ không cần thiết vì nó không phải là nội dung

5


kiến thức chính của bài học đang diễn ra trực tiếp trên lớp nên còn thời gian thì
hướng dẫn không còn thời gian thì bỏ qua.
-Chưa linh hoạt trong cách hướng dẫn chuẩn bị bài mới dẫn tới hiệu quả tự học
của học sinh chưa cao thể hiện ở việc học sinh thiếu tự tin, nhiều khi còn sợ ở phần
rèn luyện kỹ năng khai thác bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu thống kê...
- Kinh phí đầu tư cho việc bổ sung trang thiết bị đồ dùng dạy học thường mới
chỉ dừng lại cho những thiết bị dạy học có thời gian lâu dài hoặc có chức năng sử
dụng cho nhiều môn học như máy tính, máy chiếu..Tiền “học chỉ” được cấp cho giáo
viên chưa tương xứng với việc yêu cầu chi phí cho các vật dụng giấy in, mực in.. của
giáo viên khi lên lớp cũng là một nguyên nhân dẫn tới giáo viên hạn chế thấp nhất
mức độ đầu tư thường xuyên cho việc mua bút vết bảng phụ, giấy in, phô tô các giấy
tờ, tài liệu... cho học sinh .
2/ Học sinh:
-Số học sinh lười học, chưa có động cơ học tập còn chiếm một tỉ lệ tương đối
lớn thể hiện ở việc chưa học bài, làm bài tập thường xuyên, học bài, làm bài đối phó.
Thiếu ý thức chủ động học hỏi, ỷ lại cho sự kèm cặp của phụ huynh, sự kiểm tra của
thầy cô và nhắc nhở của ban cán sự lớp.
-Một số gia đình chưa quan tâm đúng mức tới việc học của con em, vẫn còn
nhiều học sinh thiếu đồ dùng học tập là một trong những nguyên nhân khiến các em

chưa tích cực học bài, chuẩn bị bài ở nhà.
- Phần lớn các phụ huynh có nhận thức sai lầm trong việc định hướng con em
trong học tập: cho môn Địa lí là môn phụ, không cần nghiên cứu, tìm hiểu thêm ở
nhà, hạn chế đầu tư thời gian cho việc học bộ môn này chỉ cần học trên lớp là đủ.
Thậm chí có những phụ huynh khi con em xin được thi học sinh giỏi bộ môn Địa lí
đã thẳng thừng từ chối và ngăn cản không cho con ôn và thi môn này. Đây cũng là
nguyên nhân khiến các em rụt rè không dám thể hiện khả năng của mình và ảnh
hưởng không nhỏ tới tinh thần học tập cũng như thái độ học tập đối với bộ môn Địa lí
nói riêng, một số môn học khác nói chung.
Với những nguyên nhân cơ bản trên dẫn tới kết quả việc học bài chuẩn bị bài
mới của học sinh chưa cao.Việc tự tin, tích cực trong các hoạt động học tập của học
sinh hiệu quả chưa cao.
Chất lượng học tập bộ môn cuối năm chưa thật cao, việc hình thành phát triển
các kỹ năng Địa lí còn thấp.
Việc học sinh chưa thành thạo kỹ năng dẫn tới tâm lí ngại hoặc lo sợ, không tự
tin khi gặp bài học, bài tập hay bài thực hành có kỹ năng khai thác bản đồ, biểu đồ,
bảng số liệu hoặc việc hệ thống kiến thức trong các tiết ôn tập. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn tới kết quả đọc, phân tích bản đồ, biểu đồ thiếu chính xác,
thao tác chậm làm ảnh hưởng tới tiến độ bài giảng của giáo viên trên lớp.
Cũng với lí do đó mà không ít giáo viên né tránh việc cho học sinh đọc, phân
tích bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, bảng số liệu...hoặc tâm lý lo ngại khi dạy dạng bài ôn
tập, thực hành. Đặc biệt trong giờ thao giảng có người dự hoặc thao giảng cụm,
thường giáo viên chỉ cho học sinh nêu đặc điểm chung, khái quát cũng như thực hiện
các kỹ năng thấp thường mới dừng ở mức độ phát hiện như: đọc, tìm các đối tượng

6


Địa lí. Đôi khi giáo viên sử dụng phương án cung cấp kiến thức một cách áp đặt làm
hạn chế khả năng tư duy, kỹ năng khai thác biểu đồ, bản đồ, mô tả tranh ảnh....của

học sinh.
Chính những nguyên nhân trên nên kết quả giờ dạy thấp, giáo viên thường bị
“cháy” giáo án, học sinh chưa thật sự tích cực hoạt động để tiếp thu kiến thức, khả
năng tư duy bài chưa cao, tiết học rời rạc dẫn đến học sinh không thật sự chú ý học,
kĩ năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống có nhiều hạn chế. Từ đó nhiệm vụ của giáo
viên phải giúp các em hiểu và tích cực hơn trong việc chuẩn bị bài mới ở nhà một
cách nghiêm túc, hiệu quả .
Kết quả của thực trạng trên:
Việc kiểm tra học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà qua việc đọc bài mới, đọc bản
đồ, khai thác bản đồ, bảng số liệu...trên lớp của học sinh các lớp 6,7,8,9 qua đánh giá
các năm học từ 2008- 2011 như sau: số học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà một cách
thường xuyên: mới dừng ở con số từ 2 đến 6 em tương ứng với tỉ lệ chưa đến 20%.
Số học sinh chuẩn bị không thường xuyên lên tới từ 50 đến 70 %.Số học sinh không
chuẩn bị bài hoặc chuẩn bị đối phó ở mức độ thường xuyên là từ khoảng 30%.
Kết quả cụ thể từ thực trạng trên như sau:
KQ

