Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sử dụng một số trò chơi vân động dân gian và trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số vào tiết học thể dục trong trường THCS sơn lư quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.55 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................2
2. Mục đích - nhiệm vụ..............................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................3
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU...........................................................................4
1. Cơ sở lí luận..........................................................................................4
2. Thực trạng vấn đề..................................................................................5
3. Các giải pháp.........................................................................................7
4. Hiệu quả.........……..............................................................................14
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...........................................................................15
1. Kết luận................................................................................................15
2. Kiến nghị..............................................................................................15

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta đang tiếp tục đổi mới trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế chính trị
văn hoá xã hội với mục tiêu: Tiếp tục sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hoàn thành thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Thể dục thể thao là bộ môn quan trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa,
là một trong những phương tiện để phát triển con người toàn diện, củng cố và
tăng cường sức khoẻ cho nhân dân lao động góp phần nâng cao đời sống văn
hoá, tinh thần cho con người.
Từ khi đất nước mới độc lập Bác Hồ đã nói về vấn đề sức khoẻ của con
người rất sâu sắc và nhất quán: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời
sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi một người dân


mạnh khoẻ tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ. Luyện tập thể dục, bồi bổ
sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.
Phát triển sức khoẻ con người là một trong những mục đích hàng đầu trong
TDTT của mỗi Quốc gia, mỗi dân tộc. Trong những năm gần đây được sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, xã hội ta đã có một bước chuyển mình mạnh mẽ.
Công cuộc đổi mới đất nước đã làm thay đổi từng ngày từng giờ về các mặt kinh
tế, văn hoá, xã hội, ngoại giao. Trong công cuộc đổi mới cùng với sự phát triển
đó sự nghiệp TDTT nước ta cũng đang dần dần được đổi mới cho phù hợp và
tiến kịp theo với bạn bè năm châu, đặc biệt là các nước trong khu vực và châu
lục.
Như vậy, có thể nói rằng vai trò của TDTT là rất to lớn trong việc củng cố,
giữ gìn và nâng cao sức khoẻ cho mọi người, mọi lứa tuổi khác nhau mà đặc biệt
là thế hệ trẻ - Những người xây dựng, làm chủ và bảo vệ đất nước xã hội chủ
nghĩa trong tương lai.
Mục đích của giáo dục thể chất ở nước ta là: "Bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành
những con người toàn diện, có sức khoẻ dồi dào, có thể lực cường tráng và có
dũng khí kiên cường để tiếp tục sự nghiệp Cách mạng của Đảng và sống một
cuộc sống vui tươi lành mạnh". Để đảm bảo nhiệm vụ to lớn ấy, ngành Giáo dục
- Đào tạo đã phối hợp với các bộ ngành liên quan đưa môn Thể dục là một môn
học bắt buộc cho tất cả các bậc học từ Mầm non đến Đại học.
Nhà trường phổ thông là nơi trang bị những kiến thức văn hóa cơ bản đồng
thời còn thực hiên nhiệm vụ giáo dục thể chất cho các em học sinh. Giáo dục thể
chất trong nhà trường phổ thông góp phần giáo dục đạo đức, xây dựng nhân
cách, nâng cao dân trí. Trong giai đoạn hiện nay học tập và giáo dục thể chất
trong nhà trường là điều kiện hết sức cần thiết.
Riêng đối với các em ở lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở (THCS), về vấn
đề nâng cao sức khoẻ để phục vụ cho nhiệm vụ học tập là rất cần thiết. Việc
luyện tập thể dục thường xuyên giúp các em phát triển cân đối về hình thái và
chức năng cơ thể, phát triển toàn diện năng lực thể chất, tăng cường sức khoẻ và


2


tạo khả năng chống đỡ những tác động có hại của môi trường. Hình thành và
hoàn thiện cho các em những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản. Hình thành thói
quen giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể thường xuyên, giáo dục phẩm chất ý
chí, đồng thời xây dựng niềm tin khát vọng sống lành mạnh trong mỗi học sinh.
Do đó, vai trò của môn học Thể dục ở các trường THCS là vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay các trường THCS ở cả nước có nhiều sự khác biệt,
khác biệt ở chỗ giữa các trường ở nông thôn và thành thị; các trường đồng bằng
và miền núi. Do đó mỗi vùng miền và địa phương (có các cơ sở giáo dục) phải
có nội dung, cách thức, phương pháp giáo dục phù hợp với điều kiện, phong tục
tập quán ở mỗi địa phương đó. Đối với Trường THCS Sơn Lư cũng như các
trường trên toàn huyện Quan Sơn khác với các trường miền xuôi là trong mỗi
trường, mỗi lớp có đa phần học sinh là người dân tộc thiểu số khác nhau dẫn đến
sự thiếu mạnh rạn kết nối với nhau khi mới vào học chung ở đầu cấp học, giữa
các học sinh trong lớp cũng như trong trường. Để tạo được hứng thú và mối
đoàn kết giữa học sinh mà vẫn đảm bảo được lượng vận động trong tiết dạy thể
dục của mình, thì chỉ có trò chơi mới tạo được sự gần gủi, gắn kết được các em,
sẽ giúp giáo viên giải quyết được vấn đề này. Chính vì lý do đó mà tôi mạnh dạn
nghiên cứu đề tài:
“SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN VÀ TRÒ
CHƠI VẬN ĐỘNG CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀO TIẾT HỌC THỂ
DỤC TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ SƠN LƯ – QUAN SƠN”
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm:
- Tạo sự hứng thú trong tiết học thể dục.
- Tạo sự đoàn kết, hiểu biết và gắn kết các học sinh trong lớp và trong trường
góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.

