Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 24 trang )

1. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Mục tiêu của giáo dục Việt Nam là phát triển toàn diện nhân cách con
người và một trong những yếu tố góp phần quan trọng trong việc hình thành cho
học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống cơ bản để học sinh tiếp tục bước
tiếp trên con đường học vấn và bắt nhịp cùng với xu thế hiện đại của thế giới đó
chính là công tác chủ nhiệm.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa và
mặt trái của nền kinh tế thị trường, tại các miền quê do nhu cầu của cuộc sống
nhiều gia đình học sinh bố mẹ đã phải bỏ con ở nhà để đi làm ăn xa. Trong hoàn
cảnh đó đã tác động đến học sinh nhiều vấn đề như: học sinh bỏ học, trốn học,
không chịu học bài và không chọn con đường học tập để vươn lên...nhiều học
sinh do thiếu sự quan tâm của gia đình trở nên hư hỏng, thiếu kỹ năng sống, vô
lễ, ham chơi, lười học và thậm chí vi phạm pháp luật. Trong bối cảnh đó thì vai
trò của các giáo viên chủ nhiệm là hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm phải
đóng một lúc nhiều vai trò: người cha, người mẹ, anh chị, thầy cô và là một
người bạn...
Tuy nhiên trong thực tế, không phải giáo viên chủ nhiệm nào cũng theo
học sinh của mình từ lớp này lên lớp khác. Vì vậy, mỗi năm lên lớp, các em lại
được giáo viên khác chủ nhiệm. Nếu giáo viên lớp dưới làm tốt công tác chủ
nhiệm, xây dựng tốt nề nếp lớp học, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học
và nhiều kĩ năng sống cơ bản khác; nhưng lên lớp trên, giáo viên chủ nhiệm lớp
không duy trì, không phát huy thì rồi nề nếp lớp học và chất lượng học tập của
học sinh sẽ ra sao? Do vậy, công tác chủ nhiệm lớp phải được thực hiện đồng
bộ, đều tay đối với tất cả khối lớp trong một khoá học. Nề nếp lớp học, phương
pháp học tập, đạo đức, nhân cách và các kĩ năng sống của học sinh phải được
giáo viên chủ nhiệm chú ý xây dựng, rèn rủa ngay từ lúc các em bước chân vào
ngôi trường mới (THCS) và phải được duy trì, phát huy xuyên suốt ở các lớp
trên.
Xuất phát từ bối cảnh khách quan đó, là giáo viên liên tục nhiều năm làm


công tác chủ nhiệm lớp 9 bằng những giải pháp của bản thân đã tìm tòi, sáng tạo
và áp dụng trong quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm tôi luôn hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao, lớp tôi chủ nhiệm luôn duy trì sĩ số 100%, chất
lượng học tập cũng như hạnh kiểm của học sinh luôn đạt và vượt chỉ tiêu và kế
hoạch của nhà trường đề ra. Đó là lí do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm
trong công tác chủ nhiệm học sinh lớp9” để viết sáng kiến kinh nghiệm. Mong
được chia sẻ và nhận được những đóng góp chân tình từ các thầy giáo, cô giáo
đồng nghiệp và cấp trên.
- Mục đích nghiên cứu:
- Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc
kết thành kinh nghiệm của bản thân.
1


- Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong
công tác chủ nhiệm lớp.
- Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ
Ban Giám khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy
những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn.
- Rèn luyện tinh thần năng động; giữ lửa lòng say mê, sáng tạo; cố gắng
học tập, tự hoàn thiện mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu quá trình công tác chủ nhiệm lớp 9A với một số nội
dung cơ bản sau đây:
+Xây dựng lớp học dân chủ và kỷ luật.
+Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực.
+Giáo dục giới tính lứa tuổi học sinh lớp 9
Tôi thiết nghĩ đây là những công việc quan trọng mà tất cả các giáo viên
chủ nhiệm lớp 9 cần phải làm. Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thực
hiện từ năm học 2014-2015. Sau đó được hoàn chỉnh, bổ sung và được hoàn

thiện vào cuối năm học 2015-2016.
-Phương pháp nghiên cứu.
+Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
+Phương pháp phân tích, tổng hợp.
+Phương pháp hướng dẫn, tổ chức.
+Phướng pháp đánh giá.
2.NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lí luận.
2.1.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi THCS
Như chúng ta đã biết: Học sinh THCS (11-15 tuổi) là lứa tuổi có đặc điểm
tâm sinh lý hết sức phức tạp. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ trẻ em sang người
lớn. Những đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh THCS
còn nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh,không thể
phủ nhận vai trò của giáo viên chủ nhiệm (GVCN). Nếu GVCN là người xác
định đúng vị trí, nhiệm vụ của mình ,biết tổ chức giáo dục cho học sinh thì
người GVCN thực sự là người có ảnh hưởng lớn nhất với học sinh. Để làm tốt
điều này, giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy
cô giáo phải nắm được đường lối quan điểm lí luận giáo dục đồng thời giáo dục
những phẩm chất đạo đức rèn luyện năng lực để trở thành công dân tốt mai sau.
Người giáo viên chủ nhiệm phải tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã
hội , phải rèn luyện và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm chủ nhiệm lớp.
2.1.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh
Giáo viên chủ nhiệm là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp
có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện đứng ra làm chủ nhiệm lớp trong một năm học
hoặc trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học. Giáo viên chủ nhiệm lớp thực
2


hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, người

tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn
tốt, công dân tốt và xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh. Giáo viên chủ
nhiệm lớp có vai trò sau đây:
- Thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học
- Người xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết
- Người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp
- Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp
- Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục
2.1.3. Sự phát triểncủa một tập thể lớp qua các giai đoạn
- Giai đoạn 1: Nhà giáo dục cần và có thể đề ra yêu cầu đối với học sinh
những yêu cầu này có tính chất kiên quyết về mặt hình thức, rõ ràng về mặt nội
dung và ít nhiều có tính chất gợi ý.
- Giai đoạn 2: Là giai đoạn mà các cán bộ lớp và Đoàn, Đội các phần tử
tích cực của tập thể đề ra yêu cầu đối với bạn mình và tự đề ra yêu cầu đối với
mình.
- Giai đoạn 3: là giai đoạn mà tập thể tự đề ra yêu cầu đối với mình, đoàn
kết lại trong một thể thống nhất. Đó cũng là lúc từng thành viên trong tập thể tự
đề ra yêu cầu xã hội đối với mình và tự lựa chọn cách ứng xử phù hợp với yêu
cầu đó.
Việc nắm được các giai đoạn phát triển của tập thể này có ý nghĩa rất lớn
trong việc lựa chọn thời điểm và phương pháp cách làm sao cho hiệu quả và phù
hợp nhất với tập thể học sinh và từng học sinh.
2.1.4. Mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với ban cán sự lớp
Giáo viên chủ nhiệm chính là một thủ lĩnh và ban cán sự lớp chính là
những “tay chân” có mối qua hệ khăng khít với nhau. Giáo viên chủ nhiệm là
người tự xây dựng hoặc phối hợp xây dựng và đưa ra các chỉ tiêu hành động của
tập thể và ban cán sự lớp chính là những người thực thi các chỉ tiêu hành động
đó cho giáo viên chủ nhiệm. Do đó giáo viên chủ nhiệm cần có sự quan tâm và
bồi dưỡng thường xuyên cho ban cán sự lớp để ban cán sự làm việc có hiệu quả
hơn. Đồng thời ban cán sự lớp là những người cung cấp thông tin phản hồi để

giáo viên chủ nhiệm có sự điều chỉnh kịp thời cho công tác chủ nhiệm của mình.
2.2. Thực trạng.
Qua thực tế quan sát công tác chủ nhiệm nói chung nhiều năm thì có
nhiều tâp thể lớp đã không thể hiện được tính chất dân chủ. Biểu hiện của nó
chính là sự chủ quan của giáo viên chủ nhiệm trong công việc chỉ định ban cán
sự lớp, hoặc học sinh tự bình bầu theo ý thích chủ quan mà chưa thể hiện được
sự chính xác theo yêu cầu nhiệm vụ của ban cán sự lớp.
Học sinh lớp 9 là lớp cuối cấp ở THCS. Ở lứa tuổi này, các em đã có
nhiều thay đổi về nhận thức, về tâm sinh lí, tình cảm và cả các mối quan hệ xã
hội. Nhiều em thích bắt chước người lớn. Các em rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, bị xâm
hại,…Nhưng các em vẫn chưa có đủ khả năng để từ chối, để tự bảo vệ mình. Vì
3


vậy, các em rất cần được giáo dục và rèn luyện nhiều kĩ năng sống để tự tin
trong học tập, trong cuộc sống.
Những năm học gần đây, tình trạng bạo lực học đường diễn ra ngày càng
gay gắt và đáng lo ngại. Đặc biệt tình trạng bạo lực học đường không chỉ diễn ra
trong học sinh nam mà còn diễn ra phức tạp đối với các học sinh nữ. Bên cạnh
đó là tình trạng học sinh thường gây gỗ, chia bè phái trong các lớp học và sự
phân biệt giàu ghèo và nhóm chơi theo hoàn cảnh gia đình cũng là vấn đề đáng
lo ngại…Những điều đó diễn ra trong bối cảnh học sinh ngày càng tỏ ra thơ ơ,
vô cảm với các vấn đề xảy ra ngay tại lớp học hay là ngay với bạn học cùng lớp
của mình. Chính vì lẽ đó đòi hỏi phải xây dựng một lớp học thân thiện và hợp
tác là một đòi hỏi có tính chất cấp thiết hiện nay.
- Trong 2-3 năm học gần đây công tác chủ nhiệm mà tôi được phân công
có diễn biến đó là: Tổng số 31 học sinh. Trong đó: có 05 em nữ thường chia bè
phái, một vài em lại hay hờn dỗi và thường xuyên nói xấu bạn; có 02 em nam
hay quậy phá, chọc ghẹo các bạn trong lớp gây ồn ào, mất trật tự trong giờ học ,
lực học rất yếu; có 01 em bố mẹ đi làm ăn xa ở với ông bà thường xuyên nghỉ

học: 01em thường xuyên ốm đau, nhà ở xa trường nên nghỉ học rất nhiều; 01em
gia đình có hoàn cảnh khó khăn vì bố ốm yếu nên phải cùng mẹ gánh vác việc
gia đình nên học tập cũng xa sút; 01em bố mẹ li hôn em phải sống với chú,
nhiều em có hoàn cảnh khó khăn nên không có góc học tập, thiếu các điều kiện
học tập thuận lợi….Trong hoàn cảnh đó mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác
chủ nhiệm thì phải vừa là một giáo viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một
nhà tâm lí giỏi, vừa là nhà tổ chức, điều hành giỏi để hiểu học sinh, để xử lí các
tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế nhị và đạt hiệu quả giáo dục cao.
2.3. Những giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
Công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp là rất nhiều. Trong sáng kiến kinh
nghiệm này, tôi chỉ đi sâu vào 3 nội dung chính sau đây:
+Xây dựng lớp học dân chủ và kỷ luật.
+Xây dựng lớp học thân thiện học sinh tích cực.
+Giáo dục giới tính lứa tuổi học sinh lớp 9
2.3.1. Xây dựng lớp học dân chủ và kỷ luật.
* Xây dựng lớp học dân chủ.
Đây là một khâu đặc biệt quan trọng đối với học sinh lớp 9 – lứa tuổi
đang khát khao thể hiện tinh thần làm chủ bản thân. Vì vậy biện pháp này giúp
các em bước đầu được thực hành tính chủ động trong công việc của cá nhân gắn
liền với tập thể. Công việc này cần thực hiện qua các bước như sau.
+Bầu ban cán sự lớp: khi mới nhận lớp giáo viên chủ nhiệm không nên
áp đặt ngay những quy định của lớp, buộc các em vào khuôn khổ ngay lập tức
và đặc biệt không chọn ban cán sự lớp theo ý muốn chủ quan của giáo viên chủ
nhiệm. Vì điều này sẽ gây ra sự gò bó, mất dân chủ làm tác động đến suy nghĩ
của các thành viên trong lớp.
Để bầu ban cán sự lớp đạt hiệu quả, hoạt động tốt, giáo viên chủ nhiệm
tham khảo ý kiến của giáo viên chủ nhiệm năm trước; nắm chắc yêu cầu của một
4