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

Năm học
2008-2009
2%

15,5%
51%
25,5%
6%
2009-2010
3,5%
18%
49%
24,5%
5%
2010-2011
4%
18%
50%
24%
4%
Xuất phát từ thực trạng học sinh chưa tích cực trong việc chuẩn bị bài mới ở
nhà và thực trạng học sinh còn yếu về kĩ năng, khả năng vận dụng kiến thức vào thực
tế hoặc ngược lại.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Địa lí, trước thực trạng trên, bản
thân đã cố gắng tìm tòi áp dụng các phương pháp dạy học theo phương pháp đổi mới:
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; Bồi dưỡng phương pháp
tự học; Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; Tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh bằng việc tăng cường đầu tư cho
phần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới. Trong đó đặc biệt lưu ý việc sử dụng
bảng biểu ở một số dạng bài cụ thể để giúp học sinh nâng cao ý thức tự học, tự
nghiên cứu để khai thác kiến thức, rèn luyện kĩ năng Địa lí cho học sinh và đã thu
được một số kết quả học tập đáng kể góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn
Địa lí.
2.3. Một số giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện:

1/ Một số giải pháp:
Để thực hiện được việc: Sử dụng bảng biểu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh trong môn Địa lí
THCS phải dựa trên mối quan hệ giữa mục tiêu, nội dung của môn học với mục tiêu
và nội dung giáo dục ở từng khối lớp, từng đối tượng học sinh; dựa vào mức độ nhận

7


thức của học sinh và căn cứ theo từng dạng bài để có cách xây dựng bảng biểu phù
hợp và có hiệu quả.
Qua quá trình dạy bản thân tôi đã áp dụng việc sử dụng bảng biểu ở những
dạng bài và sử dụng một số giải pháp sau đây vào phần nội dung hướng dẫn học sinh
chuẩn bị bài mới như sau:
1. Tìm hiểu các dạng bài trong chương trình Địa lí THCS để có các dạng bảng
biểu phù hợp với mỗi dạng bài, phù hợp với đối tượng học sinh, khả năng nhận thức
của học sinh.
`
2. Tìm hiểu mục tiêu, nội dung bài mới để thiết kế bảng biểu phù hợp với nội
dung, chú ý tính khoa học của bảng biểu. Kịp thời hướng dẫn và yêu cầu học sinh
chuẩn bị một cách cụ thể cho tiết học sau vào cuối tiết học đang diễn ra trên lớp.
3. Hiểu rõ mối quan hệ của việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới ở tiết
học này với việc học sinh thực hiện việc học tập có đạt hiệu quả ở tiết học sau mang
tính dây chuyền, để từ đó không xem nhẹ phần hướng dẫn chuẩn bị bài mới bằng việc
căn thời gian cho từng phần giáo án, lên phương án hoạt động cụ thể trong giáo án
tránh trường hợp cháy giáo án dẫn đến không thực hiện được hết nội dung giáo án
ảnh hưởng tới hiệu quả tiết học sau.
4. Đánh giá chất lượng chuẩn bị bài mới của học sinh một cách khách quan, sử
dụng cách đánh giá khéo léo mang tính tích cực: động viên được tinh thần của học
sinh nhưng vẫn đảm bảo độ chính xác và phát hiện được các trường hợp chuẩn bị

mang tính đối phó và có hình thức xử lý khéo léo, phù hợp.
2/ Biện pháp tổ chức thực hiện:
Để lựa chọn bảng biểu phù hợp với nội dung của tiết học sau, đảm bảo
được yêu cầu đối với học sinh: tích cực, chủ động tìm hiểu, hoàn thành nội dung của
bảng biểu một cách hiệu quả cần phải chú ý thực hiện các bước sau:
- Bước 1: Tìm hiểu nội dung các dạng bài trong chương trình Địa lí THCS để có
các dạng bảng biểu phù hợp với mỗi dạng bài, phù hợp với đối tượng học sinh,
khả năng nhận thức của học sinh.
Môn Địa lí THCS bao gồm những kiến thức về Địa lí đại cương (Lớp 6); các
môi trường Địa lí (lớp 7) Địa lí thế giới (Thiên nhiên và con người ở các châu lục)ở
lớp 7,8 và Địa lí Việt Nam (lớp 8,9).Trong đó:
+ Ở lớp 6-là lớp đầu cấp: các em được tìm hiểu về địa lí đại cương- kiến thức
mang tính nền tảng và được học môn Địa lí với hình thức là môn học riêng.Vì thế
việc sử dụng bảng biểu dành cho đối tượng này ở phần hướng dẫn chuẩn bị bài mới là
chưa hiệu quả và khó. Nếu áp dụng bảng biểu cho học sinh lớp 6 thì tôi mới dừng ở
việc giúp học sinh biết cách đọc bảng và hiểu bảng biểu với một số loại bảng biểu
đơn giản có trong sách giáo khoa; làm bài tập có sử dụng bảng biểu cùng dạng; chuẩn
bị bài mới bằng bảng biểu được giáo viên thiết kế ở dạng đơn giản.
+ Đối với lớp 7: Trên cơ sở đã được tìm hiểu kiến thức, hình thành và phát
triển kĩ năng nền tảng từ lớp 6.Vì vậy ở lớp 7 đã có những yêu cầu cao hơn về tính tự
giác, tích cực, chủ động trong tìm hiểu kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Đặc biệt các kỹ
năng: đọc, phân tích bản đồ, biểu đồ (trong đó biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa chiếm
một lượng lớn), bảng số liệu. Như vậy ngay từ phần nội dung một: Thành phần nhân

8


văn của môi trường; phần hai: Các môi trường Địa lí cho đến phần ba: Thiên nhiên và
con người ở các châu lục trong chương trình Địa lí 7 chúng ta đã có thể áp dụng một
số bảng biểu khác nhau.