- Giúp học sinh liên hệ thực tế tại địa phương.
2.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện đề tài này nhiệm vụ được đặt ra cần giải quyết là:
- Điều tra thực trạng học sinh.
- Thực nghiệm vận dụng trong giảng dạy.
- Đánh giá kết quả.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận động của các dân tộc thiểu
số như (Thái, H’ Mông, Mường...)
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu mà người ta đưa vào quá
trình giảng dạy - huấn luyện những nhân tố mới được nghiên cứu và làm sáng tỏ
tính ưu việt của chúng so với những nhân tố khác.
Nhân tố mới của đề tài nghiên cứu là: Đưa trò chơi vận động dân gian và
trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số vào tiết học thể dục.

3


4.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn nhằm thu thập thông tin thông qua hỏi - trả lời, giữa giáo viên
và các học sinh khác nhau về vấn đề nghiên cứu.
4.3. Phương pháp toán học thống kế.
Để xử lý các số liệu của quá trình nghiên cứu.
Sử dụng toán học thống kê để tính tỷ lệ % kết quả kiểm tra.

4



II. NỘI DUNG
“SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN VÀ TRÒ
CHƠI VẬN ĐỘNG CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀO TIẾT HỌC THỂ
DỤC TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ SƠN LƯ – QUAN SƠN”
1. Cơ sở lý luận:
1.1.Trò chơi
Trò chơi là: “Hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí”. Trong cuộc sống, ở
lứa tuổi nào con người cũng cần được vui chơi. Trò chơi là một hoạt động tự
nhiên và cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu cầu (giao lưu, giải trí, vận động,
nhận thức, giáo dục, v.v...), đa dạng của con người. Xét về mặt hình thức, vui
chơi có khi thoải mái, không câu nệ vào luật lệ, quy định, cấu trúc chặt chẽ, chế
ước giữa các thành viên. Và ngược lại, có khi phải “giao ước” với nhau thế này
thế nọ, không được “phá luật”, nếu không thì “cuộc chơi” sẽ tan vỡ. Đó là
trường hợp “trò chơi”. Như vậy, đã gọi là “trò chơi” thì phải tiến hành có “các
bước” nhất định, có “quy ước” hay “luật” bất thành văn, phải tuân theo “đạt” thì
“thắng” (được), không “đạt” thì “thua” (không được). Nếu không theo những “lệ
luật” đó thì các thành viên sẽ “không chơi nữa”, trò chơi “phá sản”. Mục đích
của trò chơi không đạt được.
1.2. Trò chơi “dân gian”
Trò chơi ngày nay của trẻ em có loại do người lớn tổ chức, hướng dẫn
(như trường hợp các trò chơi của học sinh ở trường mẫu giáo hay tiểu học); có
loại do các em tự tổ chức vui chơi với nhau (trong nhà, ngoài sân, ngõ xóm, sân
đình, bãi cỏ, sân trường, v.v...). Trước đây, trẻ em chơi những trò chơi được lưu
truyền từ ông bà, cha mẹ, anh chị; tức là lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác; từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Cách thức lưu truyền là thế hệ trước
“truyền dạy” và thế hệ sau “học/bắt chước”. Và mỗi thế hệ lại “bổ sung, sáng tạo
thêm” những yếu tố mới vào các trò chơi đó cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh, sở thích, nhu cầu, nguyện vọng, môi trường sống mới. Nguồn gốc của trò
chơi có thể do người lớn “nghĩ ra”; cũng có thể hoàn toàn do các em “sáng tạo
ra”. Rồi ngày một “hoàn thiện”. Tóm lại, đây là những trò chơi “dân gian”, đồng

sáng tạo của một cộng đồng người, trải qua nhiều lớp người.
1.3.Trò chơi vận động
Là một hoạt động của con người, nó được cấu thành bởi 2 yếu tố:
- Vui chơi giải trí, thoả mãn nhu cầu về mặt tinh thần.
- Giáo dục, giáo dưỡng thể chất (góp phần giáo dục đạo đức, ý chí, hình thành
và phát triển các tố chất, kỹ năng, kỹ sảo cần thiết trong cuộc sống).
Trò chơi vận động là một phương tiện hỗ trợ cho việc phát triển các tố
chất sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự khéo léo, hỗ trợ trực tiếp cho các môn thể
thao, làm rút ngắn quá trình hình thành và phát triển kỹ năng, kỹ xảo vận động
cần thiết cho một môn thể thao nhất định.
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi Trung học cơ sở ở miền núi
Học sinh miền núi luôn có tính thẳng thắn, thật thà và tự trọng. Các em học
sinh miền núi có khi không vừa ý thường tỏ thái độ ngay. Đặc điểm thẳng thắn