cán bộ lớp; hiểu biết nhu cầu của tập thể học sinh; chú ý tính cách của người học
sinh mà mình chọn; nghiên cứu hồ sơ học bạ học sinh; hoàn cảnh gia đình,
khoảng cách địa lí nơi học sinh sinh sống.…Theo đó ban cán sự lớp tốt phải là
người năng động, nhiệt tình, biết sống vì tập thể, không ích kỉ, …Vì vậy quá
trình lựa chọn cần thông qua đầu các buổi lao động đầu năn học, các buổi sinh
hoạt tập thể; chú ý đánh giá trong học bạ và hồ sơ học sinh…giáo viên quan sát
những học sinh mà mình có ý định đưa ra để bình bầu vào ban cán sự lớp. Sau
khi đã có được những thông tin cần thiết thì để cho học sinh giới thiệu và đề
xuất để thông qua bầu cử dân chủ để xác định sự tín nhiệm của tập thể để chọn
được ban cán sự theo yêu cầu.
+Chia tổ: khi tiến hành chia tổ, giáo viên chủ nhiệm cần tạo sự đồng đều
trong tổ. Có nghĩa là mỗi tổ sẽ có các đối tượng học sinh có học lực, ý thức chấp
hành nội quy khác nhau.Nói cách khác, mỗi tổ phải bảo đảm nhiều đối tượng: có
học sinh yếu, học sinh giỏi, học sinh ở địa bàn xa – gần, có học sinh ngoan, học
sinh cá biệt. Làm được như vậy thì trong quá trình học tập các em có thể hỗ trợ
nhau, nhắc nhở nhau trong học tập, trong lao động.Ví dụ: Lớp 9A đầu năm có 31
học sinh, được chia làm ba tổ để phù hợp với việc bố trí, sắp xếp bàn của lớp
học.
Nhờ thực hiện tốt các nội dung trên. Qua quá trình hoạt động của lớp, tôi
thấy rằng ban cán sự lớp làm việc hiệu quả, được các thành viên trong lớp tôn
trọng. Chính điều này là nhân tố tích cực giúp lớp tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ
và luôn nằm trong tốp đầu về thi đua giữa các lớp.
- Phân công nhiệm vụ cho BCS lớp.
BCS lớp là đại diện cho lớp, chịu trách nhiệm trước GVCN về toàn bộ
hoạt động học tập, rèn luyện của lớp trong thời gian học. BCS lớp do tập thể lớp
bầu ra, được GVCN quyết định công nhận. Nhiệm kì của BCS lớp là một năm.
Cơ cấu của BCS lớp gồm: 1lớp trưởng, 3 lớp phó,1 thủ quỹ, 3 tổ trưởng
Ngoài ra còn có 2 cờ đỏ
+Nhiệm vụ của lớp trưởng:
Là người chịu sự điều hành, quản lí trực tiếp của GVCN. Lớp trưởng là

người điều hành, quản lí toàn bộ các hoạt động của lớp và từng thành viên trong
lớp. Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh nội quy của
trường, quy định của lớp. Thực hiện nề nếp tự quản trong lớp.
Lớp trưởng là người thay mặt GVCN quản lí lớp, kịp thời nắm bắt thông tin của
lớp, báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm.
Cuối tuần, trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm, lớp trưởng tổng kết, đưa ra đánh
giá, nhận xét về quá trình hoạt động của lớp. Trên cơ sở báo cáo của tổ trưởng,
lớp trưởng xếp loại thi đua cho các thành viên trong lớp…
+ Nhiệm vụ của các lớp phó:Lớp phó học tập: đôn đốc, nhắc nhở các
thành viên trong lớp học tập. Giúp đỡ những học sinh yếu trong khả năng của
mình.Cùngvới lớp trưởng, tổ trưởng kiểm tra vở bài tập và đồ dung của các bạn
trong lớp trong giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ.
+ Lớp phó văn thể: chịu trách nhiệm về các hoạt động văn nghệ.
5


+ Lớp phó lao động: phân công, theo dõi, đôn đốc các thành viên trong
lớp ở các buổi lao động. Theo dõi công tác trực nhật hàng tuần của các tổ, ý thức
giữ vệ sinh của cá nhân các thành viên trong lớp. Cuối tuần báo cáo hoạt lao
động.
+Nhiệm vụ của thủ quỹ: thu và quản lí các khoản quỹ của lớp, cuối tháng
– cuối học kì – cuối năm báo cáo công khai hoạt động thu chi quỹ lớp.
+Nhiệm vụ của các tổ trưởng: phân công, theo dõi, đôn đốc các thành
viên trong tổ làm trực nhật, vệ sinh. Theo dõi, báo cáo hoạt động hàng tuần của
các tổ viên. Kiểm tra vở bài tập và đồ dung học tập của các tổ viên ở 15 phút
đầu buổi,…
+ Lập sơ đồ lớp học.
Sơ đồ lớp học cũng được xem là căn cứ pháp lí của lớp và được gắn cố
định lên trên tường để các giáo viên bộ môn dễ quan sát đồng thời giúp giáo
viên bộ môn quản lý tránh được tình trạng học sinh đổi chỗ ngồi.

Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh tuy dễ nhưng sắp xếp như thế nào cho hiểu quả
lại không dễ chút nào.Để lập sơ đồ lớp tốt, GVCN dựa vào các căn cứ sau:
- Học lực của học sinh: xen kẽ học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi.
- Thể chất của học sinh: học sinh thấp ngồi trước, cao ngồi sau; mắt yếu
ngồi gần bảng.
- Nhiệm vụ của ban cán sự lớp: Thường ngồi giữa hoặc ngồi sau của tổ
(lớp).
- Ý thức của học sinh: học sinh nói chuyện, không chú ý học thì cho ngồi
trước.Trên cơ sở các căn cứ đó, giáo viên chủ nhiệm lập sơ đồ lớp sao cho phù
hợp.
Sơ đồ tổ chức lớp học lớp 9A:
Tới
Ng.Li
Cửa ra
vào
nh
Ngu Trà
yên My
Lợi Hà
+
Trin Anh
h
Hiế Hoan
u
*

Tạo

L.Tr
ang

P.An H.Li
h
nh

Duyê
n*
Lan Tuấn

Hiệp

Thu Kiều
ỳ (#)