+ Đối với lớp 8,9: Việc sử dụng bảng biểu trong chuẩn bị bài mới của học sinh
đã trở nên quen thuộc, vì thế các thao tác khai thác bài mới, rèn luyện kỹ năng đối với
các em cũng trở nên dễ dàng hơn, nhanh hơn. Vì vậy, từ lớp 7, đặc biệt lớp 8,9 các
em có những yêu cầu cao hơn, nhiều hơn trong kỹ năng vẽ, nhận xét biểu đồ, bảng số
liệu.
-Bước 2: Trên cơ sở Tìm hiểu mục tiêu, nội dung bài mới để thiết kế bảng biểu
phù hợp với nội dung, chú ý tính khoa học của bảng biểu. Kịp thời hướng dẫn
và yêu cầu học sinh chuẩn bị một cách cụ thể cho tiết học sau vào cuối tiết học
đang diễn ra trên lớp.
Có ý kiến cho rằng: hướng dẫn, yêu cầu học sinh chuẩn bị bài mới (tiết học sau
sẽ thực hiện) chỉ nên giới thiệu sơ qua, không nên yêu cầu học sinh tìm hiểu toàn bộ
kiến thức của tiết học tới. Làm như vậy đến tiết học mới giáo viên, học sinh mới có
việc để dạy và học. Theo tôi, chúng ta không sợ giáo viên và học sinh không có việc
để dạy và học trong 45 phút mà chỉ sợ ta chưa tìm ra cách sử dụng 45 phút của tiết
học bài mới như thế nào để mang lại hiệu quả cho nhiều đối tượng học sinh trong
việc tìm ra kiến thức và rèn luyện kĩ năng, hình thành- bày tỏ thái độ, quan điểm sống
của bản thân. Môn Địa lí với đặc trưng rất rõ được thể hiện ở mối quan hệ: giữa các
yếu tố trong một thành phần; giữa thành phần này với các thành phần khác. Ví dụ:
khí hậu với sinh vật, tự nhiên với việc phát triển kinh tế- xã hội, mối quan hệ giữa
con người với môi trường sống… Như vậy, giáo viên giúp học sinh tìm ra cách làm
để khai thác các mối quan hệ đó, tìm ra những quy luật, lô gic và áp dụng nó vào khai
thác các kiến thức từ cũ đến mới . Đối với việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh thường
được yêu cầu rõ trong mục tiêu của mỗi bài học phù hợp với mức độ yêu cầu có tính
lô gic giữa kiến thức với kĩ năng, từ mức độ thấp đến cao. Điều quan trọng ở đây
không phải là việc đợi tới 45 phút của tiết học bài mới chúng ta mới hướng dẫn, rèn
luyện các nhóm kĩ năng cơ bản cho học sinh. Nếu làm như vậy, đa số học sinh sẽ rất
yếu về kĩ năng trừ nhóm đối tượng học sinh được bồi dưỡng để thi học sinh giỏi. Vấn
đề ở đây là chúng ta hướng dẫn học sinh như thế nào để học sinh biết cách khai thác,
vận dụng triệt để các mối quan hệ Địa lí, mối quan hệ giữa bài cũ và bài mới cũng
như chủ động, tích cực trong việc rèn luyện để thành thạo các kĩ năng. Để làm được

điều này, bản thân giáo viên phải tích cực tìm hiểu, đầu tư suy nghĩ tìm ra cách làm,
cách phát huy tinh thần thái độ của học sinh: phải tích cực, chủ động trong các hoạt
động học của cá nhân trong lớp; của cá nhân với nhóm và các em hiểu rằng chỉ khi
tích cực làm nhưng vẫn còn mắc sai sót thì khi được góp ý để sửa mới có thể hiểu và
thành thạo được ở những lần sau. Khi giáo viên đã làm tốt được điều này thì sẽ không
còn phải đợi đến 45 phút của tiết học để cung cấp kiến thức cho học sinh mà 45 phút
đó sẽ là thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh hoạt động tìm ra những điều mình
còn mắc trong cách làm, những sai sót trong kiến thức rút ra được. Vì vậy tôi chọn
cách thiết kế các dạng bảng biểu cho phần chuẩn bị bài mới để đảm bảo nhanh và thể
hiện được nhiều yêu cầu về nội dung chuẩn bị thay cho dạng mất nhiều thời gian học

9


sinh ghi câu hỏi, đặc biệt với dạng bài thực hành và ôn tập là hai dạng bài mà phần
lớn giáo viên còn nhiều băn khoăn, vướng mắc khi thực hiện.
Dựa vào mục tiêu, nội dung của một số dạng bài: Địa lí tự nhiên, dân cư, kinh
tế- xã hội, tôi đưa ra thiết kế một số bảng biểu và các mức độ, các bước thực hiện để
đạt được mục tiêu phát huy tính tích cực, chủ động khai thác kiến thức, phát triển kĩ
năng cho học sinh như sau:
1. Dạng bài thứ nhất: Dạng bài rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
Ví dụ 1: Mức độ yêu cầu ban đầu: đơn giản (dễ)
- Cụ thể là kĩ năng đọc, phân tích biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa cho học sinh
lớp 7 ( dạng kĩ năng này chiếm rất nhiều trong các bài Địa lí tự nhiên- lớp 7).
Đối với dạng bài này, ngay từ lớp 6 các em đã được hướng dẫn cách đọc và
khai thác biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa ở các bài: 20, 21. Lên lớp 7 các em sẽ vận
dụng để rèn luyện và phát huy ở mức độ cao hơn, tuy nhiên giáo viên nên cho học
sinh biết cách khai thác biểu đồ và vận dụng kiến thức tìm hiểu được để rút ra kết
luận cần thiết.
Ví dụ cụ thể: Hình 5.2 ( SGK Địa lí lớp 7- Trang16):