5


và thật thà cộng với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn hạn chế, có
những lúc làm cho giáo viên nếu mới vào nghề sẽ thấy “Bất ngờ” hay “Nóng
mặt”; nếu như giáo viên thiếu am hiểu tường tận và thông cảm sâu sắc thì dễ kết
luận đó là những hành vi “Thiếu lễ độ”. Vì vậy, giáo viên cần nắm vững đặc
điểm này, thận trọng suy xét trong quá trình đánh giá phẩm chất đạo đức của
từng em. Các em học sinh miền núi thường có lòng tự trọng cao, nếu các em gặp
phải những lời phê bình nặng nề, gay gắt hoặc khi kết quả học tập kém, bị dư
luận bạn bè chê cười,... các em dễ xa lánh thầy cô giáo và bạn bè hoặc bỏ học.
Nếu giáo viên không hiểu rõ thì có thể cho rằng các em hay tự ti. Từ đó giáo
viên thiếu nhiệt tình cần thiết để tìm ra phương hướng và biện pháp giải quyết
những vướng mắc của các em.
Thực tiễn có tác dụng thuyết phục rất lớn đối với các em. Các em sống rất
thực tế, những điển hình gần gũi đều có tác dụng thuyết phục rất lớn. Trong các

tiết lên lớp, những vấn đề kiến thức có liên hệ thực tế đến bản thân học sinh thì
sẽ sôi nổi và hiệu quả. Do đó giáo viên cần lưu ý việc nêu gương những điển
hình tốt của học sinh trong lớp, trong trường về mọi mặt như trung thực, đoàn
kết, giúp đỡ mọi người, vượt qua mọi khó khăn để đến lớp,... Đó là những minh
chứng cụ thể nhằm dần dần hình thành cho các em những biểu tượng và khái
niệm về phẩm chất đạo đức tốt, đồng thời khắc phục dần những tàn dư lạc hậu
cũ rơi rớt trong nhận thức của một số em.Và đặc biệt là những bất đồng trong
một lớp nói riêng hay trong trường nói chung giữa các em khác dân tộc thiểu số
với nhau.
2.Thực trạng:
Trong những năm qua ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Quan Sơn đã tích
cực hưởng ứng, tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” và đạt được một số kết quả bước đầu, một số nội
dung trong phong trào thi đua đã đạt được kết quả tốt; tuy nhiên, việc thực hiện
5 nội dung của phong trào thi đua nói chung, đặc biệt việc tổ chức các trò chơi
dân gian trong các cơ sở giáo dục hiện nay còn nhiều hạn chế. Để tiếp tục thực
hiện hiệu quả phong trào thi đua góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện trong các trường học, đáp ứng yêu cầu “Đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục Việt Nam” trong giai đoạn tới, việc tổ chức các trò chơi dân gian trong
trường học là cần thiết và phải được duy trì thường xuyên. Để đưa trò chơi dân
gian vào trường học có hiệu quả, vấn đề đặt ra đối với các nhà lãnh đạo, quản lý
giáo dục, các thầy, cô giáo các trường học cần thực hiện tốt công tác tuyên
truyền về ý nghĩa, mục đích của trò chơi dân gian, trò chơi của các dân tộc thiểu
số; thực hiện hiệu quả việc khai thác và phương pháp tổ chức trò chơi dân gian
trò chơi của các dân tộc thiểu số; phân loại, lựa chọn trò chơi cho phù hợp tâm
lý lứa tuổi và mục tiêu đào tạo học sinh từng cấp học; việc bố trí thời lượng tổ
chức các trò chơi; công tác bồi dưỡng, tập huấn,... nhằm mang lại hiệu quả cao
nhất việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh đáp ứng yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ đất nước thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.


6


Trên thực tế tại địa phương tôi đang công tác xã Sơn Lư - huyện Quan
Sơn Tỉnh Thanh Hóa là xã miền núi có 4 dân tộc anh em chung sống là: Thái,
H’Mông, Mường, Kinh. Địa phương đã tổ chức các phong trào văn hóa văn
nghệ, thể dục thể thao và các lễ hội có các trò chơi vận động dân gian và các dân
tộc anh em trên địa phương. Nhưng số lần tổ chưc trong mỗi một năm còn ít và
lượng học sinh Trung học cơ sở được tham gia còn hạn chế.
Đối với Trường THCS Sơn Lư, các hoạt động giáo dục có đưa các trò
chơi vận động dân gian và trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số cũng chưa
phổ biến, chỉ có số ít các em tự chơi theo nhóm chung dân tộc.
Đối với chương trình bộ môn Thể dục lượng thời gian giành cho trò chơi
nhiều nhưng số lượng trò chơi trong quy định còn hạn chế, không có trò chơi
vận động dân gian và trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số.
Khi xây dựng đề tài này tôi đã tìm hiểu nhận biết của học sinh qua phỏng
vấn, khảo sát và đề ra một số tiêu chí của 40 học sinh (chọn ngẫu nhiên) về các
trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận động của các dân tộc thiểu số ở địa
phương mình công tác như sau:
Bảng 1:
Nội dung phỏng vấn Số lượng tích cực
Số lượng chưa
Ghi chú
và khảo sát
(đạt)
tích cực (chưa
đạt)
Ham thích trò chơi vận
18/40 (45%)

22/40 (55%)
động dân gian và trò
chơi vận động của các
dân tộc thiểu số
Hiểu biết về trò chơi
13/40 (32,5%)
27/40 (67,5%)
vận động dân gian và
trò chơi vận động của
các dân tộc thiểu số
Mạnh dạn tự tin tham
10/40 (25%)
30/40 (75%)
gia hoạt động trò chơi
Thể hiện tinh thần
12/40 (30%)
28/40(70%)
đoàn kết
Biết tự tổ chức trò chơi
10/40 (25%)
30/40 (75%)
đã được tham gia
Sáng tạo trong khi
9/40 (22,5%)
31/40 (77,5%)
chơi trò chơi
Kết quả học tập môn
24 (60%)
16 (40%)
thể dục

Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực trạng trên có thể xác định hiệu
quả của việc giảng dạy sử dụng các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận
động của các dân tộc thiểu số trong công tác giáo dục học sinh phát triển toàn
diện.