Hoa

Giang

Bàn giáo viên

Phươn T.Hưn
g@
g
Bình
Ng.Tr
ang*
Ly Cảnh
Duy

Quang
Ghi chú:

- Dấu #: lớp trưởng
- Dấu @: lớp phó học tập
- Dấu * : tổ trưởng
6


- Dấu +: lớp phó lao động
- Dấu : lớp phó văn - thể, thủ quỹ
Lập sơ đồ tổ chức lớp học theo căn cứ trên có tác dụng:
Giúp phát huy được vai trò của BCS lớp trong việc quản lý lớp học
Các em học tốt có thể hỗ trợ được cho những học sinh học còn yếu.
Những học sinh ở xa nếu có đi học trễ vào ngày mình trực nhật thì các bạn trong
tổ có thể hỗ trợ làm trực nhật kịp thời, …
*Xây dựng ý thức kỷ luật.
+Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại học lực học sinh.
Một tập thể muốn hoạt động tốt, có nề nếp, …không chỉ dựa vào người
chỉ huy mà còn cần có những nguyên tắc hoạt động của nó đây cũng chính là
việc xây dựng nề nếp kỷ luật lớp học. Những quy định này xây dựng phải dưa
trên những quy định chung của nhà trường. Ở lớp 9A, ngay từ những tuần đầu
của năm học Ví dụ: tiêu chuẩn của lớp trưởng: học lực từ khá trở lên, hạnh kiểm
tốt, năng động, nhiệt tình, có khả năng tổ chức, quản lí tốt,có uy tín với bạn
trong lớp…Tiêu chuẩn của lớp phó học tập: học lực giỏi, nhiệt tình giúp đỡ bạn,
tính tình hòa đồng, …Ở các chức danh khác giáo viên cũng đưa ra tiêu chuẩn
tương tự. cùng BCS lớp đã xây dựng “Tiêu chí đánh giá, xếp loại thi đua” các
thành viên trong lớp.
Tiêu chí đánh giá xếp loại được xây dựng trên cơ sở “Bảng thi đua” giữa
các lớp của Liên đội. Sau khi xây dựng xong “Tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh
kiểm”, trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm, lớp trưởng tiến hành lấy ý kiến của các
thành viên trong lớp để điều chỉnh cho hợp lý (điều chỉnh thang điểm). Sau đó
GVCN đưa ra quyết định cuối cùng.

Việc lấy ý kiến của học sinh là rất quan trọng vì các em sẽ thấy mình được tôn
trọng. Vì vậy, các em sẽ có ý thức tổ chức tốt hơn trong học tập.
Mẫu Bảng “Tiêu chí đánh giá, xếp loại thi đua HS”:
-1
Không mặc đồng phục
-1
Khôngthắtkhăn quàng
-1
Không sơ vin
-1
Đi học muộn
-2
Vắng không phép
-5
Nói tục, chửi thề
Ăn quà trong trường
-1
NỘI
Phá hoại tài sản của công
-10
QUY
-5
Vô lễ với giáo viên, người lớn
-3
Làm việc riêng trong giờ học
-1
Làm ồn lớp học
-5
Không thuộc bài
-3

Không ghi bài
HỌC
-4
Không làm bài tập về nhà
TẬP
+2
Điểm tốt
7


-2
-2
-5
-2
-1
-1
-3

Không quét lớp
Không hốt rác
Bỏ trực vệ sinh
Viết, vẽ bậy lên bàn, lên bảng
Xếp hàng chậm
Không nghiêm túc, tập sai động tác
Bỏ tập thể dục

VỆ
SINH
THÊ
DỤC


Kết quả rèn luyện và học tập trong tuần của học sinh
Trên cơ sở báo cáo của tổ trưởng, lớp trưởng quy ra điểm rồi xếp loại thi
đua trong tuần cho các thành viên trong lớp.Vào thứ bảy của tuần cuối cùng
trong tháng, GVCN họp cùng BCS lớp để xếp loại thi đua tháng cho học sinh
trong lớp.
Với việc xếp loại thi đua theo thang điểm như vậy thì việc đánh giá của
học sinh là tương đối chính xác cũng đồng thời là động lực để các em học tập.
Tuy nhiên có những vi phạm của học sinh là ngoài ý muốn của các em. Vì vậy
trong quá trình thực hiện GVCN cần có cách xử lý phù hợp, nếu là trường hợp
ngoài ý muốn thì không nên trừ điểm của các em. Những học sinh vi phạm, giáo
viên cũng nên cho các em “lập công chuộc tội”. Nếu như đẩy các em vào đường
cùng, không có điều kiện sửa sai thì dễ làm cho các em chán nản, thất vọng, mất
động cơ để phấn đấu.
Ví dụ 1: Trong thang điểm tôi có đưa ra trường hợp:
- Trong tuần nếu xếp loại TB hoặc khá nhưng đạt 3 điểm tốt và có ý thức
sửa sai thì sẽ được nâng một bậc .
- Trong tuần đạt 3 điểm tốt, không vi phạm nội quy thì được tuyên dương
trước lớp …
Ví dụ 2: Học sinh nghỉ học không phép, giáo viên tìm hiểu lí do, nếu nghỉ vì lý
do chính đáng nhưng không kịp viết đơn thì chấp nhận cho các em nộp đơn vào
ngày đi học sau đó.
Một điều cần chú ý trong khi xử lí các hành vi phạm của học sinh nữa là
phải tìm hiểu lý do dẫn đến những vi phạm của học sinh. Nếu cách xử lí không
phù hợp với lý do, trừ điểm mà các em không “tâm phục khẩu phục” sẽ dễ dẫn
đến thái độ bất mãn.
8