Hình 5.2- Biểu đồ nhiệt độ và lượng
mưa của Xin-ga-po

Lưu ý: Giáo viên cho học sinh làm dưới dạng bảng biểu được gợi ý chi tiết để khai
thác đối với những buổi đầu gặp dạng ở lớp 7. Mục đích để các em phát huy kĩ năng
đã được làm quen ở lớp 6 về cách đọc biểu đồ. Từ kiến thức đọc được trên cơ sở đó
khi dạy bài mới giúp học sinh nhanh chóng biết được đặc điểm cơ bản về khí hậu của
kiểu môi trường xích đạo ẩm. Làm như vậy giúp học sinh vừa rèn luyện kĩ năng đồng
thời khai thác được kiến thức mới cần thiêt
Bảng biểu được thiết kế dưới hình thức phiếu học tập cá nhân dùng để phát cho
học sinh lớp 7 trong kỹ năng đọc phân tích biểu đồ nhiệt độ, lượng mưa với những
nội dung yêu cầu cụ thể như sau:

10


(GV phát phiếu học tập cho học sinh khai thác tương ứng với các nội dung theo bảng
sau
Biểu đồ
Hình 5.2
Đặc điểm
-Nhiệt độ:

Nhiệt độ cao nhất :khoảng ................0C
+Sự phân bố nhiệt (tháng........)
độ trong năm
Nhiệt độ thấp nhất: khoảng ..............0C
(tháng ..........)
+Biên độ nhiệt

(0C)

………?

-Lượng mưa:
+Sự phân bố lượng Tháng mưa nhiều :khoảng ................mm
( gồm các tháng..................)
mưa trong năm
Tháng mưa ít :khoảng ................mm
( gồm các tháng..................)
Nhận xét về nhiệt
độ và lượng mưa
trong năm

Ví dụ 2: Dạng bài thực hành rèn luyện kĩ năng cho học sinh
- Mức độ yêu cầu tiếp theo: phức tập hơn (khó hơn)
Ví dụ cụ thể: Hình 28.1. Bài 28 (SGK Địa lí 7- trang 88)

11


(GV phát phiếu học tập cho học sinh khai thác tương ứng với các nội dung theo bảng
sau:
Đọc, phân tích, rút ra kết luận về kiểu khí hậu qua biểu đồ nhiệt độ và
lượng mưa: A,B,C,D (Hình 28.1)
Biểu
đồ
A

Đặc

điểm

B

C

D

Nhiệt độ cao
nhất
:khoảng ..........
......0C
(tháng........)

Nhiệt độ cao
nhất:khoảng ...
.............0C
(tháng........)

Nhiệt độ cao
nhất:khoảng ...
.............0C
(tháng........)

Nhiệt độ thấp
nhất:
khoảng ...........
...0C
(tháng ..........)


Nhiệt độ thấp
nhất:
khoảng ...........
...0C
(tháng ..........)

Nhiệt độ thấp
nhất:
khoảng ...........
...0C
(tháng ..........)

………?

………?

………?

………?

………?

………?

………?

………?

Mùa khô từ
T.....

T....
Mùa mưa từ
T.....
T.....

Mùa khô từ
T.....
T....
Mùa mưa từ
T....
T....

Mùa khô từ
T.....
T....
Mùa mưa từ
T...
T....

………?

………?

………?

Nhiệt độ cao
nhất: khoảng
................0C
(tháng........)


-Nhiệt độ:
+Sự phân bố nhiệt độ
Nhiệt độ thấp
trong năm
nhất: khoảng
..............0C
(tháng ..........)

+Biên độ nhiệt
(0C)
-Lượng mưa:
+Lượng mưa
trung bình năm
(mm/N)
+Sự phân bố lượng
mưa theo mùa

Kết

luận

(Thuộc

Mùa khô từ
T.....
T....
Mùa mưa từ
T...
T....
………?


kiểu khí hậu)

Ví dụ 3 : dạng bài thực hành –Địa lí 7 phần thiên nhiên và con người ở các châu
lục (Tiết 59- bài 53)

12


Yêu cầu của bảng : (không còn gợi ý chi tiết, học sinh tự nhớ cách làm để hoàn
thành)
Dựa vào hình 53.1-trang 159 SGK Địa lí 7, em hãy hoàn thành nội dung bảng sau:
Đặc điểm khí hậu

Trạm A

Trạm B

Trạm C

1.Nhiệt độ
-Tháng 1.
-Tháng7.
-Biên độ nhiệt.

-Nhận xét về nhiệt độ.

2.Lượng mưa.
-Các tháng mưa nhiều.
-Các tháng mưa ít.


-Nhận xét về lượng mưa

3.Kiểu khí hậu.

4. Thảm thực vật tương
ứng.
2. Dạng bài thứ hai : Dạng bài ôn tập phần lý thuyết –Địa lí 9 phần địa lí kinh
tế(Tiết 17).
Ví dụ :
(Giáo viên có thể yêu cầu học sinh kẻ nhanh kiểu bảng biểu và các yêu cầu ra nháp
về nhà làm vào vở ghi (giấy A4) theo từng nội dung, hết nội dung ô nào thì kẻ ô tiếp
theo hoặc có thể phát bảng biểu cho từng học sinh/ nhóm học sinh...)