7


3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
a. Quy trình thực hiện
*Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi, trò chơi của dân tộc
nào.
*Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
- Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia phải tương xứng giữa
nam, nữ, 1 đội phải có đầy đủ học sinh các dân tộc có trong lớp, số đội tham gia
(mấy đội chơi), quản trò, trọng tài.
- Các dụng cụ dùng để chơi.
- Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian chơi,
những điều người chơi không được làm…
- Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách giải của cuộc chơi. (nếu
có)
*Bước 3: Thực hiện trò chơi.
*Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
- Giáo viên hoặc trọng tài là học sinh nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của
từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
+ Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng cho
đội đoạt giải.
+ Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể hiện.
b. Lựa chọn một số các trò chơi vận động dân gian và trò chơi vận động của
các dân tộc thiểu số tại địa phương để đưa vào tiết dạy môn Thể dục

Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tôi đã tìm hiểu, tham khảo và lựa chọn
được một số trò chơi phù hợp với việc luyện tập thể lực cũng như việc rèn luyện
đạo đức, tinh thần đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau của học sinh như sau:
*Trò chơi 1: “Rồng ấp trứng” là trò chơi dân gian truyền thống của dân tộc H ’
Mông.
- Mục đích:
Đây là trò chơi thể hiện sức khỏe, sự khéo léo, nhanh trí, thông minh của
người cướp trứng và sự nhanh nhẹn, dẻo dai của người giữ trứng.
- Chuẩn bị: Mỗi đội tham gia chơi Rồng ấp trứng có 4 người.
Trước khi bước vào trò chơi, cần có một bãi đất bằng phẳng, rộng rãi và sạch sẽ
để vẽ vòng ấp trứng. Đường kính vòng ấp trứng khoảng 2 mét, vòng cướp trứng
bao bọc lấy vòng ấp có đường kính lớn hơn cỡ khoảng 5 mét. Tâm vòng ấp
trứng đường kính 0,5m.
Trứng là những hòn sỏi to, thậm chí bằng đá được bà con mài dũa nhẵn nhụi to
hơn quả trứng gà, 6 quả trứng như vậy được đặt trong tâm vòng ấp trứng.
- Cách chơi: Trò chơi chia làm hai đội. Trong đó, đội một có nhiệm vụ cử một
người “giữ trứng”.
Với nhiệm vụ “đặc biệt quan trọng” này, đòi hỏi người giữ trứng phải lực
lưỡng, nhanh nhẹn. Có như thế, họ mới đảm trách được sự tấn công hung hãn
của những "kẻ thù" muốn xâm hại ổ trứng. Với trò chơi này, người giữ trứng
luôn ở thế hai tay chống xuống đất hai chân choài phía sau trong vòng tròn 2

8


mét, bụng gần như úp lên trứng và đánh trả người cướp trứng bằng chân trong
vòng tròn 2 mét. Tuy nhiên, luật chơi quy định người giữ trứng không được đá
vào mặt người cướp trứng, cũng như không được dùng tay đánh trả người cướp
trứng.
Trong khi đội một là người giữ trứng thì đội hai cử ba người cướp trứng.

Theo quy định mỗi lần cướp chỉ được 1 quả. Quá trình cướp trứng, người cướp
có thể tránh sự đánh trả của người ấp trứng. Họ đứng ở ngoài vòng tròn 5m để
chạy vào vòng tròn 2m cướp trứng.
Nếu người cướp trứng bị người ấp trứng đánh trúng hoặc chạm vào bất kỳ
bộ phận nào của cơ thể thì người đó bị loại khỏi cuộc chơi.
Sau khi đội 2 thua, phải cử người giữ trứng; đội một cử người cướp trứng, trò
chơi cứ thế diễn ra, 2 đội đổi nhau luân phiên, người nào cũng được giữ trứng và
cướp trứng.
Theo luật chơi, tổng số trứng cướp được từ 04 quả trở lên trong thời gian
03 phút thì đội đó thắng hiệp.
Đây là một môn thể thao, một trò chơi dân gian truyền thống hiện vẫn được bảo
tồn, phát huy trong các thôn bản, xã, huyện.
Sau hết 1 lượt 8 hiệp, đội nào có nhiều hiệp thắng hơn thì thắng cuộc và đội thua
phải cõng đội thắng đi 1 vòng quanh sân, hoặc đội thua phải chịu úp bụng chống
đẩy 10 lần hoặc nhiều hơn tùy theo quy định từ ban đầu của hai đội tham gia
chơi.
* Trò chơi 2: “Tó má lẹ” là trò chơi dân gian truyền thống của dân tộc Thái. Tó
má lẹ theo tiếng Thái có nghĩa là đánh (hoặc chơi) má lẹ. Má lẹ là tên một loại
quả rừng có vỏ cứng, tròn và dẹt như hình chiếc bánh giầy nhỏ. Trò chơi Tó má
lẹ đơn giản, tất cả mọi người đều có thể tham gia.
- Mục đích: Đây là một trò chơi thể hiện sự khéo léo, chính xác, bình tĩnh của
người chơi.
- Chuẩn bị: Người ta dùng những quả má lẹ đã được mài bằng một cạnh để
dựng lên trên sân chơi gọi là Cái. Những quả má lẹ còn nguyên hình tròn được
dùng làm Con, dùng để đánh vào Cái.
Để chơi trò này, chỉ cần một bãi đất nhỏ. Chơi trò này, ít nhất cần có 2 người,
chia ra làm 2 đội. Nếu càng đông người thì trò chơi càng vui. Trò chơi Tó má lẹ
có luật chơi đơn giản, trên sân người ta kẻ ra 3 vạch. Vạch thứ nhất - vạch xuất
phát được kẻ ở đầu sân là chỗ đứng của người chơi. Vạch thứ 2 là vạch để người
chơi đánh dấu điểm đánh và đặt Cái. Vạch thứ 3 (vạch đánh) ở giữa vạch thứ