Ví dụ 1:lớp 9A có 1 học sinh thường xuyên đi học muộn. Qua tìm hiểu tôi biết

được rằng nhà của em ở xa trường,sức khoẻ rất yếu.
Ở trường hợp này nếu không biết lí do mà cứ trừ điểm liên tục thì đây là
một trong những nguyên nhân khiến các em chán học. Trong trường hợp này tôi
thường xuyên thông tin với phụ huynh và động viên em đi học sớm hơn những
em khác ,và hạ tiêu chí thi đua đối với em , đồng thời cử các bạn trong lớp ở gần
nhà em đến để cùng đi học,
Ngoài việc xếp thi đua theo thang điểm, lớp tôi còn có những quy định
riêng giành cho các em vi phạm nội quy, như phải làm vệ sinh phòng học, không
thuộc bài ở nhà thì cuối buổi phải ở lại học thuộc rồi mới về, …Tất cả các biện
pháp này đều áp dụng từ từ, điều quan trọng là áp dụng nó đúng lúc. Chính vì
vậy đã được các em ủng hộ.
2.3.2.Xây dựng “lớp học thân thiện, học sinh tích cực”.
Năm học 2008-2009, Bộ giáo dục và Đào tạo phát động phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kĩ năng sống cho học
sinh. Qua nhiều năm thực hiện, phong trào đã có sức lan tỏa mạnh mẽ cả chiều
sâu lẫn chiều rộng, mang lại hiệu quả thiết thực cho ngành giáo dục và cho xã
hội. Ngay từ năm đầu tiên Bộ phát động phong trào, tôi đã tích cực hưởng ứng.
Muốn phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở mỗi
trường đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên chủ nhiệm phải tích cực “xây dựng lớp học
thân thiện, học sinh tích cực”. Có nhiều “lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
thì mới có “trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
“Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra môi trường học tập thân thiện, an
toàn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh cảm thấy “mỗi ngày đến trường là
một ngày vui”. Xây dựng được “lớp học thân thiện” thì sẽ có “học sinh tích
cực”. Xây dựng được lớp học thân thiện, học sinh tích cực thì sẽ hạn chế được tỉ
lệ học sinh lưu ban, bỏ học, sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh.Công việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” được giáo
viên chủ nhiệm tiến hành từng bước như sau:
*Biện pháp xây dựng “Không gian thân thiện” trong lớp:

- Thống nhất cách trang trí lớp: (Trừ những phần cơ bản mà BGH đã quy định:

Ảnh Bác, 5 điều Bác Hồ dạy, trích thư của Bác..) Còn lại lớp tự trang trí theo ý
9


tưởng của các em như: Chia thành các khu vực, các tranh ảnh, khẩu hiệu trang trí
hợp lí không lòe loẹt, rườm rà. Có cả trang tin, góc học tập, trang bè bạn…
- Khơi dậy tinh thần tập thể, ý thức giữ gìn vệ sinh chung, tình cảm yêu
thương, gắn bó coi lớp học là nhà.
- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí theo nhóm, đôi bạn học tập, đặc điểm, sở thích… Đặc
biệt là sự dung hòa về lực học để tạo tính tích cực:
Ví dụ: Lớp tôi CN có 31 em, thường được chia 8 nhóm học tập (2 bàn 1 nhóm)
khi các thầy cô sử dụng kĩ thuật dạy học “hợp tác” để phát huy tính tích cực của
học sinh.

Nhóm học trong lớp học
Không thể đưa cây xanh vào trang trí lớp thì có thể tạo một không gian
xanh bên ngoài lớp: luôn xanh, sạch, đẹp đó là công trình măng non do lớp 9A
đảm nhận. Không cần chờ lịch bố trí, tự các em chăm sóc, bảo vệ bất cứ thời
điểm nào có thể một cách tự ý thức.

Học sinh chăm sóc bồn hoa
- Biện pháp xây dựng “Tình cảm thân thiện” :
+ Xây dựng mối quan hệ thầy- trò:
10


Giáo viên chủ nhiệm phải là chuyên gia tư vấn về tâm lý, là người định hướng
là chiếc gương soi về tư tưởng, đạo đức lối sống, luôn quan tâm đến từng học

sinh, yêu thương và cảm thông với các em nhất là những em có hoàn cảnh khó
khăn.
- Nếu có chuyện vui, buồn thì giáo viên chủ nhiệm phải khéo léo lôi cuốn
sự quan tâm của cả lớp, cùng nhau sẻ chia, cùng nhau giải quyết.
- Thực hiện các buổi trao đổi về tình bạn, giới tính, thể dục thể thao, về
học tập như 30 phút văn học, toán học… lồng ghép trong các tiêt sinh họat chủ
nhiệm, họat động ngoài giờ lên lớp.
- Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự
hình thành tính cách của các em. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú y đến cả cách
đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, chữ viết, thái độ,...để học trò noi theo. Không vì
bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua loa trước mặt học
sinh.
- Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót,Tôi luôn cố gắng kiềm chế và
tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp
đỡ các em sửa chữa , không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em.
Ở tuổi này, lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm tan
nát tâm hồn các em. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và
không bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em
học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là
do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các
lớp dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những
điều kiện khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh
phúc; đâu phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi
bước học tập.Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm mướn kiếm sống
hoặc vì ăn chơi cờ bạc hay ốm đau bệnh tật,...nên không ngó ngàng gì đến việc
học của con cái, thậm chí các em còn bị mắng chửi, bị đánh đập ... Những sóng
gió đó đã tác động đến tâm lí của các em, cản trở việc học tập của các em. Nếu
như giáo viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng
đùng, rồi la mắng, trừng phạt các em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy- trò

sau này. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không học bài,
làm bài, tôi không kết án trừng phạt ngay mà bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp
riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ nhàng
nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến nhà tìm hiểu
nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em.
- Hàng ngày,giáo viên chu nhiệm luôn khích lệ và biểu dương các em kịp
thời, khích lệ những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Cố
gắng tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng
trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục
và ngày càng hoàn thiện hơn.
11


- Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm
của học sinh, tôi luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một
người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy
trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao
dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa
học sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân
hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như
vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học.
* Xây dựng mối quan hệ bạn bè:
Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia
đình ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết
trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng
nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ (Học thầy không
tày học bạn). Nhưng trong thực tế, một lớp học thường xuất hiện nhiều nhóm
học trò, đặc biệt là những lớp cuối cấp. Có đôi khi các em chia bè phải, phân
biệt giàu nghèo, hay nói xấu hoặc châm chọc nhau. Những em nữ thì hay rỗi hay

hờn giận. Còn các em nam thì hay gây gỗ, mất đoàn kết. Tuy các em chưa gây ra
chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và
chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến
vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn bó thì sẽ xây
dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi trường học tập thân thiện. Từ
môi trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được
nâng cao.
Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng
giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự
hợp tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau:
Xây dựng: Nhóm bạn cùng tiến, đôi bạn cùng học: để giúp đỡ lẫn nhau.
Khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về việc làm,
cách cư xử của lớp trưởng, lớp phó hoặc của một bạn nào dó trong lớp chứ
không nói xấu, không xa lánh bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là
những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn
những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nẵm rõ đúng hay sai. Sau đó
mới góp y riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải sửa
chữa.
- Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, GVCN kịp thời can
thiệp không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn, gặp gỡ trao
đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó phân
tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hòa và
bắt tay nhau vui vẻ trở lại.
- Để tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ niệm sâu sắc
của tuổi học trò, GVCN tổ chức sinh nhật cho học sinh ngay tại lớp học trong
giờ ra SHTT. Những em có ngày sinh trùng vào ngày thứ bảy, chủ nhật thì sẽ
12


được tổ chức vào tiết sinh hoạt cuối tuần . Hình thức tổ chức chủ yếu chỉ là múa

hát, là những lời chúc mừng và một món quà nhỏ do lớp tặng; món quà nhỏ
khoảng vài chục ngàn đồng do tôi tặng các em . Xã tôi công tác là xã thuần
nông, gia đình học sinh chủ yếu làm nghề nông. Có rất nhiều em không nhớ
ngày sinh của mình. Bởi các em chưa bao giờ được bố, mẹ tổ chức sinh nhật,
chưa bao giờ được nhận một món quà mang ý nghĩa sâu sắc. Vì vậy, khi được cả
lớp tổ chức sinh nhật, nhiều em rất xúc động.Tôi thiết nghĩ với viêc làm nhỏ đó
nó cũng góp phần giúp các em có thêm động lực và thấy rằng" Mỗi ngày đến
trường là một ngày vui"
* Biện pháp xây dựng mối quan hệ “Hợp tác thân thiện và tích cực”:
* Giáo viên chủ nhiệm phải vững vàng , luôn chủ động và linh hoạt trong
hoạt động phối hợp với đồng nghiệp, trong việc cuốn hút học sinh tham gia các
họat động:
+ Phối hợp với GV bộ môn, với tổng phụ trách đội, sự quan tâm, ân cần
hướng dẫn từng thao tác của thầy cô giáo bộ môn đối với học sinh cũng rất cần
thiết, là động lực để các em thêm yêu trường,yêu lớp, học tiến bộ hơn.

Giờ học môn Toán và môn tin học

+ Phối hợp với Đoàn thanh niên trong nhà trường, Đoàn địa phương tổ
chức các hoạt động tập thể vào dịp hè, để nâng cao ý thức trách nhiệm và hình
thành trong các em lý tưởng sống cao cả của thanh niên trong thời kỳ hội nhập.
+ Phối hợp với các bậc cha mẹ học sinh để hiểu hơn về các em, thương
yêu các em như chính con của mình, nhưng phải nghiêm khắc, công bằng các
em mới nể phục.
*Trong biện pháp này tôi chú ý rèn luyện các kĩ năng sống cho học sinh:
+ Kỹ năng giao tiếp, ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống:
Kính trọng người lớn tuổi, gặp thầy cô hay bất kì người lớn nào cũng phải chào
hỏi tử tế, lịch sự… “Tiên học lễ, hậu học văn”
+ Kỹ năng làm việc và sinh họat theo nhóm: Kĩ năng sinh hoạt theo nhóm
trong thảo luận nhóm: tự giác, tích cực, có khoa học… giúp các em phát huy

tính tích cực trong học tập và công tác khác, tự khám phá kiến thức…
+ Kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và
tệ nạn xã hội: Ăn nói, đi đứng có ý tứ, lịch sự nhã nhặn, có văn hóa. Đoàn kết
tương thân, tương ái trong lớp, trong trường…không hút thuốc lá, gây gổ, hãy
hiểu bạn như hiểu mình.
13


Nếu học sinh có dấu hiệu mất đoàn kết thì GV phải biết và ngăn chặn ngay. Làm
sao để các em thấy dược “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
+ Kỹ năng rèn luyện sức khỏe, bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng - chống
tai nạn giao thông, đuối nước và tai nạn thường tình khác.
Ngoài ra GVCN còn chú ý giáo dục học sinh theo các chuẩn mực đạo đức
truyền thống của dân tộc, giáo dục ý thức tìm hiểu, chăm sóc, phát huy các di
tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương:
Tích cực tham gia công tác“đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”

Học sinh lao động chăm sóc khu di tích ở địa phương
Với những việc làm trên tôi thiết nghĩ các em sẽ thấy được việc đến
trường mỗi ngày là một ngày vui, là động lực để cuốn hút các em. Đó cũng là
nguyên nhân lớp chủ nhiệm của tôi không có hiện tượng học sinh bỏ giờ, bỏ tiết,
bỏ học.
2.3.3.Giáo dục giới tính lứa tuổi học sinh lớp 9.
Cuộc sống hoàn toàn không dễ dàng đối với trẻ vị thành niên, nhất là
trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt đối với những trẻ không được
chuẩn bị đầy đủ để đối mặt với các vấn đề đặc thù của lứa tuổi. Thực trạng hiện
nay đã và đang cho thấy điều đó. Nếu chúng ta mong đợi trẻ vị thành niên những
quyết định đúng đắn, có trách nhiệm trước những cạm bẫy và thách thức của xã
hội, chúng ta phải đảm bảo trẻ vị thành niên được cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ
năng và phương tiện để quyết định và các giá trị chúng cần tôn trọng và thực

hiện.
Ở giai đoạn dậy thì, các em phải trải qua những biến đổi to lớn về cơ thể
cũng như về tâm lí. Thậm chí có thể khiến các em bị khủng hoảng nếu không có
sự chuẩn bị về tâm lí, sự chỉ bảo của người lớn. Khi đó các em sẽ tự tìm hiểu, tự
thể nghiệm theo những thông tin trên sách báo, tivi, internet, …Tuy nhiên, các
nguồn thông tin này không được kiểm soát và thường chứa nhiều điểm đen, lệch
lạc. Điều này đã gây ra nhiều hậu quả đáng buồn như quan hệ tình dục quá sớm,
có thai khi còn ngồi trên ghế nhà trường, phá thai, bỏ học,…
Thạc sĩ tâm lý Đinh Đoàn, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học
về giới tính - gia đình - phụ nữ và vị thành niên đánh giá: “10, 11 tuổi là thời kỳ
tiền dậy thì, nên cung cấp những kiến thức như các em học sinh nữ thời gian tới
sẽ phải đón nhận hiện tượng kinh nguyệt như thế nào, để khoảng lớp 6, 7 khi có
kinh thì các em đã biết. Đối với học sinh nam 12, 13 tuổi thì khi phát triển hệ
14