13


Dựa vào nội dung kiến thức phần Địa lý kinh tế, em hãy hoàn thành những nét
chính vào bảng sau:
Ngành

Đặc điểm chính và
những thuận lợi

Khó khăn

Tình hình phát triển

Nông
nghiệp

Lâm
nghiệp

Thuỷ sản

Công
nghiệp

Dịch vụ

Giao thông
vận tải

Bưu chính
viễn thông
3. Dạng bài thứ ba : Dạng bài kết hợp đọc bài mới với quan sát lát cắt,
lược đồ ( Kĩ năng) để hoàn thành nội dung yêu cầu chuẩn bị bài mới.
Ví dụ : Bảng biểu được thiết kế dưới hình thức phiếu học tập cá nhân dùng để
phát cho học sinh lớp 8 trong tìm hiểu đặc điểm các nhóm đất ở nước ta :
Em hãy đọc bài 36, trang 126 kết hợp quan sát lát hình 36.1, lược đồ hình 36.2
(SGK Địa lí 8- trang 126, 127):

14


Trình bày đặc tính, diện tích, phân bố và giá trị của các nhóm đất chính ở nước
ta theo bảng sau:
Nhóm
đất


Diện
tích

Đặc
tính

Phân
bố

Giá
trị

Feralit

Mùn núi cao

Bồi tụ phù sa

……….…………..……… ……….…………………

…………..…………..…

…………………………


…………………….……

…………………………

……….………….…..…


……….……….……..…

……….……………..…… …………………………
……….……….
………….
…………………………
…………………………
…………………………
……..……..…
………..….…

…………………………
……….……….……..
…………………………


……….…………..……… ……….…………………

…………..…………..…

…………………………


…………………….……

…………………………

……….………….…..…


……….……….……..…

……….……………..…… …………………………
……….……….
………….
…………………………
…………………………
…………………………
……..……..…
………..….…

…………………………
……….……….……..
…………………………
…………………………


……….…………..……… ……….…………………

…………..…………..…

…………………………


…………………….……

…………………………

……….………….…..…


……….……….……..…

……….……………..…… …………………………
……….……….
………….
…………………………
…………………………
…………………………
……..……..…
………..….…

…………………………
……….……….……..
…………………………


……….…………..……… ……….…………………

…………..…………..…

…………………………


…………………….……

…………………………

……….………….…..…

……….……….……..…


……….……………..…… …………………………
……….……….
………….………………
…………………………
…………..

…………………………
……….……….……..…

15


Lưu ý: khi thực hiện dạng này, học sinh đọc kênh chữ cũng có khả năng nắm đựoc
cơ bản yêu cầu nội dung bảng biểu nên các em thường bỏ qua phần quan sát lát cắt,
lược đồ. Vì thế giáo viên khi phát phiếu yêu cầu tìm hiểu trước có thể nói rõ: tiết học
tới cô sẽ yêu cầu các em trình bày kết hợp chỉ trên lược đồ các đặc điểm. Như vậy sẽ
giúp các em không bỏ qua nội dung chuẩn bị rèn luyện kĩ năng trước khi học bài mới.
4. Dạng bài thứ tư : Dạng yêu cầu khai thác thông số từ thực tế để chuẩn bị cho
khai thác nội dung bài mới có liên quan.
Ví dụ 1:
+ Đối tượng học sinh: lớp 6
Kiến thức vận dụng dạy bài 18, tiết 22, môn Địa lí - lớp 6:
+ Yêu cầu: Em hãy đọc mục 2, bài 18 (SGK Địa lí 6- trang 55 ) để hoàn thành yêu
cầu sau:
NHIỆT ĐỘ TRUNG BÌNH TRONG NGÀY ( 25/01/2016) CỦA THẠCH TÂN:

Lần đo Thời gian đo Nhiệt độ đo được Nhiệt độ trung bình ngày Ghi chú
1
5 giờ

2
13 giờ
3
21 giờ
Ví dụ 2:
- Dạng bảng biểu yêu cầu quan sát thực tế để hoàn thành nội dung bảng biểu từ
đó giúp giáo viên định hướng thái độ của học sinh trước vấn đề nghiên cứu:
+ Đối tượng học sinh: lớp 7
+ Kiến thức vận dụng bài 17, tiết 18, môn Địa lí - lớp 7:
Em hãy quan sát thực tế môi trường địa phương (khu vực em ở), ghi kết quả và
hướng bảo vệ môi trường từ thực tế quan sát vào bảng sau:
THỰC TẾ MÔI TRƯỜNG KHU VỰC EM Ở QUA QUAN SÁT BẰNG MẮT THƯỜNG:

Các vấn đề của môi
trường

Thực trạng ở khu
vực quan sát

Thái độ của người Hướng bảo vệ môi
dân trước thực
trường của em
trạng môi trường trong thời gian tới.

1. Rác thải
+ Khu vực tập trung
nhiều
2.Nước thải
+ Từ hộ dân


16


+ Từ nhà máy (cơ sở
sản xuất, chế biến)
Ví dụ 3:
- Dạng bảng biểu yêu cầu quan sát thực tế để hoàn thành nội dung bảng
biểu từ đó giúp giáo viên định hướng thái độ của học sinh trước vấn đề nghiên
cứu:
+ Đối tượng học sinh: lớp 8,9
+ Kiến thức vận dụng dạng bài tìm hiểu về các thành phần tự nhiên.
Ví dụ cụ thể về thành phần thực vật:
Em hãy quan sát thực tế địa phương (khu vực em ở), ghi kết quả vào bảng sau:
Sự tham gia của em
Phân loại thảm
Phân bố trên dạng
Quy mô
trong phát triển thảm
thực vật
địa hình
(Diện tích)
thực vật
Rừng
Vườn cây lấy gỗ
Vườn cây ăn quả
lâu năm
Cây trồng trong
nông nghiệp :
(Cây lương thực,
nhóm cây khác)

5. Dạng bài thứ năm : Dạng bảng biểu có kết hợp câu hỏi:
Ví dụ : Dạng bảng biểu được thiết kế dưới hình thức phiếu học tập phát tới
từng học sinh và nhóm học sinh có kết hợp câu hỏi:
PHIẾU HỌC TẬP DÀNH CHO CÁ NHÂN TRONG KHỐI
Họ và tên HS:…………………………….…………………………Lớp 7 . Nhóm :………………………………………….….
Yêu cầu: Đọc kĩ mục 2 bài 16 SGK Địa Lí 7, quan sát tranh ảnh; tìm hiểu qua
mạng (Goole chrome), các bài viết tạp chí về đô thị các nước phát triển và vấn đề cần
quan tâm…
Em hãy hoàn thành nội dung bảng sau:
CÁC VẤN ĐỀ VỀ ĐÔ THỊ Ở ĐỚI ÔN HOÀ
Các
Môi trường
Đô thị
Xã hội
vấn
đề

17


Thực
trạng

Biện
pháp
giải
quyết

……………………................