nhất và vạch thứ 2, khoảng cách từ vạch đánh đến điểm đánh tùy vào khả năng
của các đội chơi.
- Cách chơi: Tó má lẹ có nhiều bước chơi nhưng thông thường người ta chơi
theo 5 bước:
+ Bước thứ nhất người chơi đặt má lẹ lên đầu gối, dùng ngón cái bật má lẹ sao
cho trúng má lẹ đội bạn và bay đến đích hoặc quá đích theo quy định.
+ Bước thứ hai người chơi đúng ở vạch quy định tung má lẹ về phía hàng má lẹ
đội bạn, má lẹ dừng ở điểm nào, lấy điểm đó làm điểm để đánh.

9


+ Bước thứ ba người chơi dùng tay búng má lẹ từ điểm đánh sao cho trúng má lẹ
Cái của đội bạn.
+ Bước thứ tư, đặt má lẹ lên mu bàn chân, vừa nhảy vừa dùng chân đánh má lẹ
sao cho má lẹ bắn vào má lẹ đội bạn.
+ Bước cuối cùng người đánh tung má lẹ đánh dấu vạch đánh, rồi từ vạch đánh
dùng má lẹ của mình đánh cho trúng má lẹ đội bạn. Người nào, đội nào vượt qua
được cả năm bước chơi trên sẽ thắng cuộc.
* Trò chơi 3: “Ném còn” là trò chơi truyền thống của dân tộc Tày, Thái,
Mường.
- Mục đích: Đây là một trò chơi thể hiện sự khéo léo, chính xác, bình tĩnh của
người chơi.
- Chuẩn bị: Cần 5-10 quả còn nhỏ, quả còn được khâu bằng vải, hình tròn hay
hình vuông bên trong bỏ cát hay vật liệu tùy theo… để tạo trọng lượng khi tung ,
bên trong chứa khoảng 200gr. Quả còn có gắn dây quay, trọng lượng, kích
thước không quy định hình dáng tùy theo bản sắc từng dân tộc. Sân là bãi cỏ
bằng phẳng, chiều dài tối thiểu 30m, chiều rộng 10m. Cột đỡ vòng tròn để tung
còn cao 8-10 (tùy theo độ tuổi, thể hình người chơi có thể làm thấp hơn). Được
cố định thẳng đứng với mặt sân. Vòng tung còn làm bằng tre, luồng hay mây

hoặc có thể bằng sắt có viền tua bằng vải màu, chắc chắn không đung đưa, gắn
trên đỉnh cột, đường kính 70-100 cm tùy theo điều lệ giải lễ, hội tổ chức quy
định.
- Cách chơi: Người chơi được chia làm hai nhóm đứng đối diên nhau, cách cột
khoảng 7m trở lên (tùy theo đối tượng người chơi). Mỗi nhóm cử từng người lần
lượt ném quả còn, sao cho quả còn chui qua vòng treo trên ngọn cây là được
điểm. Khi ném, người chơi cầm dây quay trái còn lấy đà, nhắm kĩ và ném. Bên
đối phương sẽ bắt còn của đội bạn ném qua nếu bắt được cũng tính điểm. Sau
khi có còn trong tay bên đối phương ném còn qua vòng để lấy điểm. Đội nào
được nhiều điểm, đội đó thắng cuộc.
* Trò chơi 4: “Cướp cờ”
- Mục đích: Đây là một trò chơi thể hiện sự khéo léo, chính xác, bình tĩnh của
người chơi. Đây là trò chơi không cầu kỳ chuẩn bị, phù hợp với nhiều đối tương
vì nó dễ chơi dễ tổ chức sân bãi chơi không cần rộng. Học sinh có thể chơi ở
trường, ở nhà và nơi có sân chơi phù hợp là có thể chơi.
- Chuẩn bị:
+ Một cái khăn bất kì tượng trưng cho cờ.
+ Một vòng tròn.
+ Vạch xuất phát củng là đích của 2 đội.
+ Quản trò (trọng tài) chia tập thể chơi thành hai đội, có số lượng bằng nhau mỗi
đội có từ 5 - 6 bạn, đứng hàng ngang ở vạp xuất phát của đội mình. Đếm theo số
thứ tự 1,2,3,4,5… các bạn phải nhớ số của mình.
+ Khi quản trò (trọng tài) gọi tới số nào thì số đó của hai đội nhanh chóng chạy
đến vòng và cướp cờ.
+ Khi quản trò gọi số nào về thì số đó phải về.

10


+ Một lúc quản trò có thể gọi hai ba bốn số.