lông hoặc tinh trùng thì các em không phải lo lắng. Các em nên ăn mặc thế nào,
ứng xử với các bạn khác giới ra sao... Còn quá trình thụ thai, trứng và tinh trùng
đã kết hợp với nhau như thế nào? Phụ nữ có thai nên và không nên làm gì? nên
dành cho học sinh tuổi 14, 15.”
Như vậy, căn cứ vào đặc điểm phát triển của lứa tuổi, tôi thiết nghĩ giáo
dục giới tính cần phải được coi trọng hơn , phải bằng nhiều hình thức khác nhau
và xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9 nhưng do giới hạn của đề tài nên tôi chỉ giáo
dục các nội dung tương ứng như sau:
Học sinh khối lớp 8, 9 (Độ tuổi 14 – 16)
Tôi chú trọng giáo dục học sinh phân biệt tình bạn và tình yêu, hiểu biết
sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu; hiểu biết những thất bại tâm lý và các
nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu quan hệ tình dục sớm, tảo hôn; giáo dục bạn
trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh biết tự kiềm chế để chứng
minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở; giáo dục kỹ năng phòng vệ

trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho
các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn
giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi
hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục.
- Tình bạn - Tình bạn khác giới - Tình yêu
- Tình bạn:Đối với học sinh lớp 9 tình cảm bạn bè phát triển mạnh mẽ và
có vai trò quan trọng. Tuổi trẻ thường có nhiều bạn và họ thích dành thời gian để
trò chuyện với bạn , cùng nhau chia ngọt sẻ bùi hoặc giúp nhau tự tin hơn động
viên nhau trong học tập và lao động. tình bạn có ý nghĩa quan trọng đối với mọi
người, già cũng như trẻ.
- Tình bạn khác giới:
Ở tuổi 14-16 tình bạn thường mạnh mẽ và thiên về cảm xúc. Tình bạn có
thể là giữa những người cùng giới và giữa những người khác giới. Nhiều người
là bạn tốt của những người khác ở cả hai giới. Tình bạn khác giới nhiều khi có
những giá trị riêng rất đặc biệt, khiến những người bạn cảm thấy mình may mắn
có những người bạn khác giới.
Tuy nhiên cũng có lúc tình bạn giữa hai người thường là hai người khác
giới , có thể vượt qua giới hạn tình bạn để không còn “ chỉ là tình bạn”. Tình bạn
đó chuyển thành thứ tình cảm có cảm xúc mãnh liệt , hấp dẫn, trở thành quan hệ
lãng mạn và có thể trở thành tình yêu. Điều này đặc biệt thường xảy ra ở các em
lứa tuổi này. Con trai con gái bỗng thấy tự ý thức về mình và thấy ngại ngùng
trước mặt người khác giới. Trong trường hợp đó, không biết nên ứng xử như thế
nào, nói gì và thế là nhìn người bạn của mình bằng con mắt khác ngảy trước.
- Tình yêu:Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt, nó biểu hiện sự cao đẹp
nhất của tình người ( lòng nhân ái), tình yêu làm con người trở nên thanh cao
hơn, nhân ái và giàu sức sáng tạo hơn. Mối tình đầu thường là giai đoạn quyết
liệt nhất trong đời người và nhiều bạn trẻ đến với mối tình đầu ở tuổi này. Nhiều
mối tình đầu đã phát triển thành tình yêu sâu sắc và đưa đến hôn nhân. Sonng
do đặc điểm còn bồng bột, chưa có kinh nghiệm trong cuộc sống, lại quá lý
15



tưởng hóa tình yêu, nên không ít mối tình đầu bị tan vỡ để lại những tổn thất về
tình cảm hoặc những hậu quả nặng nề, mất mát trong quan hệ yêu đương
buônng thả của các cặp trai gái.
Do vậy, nam nữ thanh niên cần hiểu được giá trị cao đẹp của tình yêu đối
với hạnh phúc cuả mỗi người, có thái độ trân trọng với tình yêu, trên cơ sở đó tự
xây dựng cho mình những hành vi đúng đắn, nghiêm túc khi bước vào lĩnh vực
này.
Để hiểu được bản chất của vấn đề tôi yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm
các câu hỏi sau:
- Nhóm 1: Tại sao các em cần có bạn ?
- Nhóm 2: Tình bạn khác giới là gì? Em có suy nghĩ gì về tình bạn khác giới?
- Nhóm 3: Trong quan hệ với bạn khác giới cần tránh những điều gì? Tình bạn
khác giới khác với tình yêu như thế nào?
- Nhóm 4: Ở tuổi các em đã nên yêu chưa ? Vì sao?
Các nhóm ghi lại ý kiến của nhóm lên bảng phụ.
Các nhóm treo bảng phụ kết quả thảo luận của nhóm mình trên bảng.
Giáo viên nhận xét kết quả thảo luận nhóm, tranh luận chung của lớp và nhấn
mạnh.
- Câu 1:Tình bạn là tình cảm gắn bó giữa hai hoặc một nhóm người vì
hợp nhau về tính tình, giống nhau về sở thích có chung một quan điểm sống lý
tưởng, ước mơ …
-Tình bạn có vai trò lớn trong đời sống của mỗi người đặc biệt là với
thanh thiếu niên.
Trong quan hệ bạn bè mỗi người có thể tự đánh giá, tự tìm hiểu bản thân
mình qua tương tác với những người bạn đồng thời dựa vào sự góp ý của bạn bè
mà tự phấn đấu giáo dục mình tiến bộ, tự hoàn thiện.
Tình bạn là một sức mạnh tinh thần to lớn động viên mỗi người trong tập
thể cùng nhau hoạt động, gánh vác chia sẻ, trong việc vươn tới ước mơ, hoài bão