……………………................

……………………………….

……………………………….

……………………………….
……………………………

………………………………………………………………………..………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………..

PHIẾU HỌC TẬP DÀNH CHO CÁC NHÓM
Các
vấn đề

Môi trường
(Nhóm 1)

Đô thị
(Nhóm 2)

Xã hội
(Nhóm 3)
……………………................

Thực
trạng

……………………..............


……………………................

……………………………

……………………………….

……………………………

………………………………

……………………………….
………………………………
………………………………

………………………………………………………………………………………………………

Biện
pháp
giải
quyết

………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………

HỆ THỐNG CÂU HỎI LIÊN HỆ
Câu 1:
Để khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường, đặc biệt môi trường không khí, thì các
quốc gia ở đới ôn hoà cũng như các quốc gia khác cần làm gì trước mắt và sau này?

Câu 2:
Việt Nam là nước đang phát triển, vậy theo chuyên gia đất nước ta nên phát triển
đô thị như thế nào để hạn chế các vấn đề về :Môi trường; xã hội và đô thị?
Câu 3:
Tỉnh Thanh Hoá đã và đang thực hiện phát triển kinh tế và xây dựng đô thị như thế
nào để hạn chế các mặt tiêu cực của đô thị và học hỏi những mặt tích cực nào của thế
giới về phát triển đô thị?

18


-Bước 3: Hiểu rõ mối quan hệ của việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới ở tiết
học này với việc học sinh thực hiện việc học tập có đạt hiệu quả ở tiết học sau mang
tính dây chuyền, để từ đó không xem nhẹ phần hướng dẫn chuẩn bị bài mới bằng việc
căn thời gian cho từng phần giáo án, lên phương án hoạt động cụ thể trong giáo án
tránh trường hợp cháy giáo án dẫn đến không thực hiện được hết nội dung giáo án
ảnh hưởng tới hiệu quả tiết học sau.
Khi lên kế hoạch cho tiết dạy giáo viên xác định rõ dạng bài mới tiếp theo có
sử dụng bảng biểu hay không? Nếu có thì đây là dạng bảng biểu cho loại bài nào từ
đó có kế hoạch phân bố thời gian cho hợp lý phần kiểm tra bài cũ, dạy bài mới và
phần hướng dẫn chuẩn bị bài mới đạt hiệu quả .
Ví dụ: Trình tự bài soạn minh hoạ -Địa lí 7-Bài 26: Thiên nhiên châu Phi
I- Mục tiêu:
+ Về kiến thức:- HS biết được vị trí địa lí, giới hạn của châu Phi trên Bản đồ thế giới.
Hiểu và trình bày được đặc điểm về hình dạng lục địa, địa hình và khoáng sản châu
Phi.
+ Về kĩ năng:- Đọc Bản đồ, lược đồ tự nhiên để hiểu và trình bày đặc điểm tự nhiên
của châu Phi.
+ Định hướng phát triển năng lực học sinh:
Năng lực chung : Giao tiếp, hợp tác.

Năng lực chuyên biệt : Tư duy tổng hợp theo lãnh thổ; sử dụng bản đồ
II- Phương tiện dạy học:
Bản đồ tự nhiên châu Phi (Máy chiếu, máy tính sách tay)
III- Các HĐ dạy học trên lớp:
1. Kiểm tra bài cũ ( linh hoạt, không nhất định thực hiện đầu tiết học)
2. Bài mới
IV- KTra, đánh giá (củng cố bài): HS làm bài tập củng cố trên Bản đồ tự nhiên châu
Phi, làm BT3 (SGK-Tr.84)-(6- 8 phút)
* Hướng dẫn HS chuẩn bị mới - Bài 27 : Thiên nhiên châu Phi 5-6 phút)
Phân tích biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa ở một số địa điểm của Châu Phi theo
biểu đồ A,B,C,D dưới đây (Hình 28.1) và hoàn thành yêu cầu dưới đây :

19


Yêu cầu: Đọc,phân tích, rút ra kết luận về kiểu khí hậu qua biểu đồ nhiệt
độ và lượng mưa :A,B,C,D (Hình 28.1):
Biểu
đồ
Đặc
điểm

A

B

C

D


Nhiệt độ cao
nhất
:khoảng ..........
......0C
(tháng........)

Nhiệt độ cao
nhất:khoảng ...
.............0C
(tháng........)

Nhiệt độ cao
nhất:khoảng ...
.............0C
(tháng........)

Nhiệt độ thấp
nhất: khoảng
..............0C
(tháng ..........)

Nhiệt độ thấp
nhất:
khoảng ...........
...0C
(tháng ..........)

Nhiệt độ thấp
nhất:
khoảng ...........

...0C
(tháng ..........)

Nhiệt độ thấp
nhất:
khoảng ...........
...0C
(tháng ..........)

………?

………?

………?

………?