- Cách chơi:
+ Khi đang cầm cờ nếu bị bạn vỗ, chạm tay vào người thì bị thua cuộc.
+ Khi lấy được cờ chạy về vạch xuất phát của đội mình không bị đội bạn vỗ,
chạm tay vào người thì thắng cuộc.
+ Khi có nguy cơ bị vỗ vào người thì được phép bỏ cờ xuống đất để tránh bị
thua.
+ Số nào vỗ, chạm số đó không được vỗ, chạm vào số khác. Nếu bị số khác vỗ,
chạm vào thì không bị thua.
+ Số nào bị thua rồi “bị chết” quản trò (trọng tài) không gọi số đó chơi nữa.
+ Người chơi không được ôm, giữ nhau cho bạn cướp cờ.
+ Người chơi tìm cách lừa đối phương để mang cờ về, lựa chọn sân bải phù hợp
để tránh nguy cơ, cờ ra khỏi vòng tròn, để cờ lại vòng tròn chỉ được cướp cờ
trong vòng tròn.
+ Khoảng cách cờ (vòng tròn để cờ) đến hai đội bằng nhau.
*Trò chơi 5: “Đẩy gậy”
- Mục đích: Đẩy gậy vừa là trò chơi dân gian, vừa là môn thể thao truyền thống,
thường được tổ chức vào dịp đầu xuân, trong những ngày Tết, ngày Hội văn hoá
- thể thao…Vào những dịp này, Đẩy gậy đã tạo nên vẻ đẹp mang đậm màu sắc
dân tộc và là hình ảnh đặc trưng của lễ hội miền núi. Môn thể thao này phù hợp
với tố chất của đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó góp phần đẩy mạnh phong trào
TDTT, làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần ở thôn - bản, đối với học
sinh tham gia tập luyện, chơi môn đẩy gậy tăng cường sức khỏe, ý chí, sự quyết
tâm vượt qua khó khăn thử thách. Ở đâu có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống
thì ở đó - môn thể thao này được phát triển mạnh hơn.
- Chuẩn bị: Để tổ chức thi đấu môn Đẩy gậy chỉ cần có gậy thi đấu làm bằng
tre già (tre đực) thẳng hay những thanh gỗ tốt có chiều dài 2m, đường kính từ 45cm, được sơn 2 màu đỏ và trắng (mỗi màu 1m); đầu và thân gậy phải được bào
nhẵn và có đường kính bằng nhau. Sân thi đấu là một vòng tròn có đường kính
5m, vạch giới hạn rộng 5 cm nằm trong phạm vi của sân có mầu trắng hoặc khác
với màu nền sân!
- Cách chơi: Sau khi các VĐV đã hoàn tất thủ tục chuẩn bị thi đấu, trọng tài

chính dùng khẩu lệnh “cầm gậy”, các VĐV mới được phép cầm gậy theo quy
định của luật; trọng tài chính một tay cầm chính giữa gậy, khi các VĐV đã ở tư
thế sẵn sàng, đúng luật, hô dự lệnh “chuẩn bị”, sau đó thổi một hồi còi phát lệnh
cho hiệp đấu bắt đầu, đồng thời buông tay cầm gậy ra. Theo quy định luật chơi,
bên nào chân chạm vào vạch hoặc bị đẩy ra khỏi vòng tròn trước là thua cuộc.
Mỗi cuộc thi đẩy gậy thường diễn ra trong 2 - 3 hiệp. Khi kết thúc trận đấu,
trọng tài chính và 2 VĐV mặt hướng về BTC, trọng tài chính hai tay cầm tay 2
VĐV, giơ tay VĐV thắng cuộc lên cao, sau đó các VĐV rời sân.
Đẩy gậy là môn thể thao cần đến sức khoẻ và sự khéo léo của VĐV. Tuy cần
nhiều sức mạnh nhưng để thắng được đối thủ, người chơi cũng cần có kỹ - chiến
thuật, sự khéo léo, dẻo dai và tâm lý thi đấu ổn định. Đã có không ít những VĐV

11


“thấp bé nhẹ cân” mà thắng được nhiều đối thủ “to con” hơn mình! Người chơi
“cao thủ” là người luôn giữ được bình tĩnh, ghìm đầu gậy bên phần mình xuống
và đẩy đầu gậy của đối phương lên cao để tạo đà cho mình có cơ hội chiến thắng
đối phương. Có những cuộc đẩy gậy giữa những “cao thủ” ngang tài, ngang sức,
giằng co không phân thắng bại. Lại có những cặp chỉ ngay sau cái phất tay của
trọng tài, đấu thủ đã bay vèo ra khỏi vòng, khiến người xem càng cảm thấy thích
thú. Không chỉ những người trực tiếp tham gia chơi mà ngay chính khán giả
cũng có những diễn biến tâm trạng theo từng hiệp đấu, lúc thì xuýt xoa tiếc rẻ,
lúc lại reo lên sảng khoái, xen lẫn tiếng trống khi đổ dồn dập… Nhưng thắng thua cũng chỉ là góp vui cho ngày hội! Sau cuộc đấu các đối thủ lại khoác tay
nhau, cùng nâng chén rượu, tấm tắc khen tài nhau, nhiều khi nhờ đó mà thêm
bạn, thêm bè…
Hiện nay, không chỉ dừng lại ở trò chơi môn Đẩy gậy đã được đưa vào thi
đấu mang tính chuyên nghiệp trong các cuộc thi thể thao. Là một môn thể thao
dân tộc được phát triển trong thời gian gần đây, Đẩy gậy đã chính thức là 1 trong
số 40 môn thể thao nằm trong hệ thống thi đấu của Đại hội TDTT toàn quốc lần