Nhiệt độ cao
+Sự phân bố nhất: khoảng
nhiệt độ trong ................0C
(tháng........)
năm

-Nhiệt độ:

+Biên độ
nhiệt
(0C)

20



-Lượng mưa:
+Lượng mưa
trung bình
………?
năm
(mm/N)
+Sự phân bố Mùa khô từ
lượng
mưa T.....
T....
theo mùa
Mùa mưa từ
T.....
T.....

Kết

luận

(Thuộc
kiểu
khí hậu)

………?

………?

Mùa khô từ

T.....
T....
Mùa mưa từ
T....
T....

Mùa khô từ
T.....
T....
Mùa mưa từ
T...
T....

………?

………?

………?

………?
Mùa khô từ
T.....
T....
Mùa mưa từ
T...
T....
………?

-Bước 4: Đánh giá chất lượng chuẩn bị bài mới của học sinh một cách khách quan,
sử dụng cách đánh giá khéo léo mang tính tích cực: động viên được tinh thần của học

sinh nhưng vẫn đảm bảo độ chính xác và phát hiện được các trường hợp chuẩn bị bài
mới mang tính đối phó và có hình thức xử lý khéo léo, phù hợp.
Để có cơ sở kiểm tra, giáo viên yêu cầu các em nạp lại phiếu học tập đã được giao
với nội dung hoàn thành bảng.Trong quá trình học bài mới có phần tìm hiểu các nội
dung các em đã được chuẩn bị trước, GV có thể kiểm tra bằng việc đặt các câu hỏi: ví
dụ em tìm ra kết quả qua mấy bước thực hiện, hãy nêu các bước thực hiện đó?
Lưu ý: sử dụng câu hỏi linh hoạt theo từng nội dung yêu cầu của bảng biểu và kích
thích được tinh thần thái độ của HS, tránh làm các em mất bình tĩnh.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Việc sử dụng bảng biểu làm thay đổi thói quen và tâm lý lười đọc và trả lời các
câu hỏi “Dàn mướp”- cách giáo viên vẫn làm thông thường đã giúp học sinh tích cực,
hứng thú hơn trong học bài, làm bài ở nhà.
Qua nhiều năm nghiên cứu và điều chỉnh cách dạy, đầu tư từng phần của tiết
lên lớp một cách hợp lý, trong đó có phần hướng dẫn chuẩn bị bài mới đối với HS
cuối mỗi tiết học. Việc vận dụng và đảm bảo nguyên tắc trong kiểm tra đánh giá và
qua các bài kiểm tra đánh giá của học sinh từ năm học 2010 – 2013 đến nay kết quả
cụ thể như sau:
Phần lớn học sinh đã yêu thích môn học, tích cực, chủ động trong học bài làm
bài tập. Không còn hoặc còn rất ít học sinh ngại làm các dạng bài tập kĩ năng: phân
tích, nhận xét bảng số liệu. Không còn trường hợp học sinh không tham gia và không
làm bài thực hành.
Chất lượng đại trà cuối năm có chuyển biến như sau:
Chỉ tiêu
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Năm học
2011-2012


8%

30,5%

50%

8,5%

3%

2012-2013

12 %

35%

46%

7%

0%

21


2013-2014
23,5%
29,4%
41,2

5,9
0
Chất lượng mũi nhọn đạt được như sau:
- Học sinh giỏi cấp huyện năm học : 2011-2012
+ Giao lưu học sinh giỏi cấp huyện - Lớp 8:
Tham gia dự thi 03 học sinh
Kết quả : Đạt giải : 02 học sinh (02 giải khuyến khích).
- Học sinh giỏi cấp huyện năm học : 2012-2013
+ Giao lưu học sinh giỏi cấp huyện - Lớp 8:
Tham gia dự thi 02 học sinh
Kết quả : Đạt giải : 02 học sinh (01 giải ba; 01 giải KK).
+ Thi HS giỏi văn hoá lớp 9:
Tham gia dự thi: 03 học sinh
Kết quả : Đạt giải : 02 học sinh (02 giải KK).
Năm học 2013- 2014:
+ Có 02 học sinh đạt giải môn Địa Lí cấp huyện
Năm học 2015-2016:
+ Tham gia dự thi 04 HS lớp 9 dự thi HS giỏi cấp huyện á và đã đạt 04 giải: trong đó:
02 giải nhì
01 giải ba
01 giải KK
- Học sinh giỏi cấp tỉnh : 01 giải
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Việc đổi mới phương pháp dạy học trong môn Địa lí THCS khá phong phú, tuỳ
theo mỗi điều kiện có thể áp dụng khác nhau.
Qua kinh nghiệm trên của bản thân tôi thấy rằng: mấu chốt của mọi hoạt động
tổ chức dạy học cần tập trung vào hoạt động học tập của học sinh. Để làm tốt được
yêu cầu trên cần có mục tiêu, yêu cầu rõ ràng cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh
phát huy tốt nhất khả năng của mình với thái độ tích cực, hào hứng.

Các yêu cầu và chức năng của bảng biểu đã thể hiện một cách cụ thể về nội
dung kiến thức, kỹ năng cần rèn luyện và đạt được trong hoạt động học tập của học
sinh. Điều quan trọng là GV cần nắm vững kiến thức, kỹ năng cơ bản, có tính khái
quát hoá trong các bài, trên cơ sở đó hình thành bảng biểu cho phù hợp với từng loại
bài, với trình độ HS, đặc biệt phải mang lại hiệu quả cho tiết dạy bài mới theo đúng
tinh thần của đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, chú trọng
việc hình thành năng lực cho học sinh
Tuy nhiên, việc dùng bảng biểu cũng có những điểm hạn chế nhất định, do đó
trong các bài sử dụng bảng biểu cần chú ý tăng cường bổ sung những kiến thức và kỹ
năng trong bảng biểu chưa thể hiện được.
Khi nghiên cứu thực hiện đề tài này, mục đích chủ yếu là tôi muốn HS thay đổi
thói quen trông chờ sự giảng giải kèm cặp từ phụ huynh, từ giáo viên.Tâm lý, thói
quen thụ động, lười học, lười đọc bài, lười quan sát hình ...từ bài học, từ quan sát thực