thứ VI - năm 2010, là môn thể thao đưa vào thi đấu tại hội khỏe phù đổng Tỉnh
lần thứ IX năm 2015 và hội khỏe phù đổng toàn Quốc lần thứ IX năm 2016,
đánh dấu bước ngoặt phát triển cho môn thể thao dân tộc này!
*Trò chơi 6: “Kéo co”
- Mục đích: Trò chơi kéo co ở mỗi nơi có những lối chơi khác nhau, nhưng bao
giờ số người chơi cũng chia làm hai phe, mỗi phe cùng dùng sức mạnh ý chí, kỹ
thuật, tinh thần đoàn kết để kéo cho được bên kia ngã về phía mình và giành
chiến thắng.
- Chuẩn bị: Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ. Trong
trường hợp bên nam bên nữ, dân làng thường chọn những trai gái chưa vợ chưa
chồng.
Một cột trụ để ở giữa sân chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây tre hoặc
cây tre, thường dài khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy
dây thừng để kéo. Một vị chức sắc, bô lão hay trọng tài cầm trịch ra hiệu lệnh (ở
các hội làng).
Hiện nay thường sử dụng dây thừng to chia 2 đội để kéo có vạch ở giữa sân, có
thể chia 2 đội theo số lượng người bằng nhau hoặc chia 2 đội theo cân năng
tương đương nhau để kéo.
- Cách chơi: Hai bên ra sức kéo, sao cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên
ngoài dân làng cổ vũ hai bên bằng tiếng “dô ta”, “cố lên”.
Có nơi người ta lấy tay người, sức người trực tiếp kéo co. Hai người đứng đầu
hai bên nắm lấy tay nhau, còn các người sau ôm bụng người trước mà kéo. Đang
giữa cuộc, một người bên nào bị đứt dây là thua bên kia. Kéo co cũng kéo ba
keo.
Hiện nay kéo co cũng đã đưa vào các cuộc thi ở các xã, huyện, tỉnh. Không đơn
thuần giành cho người lớn mà lứa tuổi học sinh cũng được tham gia và tập

12



luyện. Tổ chức chơi trong các giờ học hoặc thi đấu vào các dịp lễ, Tết, các dịp
kỷ niệm trong năm.
*Trò chơi 7: “Bịt mắt bắt dê”
- Mục đích: Trẻ hay học sinh từ 6 đến 15 tuổi hay chơi trò bịt mắt bắt dê. Một
người xung phong để mọi người bịt mắt lại bằng một chiếc khăn để không nhìn
thấy, những người còn lại đứng thành vòng tròn quanh người bị bịt mắt, người bị
bịt mắt cần tập chung cao độ, sử dụng tai nghe để phán đoán, để “bắt dê”.
- Chuẩn bị: Một cái khăn để bịt mắt người chơi. Một vòng tròn rộng, hoặc chơi
ở sân trường. Đánh dấu tâm giữa vòng tròn cũng là vị trí đứng của người bị bịt
mắt. Cử một học sinh làm trọng tài hoặc giáo viên làm trọng tài điều khiển học
sinh chơi.
- Cách chơi: Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người
đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại”, có thể sử dụng hiệu lệnh còi thì tất cả mọi
người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt bắt
đầu lần đi xung quanh để bắt được ai đó, mọi người thì cố tránh để không bị bắt
và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và người bị
bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai lại bị bịt mắt
lại và làm tiếp.
Có ai đó muốn ra chơi cùng thì phải vào làm luôn, người đang bị bịt mắt lúc này
được ra ngoài hoặc là phải oẳn tù tì xem ai thắng.
Để đánh giá hiệu quả của các trò chơi vận động dân gian của dân tộc thiểu
số vào các tiết dạy môn Thể dục để thực nghiệm.
Tổng thời gian thực nghiệm: 15 tuần, từ ngày 02/11/2015 đến 13/03/2016
với số tiết là 30 tiết (trừ 4 tuần trong đó: 2 tuần ôn tập và thi học kì I và 2 tuần
nghỉ tết nguyên Đán).
Từ kết quả thu được qua phỏng vấn và khảo sát 40 học sinh như sau:
Bảng 2:
Nội dung phỏng vấn
Số lượng tích
Số lượng chưa

Ghi chú
và khảo sát
cực
tích cực
Ham thích trò chơi vận
36/40 (90%)
4/40 (10%)
động dân gian và trò
chơi vận động của các
dân tộc thiểu số
Hiểu biết về trò chơi
37/40 (92,5%)
3/40 (7,5%)
vận động dân gian và
trò chơi vận động của
các dân tộc thiểu số
Mạnh dạn tự tin tham
34/40 (85%)
6/40 (15%)
gia hoạt động trò chơi
Thể hiện tinh thần đoàn
25/40 (62,5%)
15/40 (37,5%)
kết
Biết tự tổ chức trò chơi
30/40 (70%)
10/40 (30%)
đã được tham gia

13



Sáng tạo trong khi chơi
trò chơi
Kết quả học tập môn thể
dục

27/40 (67,5%)

13/40 (32,5%)

39 (97,5%)

1 (2,5%)

4. Hiệu quả của sáng kiến:
Từ kết quả thu được ở bảng 2 cho thấy: Số lượng học sinh thay đổi theo
chiều hướng tích cực được nâng lên so với kết quả trước thực nghiệm. Số lượng
học sinh tích cực tham gia đã thay đổi rõ rệt theo chiều hướng đi lên. Vì vậy mà
các tiết học thể dục chất lượng nâng lên đáng kể học sinh tham gia học tập với
tinh thần vui vẻ, đoàn kết, kỉ luật không chỉ với những học sinh tham gia học tập
các tiết học thể dục đa phần khi kiểm tra điểm đạt từ khá và giỏi nhiều, ngoài ra
còn có những học sinh tham gia thi hội khỏe phù đổng Huyện lần thứ V đạt
được nhiều thành tích cao mà môn đẩy gậy đóng góp nhiều thành tích cho nhà
trường, có 4 học sinh của trường được tuyển chọn đi thi HKPĐ lần thứ IX của
Tỉnh môn đẩy gậy đạt được 4 giải: 2 huy chương bạc, 1 huy chương đồng và 1
giải khuyến khích đó là một thành tích cao của toàn thể nhà trường lần đầu tiên
đạt được một điều đặc biệt hơn nữa là có 1 học sinh được tuyển chọn đi thi hội
khỏe phù đổng toàn Quốc lần thứ IX năm 2016 và đã đạt được 1 huy chương
đồng môn đẩy gậy. Qua những kết quả đạt được của học sinh như vậy bản thân

cũng thấy được kết quả của việc đưa sáng kiến kinh nghiệm vào giảng dạy là
phù hợp, mang lại hiệu quả tích cực được đồng nghiệp đánh giá cao. Không
những có sức ảnh hưởng từ những tiết học, những cuộc thi đấu mà còn có ảnh
hưởng đến các phong trào do nhà trường, đoàn – đội tổ chức cho học sinh toàn
trường như tổ chức thi các môn TDTT kéo co, đẩy gậy, ném còn,… trong các
ngày lễ, tết, ngày kỉ niệm trong năm học như: 2/9, 20/10, 20/11, 22/12, 8/3, 26/3,
30/4, 15/5,…được tất cả học sinh trong nhà trường tham gia đông đảo, vui vẻ
giúp các em nâng cao sức khỏe, tham gia tốt việc học tập và rèn luyện trong một
năm học. Bản thân cũng tích cực tham mưu với các ban ngành đoàn thể trong xã
để thường xuyên tổ chức các trò chơi, môn thể thao dân tộc vào các dịp lễ, hội ở
địa phương tăng tình đoàn kết dân tộc, phát huy và giữ gìn các trò chơi, các môn
thể thao của dân tộc mình. Qua đó các em học sinh được tham gia nhiều hơn,
được giao lưu với nhiều bạn trong xã, cũng có thể những bạn ở trong huyện tăng
thêm tình hưu nghị, đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau của mọi người, của các dân
tộc anh, em.

14


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Cơ sở lý luận, thực trạng là những căn cứ đặc biệt quan trọng trong việc lựa
chọn chính xác các trò chơi thực nghiệm.
Hiệu quả phát triển nhân cách học sinh cần phải kết hợp hài hòa tất cả các
môn học trong chương trình giáo dục phổ thông. Trong đó có môn Thể dục, cần
chú ý đến học sinh để phát triển không chỉ mình thể chất mà còn giáo dục về
đức, trí, mĩ. Trò chơi dân gian và trò chơi của các dân tộc thiểu số phản ánh nét
văn hoá cộng đồng của dân tộc, khu vực hoặc vùng miền vì thế việc tổ chức cho
các em học sinh chơi các trò chơi dân gian và trò chơi của các dân tộc thiểu số là
một trong những cách thức giáo dục, hình thành nét nhân cách mang bản sắc văn

hoá dân tộc cho các thế hệ học sinh hiện nay. Thực hiện nhiệm vụ "giáo dục
truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào về
việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, ... tôn vinh bản sắc văn
hoá dân tộc".
2. Kiến nghị:
Để công tác giảng dạy môn thể dục nói riêng và các môn học khác trong
nhà trường THCS được thuận lợi. Tôi đề xuất các cơ quan ban ngành có liên
quan tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết và tạo điều kiện về
mặt thời gian để giáo viên và học sinh trường THCS Sơn Lư nói riêng, học sinh
THCS trên toàn huyện Quan Sơn nói chung được dạy và học môn thể dục thuận
lợi, có hứng thú học tập, đạt được hiệu quả trong các giờ học và thành tích cao
trong quá trình tập luyện, thi đấu.
Do đề tài nghiên cứu rộng, thời gian nghiên cứu ngắn, bước đầu mới thu
được một số kết quả nhất định. Tôi mong muốn được tiếp tục nghiên cứu một
cách lâu dài hơn.Trong thời gian thực hiện đề tài này được BGH nhà trường và
các giáo viên tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình, nên đề tài đã hoàn thành đúng thời
gian.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Sơn Lư, ngày 15 tháng 4 năm2016
Tôi xin cam đoan sáng kiến trên không
sao chép của người khác nếu sai tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm!
Tác giả

NGUYỄN XUÂN HUY

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên môn Thể dục 6, 7, 8, 9
2. Phân phối chương trình môn thể dục
3. Tài liệu lí luận và phương pháp giảng dạy thể dục thể thao
4. Tài liệu truyền thống về các môn TDTT dân tộc của Xã, Huyện
5. Trò chơi vận động dân gian và dân tộc thiểu số
6. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục ở trường THCS
7. Luật thi đấu các môn TDTT dân tộc
8. Luật thi đấu kéo co (26/4/2014)
9. Luật thi đấu đẩy gậy (26/4/2014)
10. Hướng dẫn giảng dạy TDTT; Tác giả GS – TS: Trịnh Trung Hiếu

16


17



×