22


tế. Từ đó lôi cuốn học sinh tích cực hăng hái học tập và áp dụng những kiến thức tiếp
thu được vào thực tế một cách linh hoạt, sáng tạo.
Cũng từ việc tích cực học bài, chuẩn bị bài mới ở nhà mà các em đã yêu thích
bộ môn lên rất nhiều. Việc các em tự tin, chủ động trong khai thác kiến thức, trình
bày bài được thể hiện rất rõ trong các hoạt động học tập trên lớp cũng như các
chương trình ngoài giờ lên lớp đã làm thay đổi suy nghĩ của nhiều phụ huynh cũng
như giáo viên giảng dạy các môn khác trong nhà trường. Điều này giúp góp phần
minh chứng cho hướng dạy học trên là hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giáo dục “lấy học
sinh làm trung tâm” và “ Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh”.
3.2. Bài học kinh nghiệm
*Đối với giáo viên:
- Để học sinh thực hiện được việc khai thác được bảng biểu hoặc áp dụng để tự
kẻ bảng biểu trong học tập, giáo viên nên hướng dẫn ngay khi học sinh vào đầu cấp

(lớp 6) với mức độ từ ít đến nhiều; từ đơn giản đến phức tạp và có nhận xét , đánh giá
tính khoa học, dễ hiểu của bảng biểu. Từ đó giúp học sinh hiểu trong trường hợp nào
thì sử dụng bảng biểu có sẵn, khi nào sử dụng bảng biểu tự kẻ. Ban đầu nên hướng
dẫn học sinh cách khai thác bảng biểu có sẵn theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp.
-Khi sử dụng bảng biểu đối với mỗi dạng, GV lưu ý bài đầu tiên sử dụng: cần
hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ để các em hiểu yêu cầu của từng nội dung và dựa vào đâu để
hoàn thành nội dung đó. Chú ý đến khâu hướng dẫn HS cách quan sát bản đồ, biểu
đồ, trang ảnh...Cách phân tích, tổng hợp và khái quát kiến thức, kỹ năng tìm hiểu
được.
- Linh hoạt trong hình thức sử dụng bảng: có thể phát tới từng em; cũng có thể
phân nhóm dưới dạng phiếu học tập.Cũng có thể kẻ lên bảng để các em tự kẻ vào
giấy để các em có kỹ năng kẻ bảng biểu khoa học, hợp lý hơn.
- Khi học sinh đã cơ bản biết sử dụng bảng biểu, giáo viên nên kích thích sự
hăng say, tính tích cực của học sinh bằng việc giúp các em hiểu tính khoa học và tính
hiệu quả của bảng biểu
- Phải chịu khó đầu tư cho nghiên cứu chuyên môn để có kiến thức vững vàng giải
quyết các tình huống xảy ra.
* Đối với học sinh:
- Phải tập cho học sinh có thói quen tự nghiên cứu, tổng hợp để hoàn thành bảng biểu
ở nhà.
-Lưu ý, nhắc nhở HS chuẩn bị và giữ gìn đồ dùng học tập đầy đủ.
- Các em tích cực hơn, chủ động hơn khi tham gia nhiều các hoạt động ngoại khoá,
họat động ngoài giờ lên lớp, tham quan thiên nhiên, biết kết hợp tổng hợp kiến thức
khai thác được từ SGK qua kênh chữ, kênh hình và kiến thức thực tế để giải thích các
hiện tượng, hình thành các mối quan hệ địa lí.Từ đó vận dụng được kiến thức từ bài
học vào thực tế và ngược lại: Từ thực tế vào bài học một cách sáng tạo.
-Chuẩn bị bài mới tích cực, thường xuyên để hình thành thói quen tốt và tăng sự tự
tin trong các hoạt động học tập trên lớp.
3.3. Kiến nghị, đề xuất:
- Đối với nhà trường:


23


+ Đồ dùng thiết bị: Hàng năm nên bổ sung thêm tranh ảnh phóng to. Linh hoạt hơn
trong những quy định về chi phí cho đồ dùng dạy học nhằm khuyến khích các hình
thức dạy học tích cực.Tăng tiền học chỉ cho giáo viên .
+Trong mỗi cuộc họp phụ huynh nên giành một khoảng thời gian nhất định và khéo
léo giúp phụ huynh hiểu rõ: việc học sinh yêu thích bất kỳ môn học nào cũng nên
khuyến khích con em phát huy và sử dụng những kinh nghiệm, kỹ năng đã học được
tốt ở môn học này áp dụng phù hợp cho môn học còn yếu hơn.Làm như vậy sẽ giúp
các em có thái độ đúng đắn với việc học tập và phát huy tốt khả năng của mình một
cách tích cực, hiệu quả.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân đã áp dụng Sử dụng bảng biểu
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học
tập của học sinh trong môn Địa lí THCS và thấy có hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên thời
gian dành cho việc hoàn thành sáng kiến chưa nhiều, vì vậy không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để các biện
pháp trên đạt hiệu quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thạch Thành, ngày 10 tháng 04 năm 2016

XÁC NHẬN CỦA BGH
HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của bản thân, không sao chép
của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN


Nguyễn Xuân Hãnh

Hoàng Thị Bích

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo 9 (2014) tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
2. Nhà xuất bản chính trị Quốc gia(2007) Luật giáo dục
3. Thủ tường chính phủ (Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012)chiến lượcphát
triển giáo dục2011-2020

PHỤ LỤC

24


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1.1-tr12 TL: trích dẫn tài liệu: tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. mục 1.1 trang 12.
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm

25


×