lý tưởng của mình.
Tuy nhiên tình bạn lệch lạc có thể dẫn tới hành động xấu: bao che khuyết
điểm cho bạn bè, phái, chơi bời lêu lổng,….
- Cuối cùng giáo viên nêu lên những đặc điểm cơ bản của tình bạn tốt.
Có trách nhiệm lẫn nhau và giúp đỡ cùng nhau tiến bộ, bình đẳng và tôn trọng
nhau, chân thành tin cậy, thông cảm, đồng cảm sâu sắc với nhau.
Câu 2:Tình bạn khác giới là tình bạn giữa nam và nữ ( hoặc giữa nữ và
nam)
Tình bạn khác giới làm cho mỗi người tự hoàn thiện mình, làm tôn vẻ đẹp
của mỗi giới. tình bạn khác giới có thể chuyển thành tình yêu, song không nhất
thiết mọi tình bạn khác giới đều chuyển thành tình yêu.
Câu 3:Tình bạn khác với tình yêu là không có sự say mê về thể xác,
không ghen tuông khi bạn khác giới có người yêu.
- Tình cảm giữa hai người khác giới có thể chuyển thành thứ tình cảm có
cảm xúc mãnh liệt và hấp dẫn về giới tính để chuyển thành tình yêu.
16


- Trong quan hệ bạn bè khác giới cần tránh: Đối xử với nhau xuồng sã,
thiếu tế nhị,gán ghép lẫn nhau, ghen ghét nói xấu hay đối xử thô bạo, ngộ nhận
tình bạn khác giới là tình yêu, gây cho bạn khác giới hiểu nhầm là tình yêu.
Câu 4:Tuổi của các em chưa nên yêu vì có thể ảnh hưởng đến học tập,
tương lai, bản thân các em chưa có đủ năng lực kiểm soát tình cảm, suy nghĩ và
hành động.
- Mang thai sớm – Hậu quả và cách phòng tránh
Thế nào là mang thai sớm? Là trường hợp phụ nữ mang thai trước 18
tuổi.
Hậu quả của việc mang thai sớm? Việc mang thai sớm và sinh đẻ ở tuổi
vị thành niên sẽ gây nhiều hậu quả.Mang thai sớm ngoài ý muốn là điều kinh
hoàng cho cô gái trẻ vì thiếu hiểu biết. Bởi tình trạng nạo phá thai có thể dẫn đến

những biến chứng nghiên trọng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý của vị
thành niên. Việc mang thai sớm còn gây những vấn đề lớn về tài chính. Việc
mang thai sớm ở tuổi vị thành sẽ là gánh nặng cho xã hội như: nghèo đói, chất
lượng lao động, vấn đề về bình đẳng giới.
Cách phòng tránh
Chủ động phòng tránh: không đi chơi với bạn khác giới ở những nơi vắng
vẻ, vào buổi tối, không uống rượu bia, chất kích thích…hướng dẫn, tập huấn cho
học sinh mỹ năng từ chối…bằng các bài tập tình huống để học sinh lựa chọn
cách xử lý. Ví dụ: Tình huống 1: Em Hoàng Thị B (học sinh lớp 9) và em Lê
Văn A ( học sinh lớp 9) có “ yêu” nhau. Trong một lần đi chơi vào tối ngày
Noel, và em B có thai. Vì lo sợ, em giấu bố mẹ và phải nghỉ học khi thai lớn. Em
A cũng phải nghỉ học và làm đám cưới với B. Em có nhận xét gì về sự việc trên?
Theo em B sẽ gặp những khó khăn gì khi mang thai sớm?
+ Tình huống 2: Em Nguyễn Thị S đang học lớp 9. Nhưng bố mẹ bắt em
phải nghỉ học để cưới chồng – là một người T mới gặp một lần. Nếu là S, em sẽ
làm gì trong tình huống trên?
Sau khi từng nhóm làm bài tập xong. Mỗi nhóm cử đại diện để trình bày.
Các nhóm tranh luận.Giáo viên nhận xét câu trả lời của các nhóm. Hướng đến
cách nhìn nhận, ứng xử tích cực, đúng đắn.
+ Tình huống 1:A và B hành động nông nổi, thiếu suy nghĩ . Mặt khác,
giấu chuyện xảy ra với người lớn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Những khó
khăn B phải gặp khi mang thai sớm: phải nghỉ học; bản thân ở trong tâm trạng
hoang mang, căng thẳng, lo lắng; tương lai bị ảnh hưởng,kết hôn vội vàng và
có nguy cơ thất bại, dễ bị sảy thai, sức khỏe suy yếu, Đối với đứa con: nguy cơ
bị suy dinh dưỡng, tuổi thơ bất hạnh,…
+ Tình huống2:Nếu em là S: cần xác định rõ:
Việc cưới chồng sớm theo ý bố mẹ sẽ ảnh hưởng đến học tập và tương lai,
vi phạm pháp luật Hôn nhân và gia đình (tảohôn). S cần phân tích cho bố mẹ
thấy những điều sai và hậu quả của hành động đó. Nếu bố mẹ vẫn không thay
đổi ý kiến cần nói với thầy cô, chính quyền xã để vận động. Đây là một hủ tục

cần xóa bỏ ở địa phương.
17


Giáo viên kết luận:
- Ở lứa tuổi dậy thì các em đang trải qua những biến đổi về cơ thể, tâm lý
tình cảm sâu sắc. Tình bạn khác giới đem lại cho các em những cảm xúc, suy
nghĩ, sự mong nhớ niềm vui đồng thời băn khoăn lo lắng.
- Đối với các em chưa yêu, các em cần chuẩn bị trước tâm lý và kiến thức
để có khả năng nhận biết tình cảm của mình, có quyết định đúng đắn. Các em
nhớ rằng việc quan trọng nhất của các em trong giai đoạn này là học tập để
chuẩn bị cho tương lai, tình yêu có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến việc học.
- Đối với các em đã có bạn khác giới, các em cần tỉnh táo, sáng suốt chú
tâm học tập, biết tôn trọng và nghĩ đến tương lai của cả hai, cần tránh những tình
huống gây mất kiểm soát: đi chơi riêng ở những nơi vắng vẻ, vào buổi tối, …
- Các em cũng có rất nhiều thắc mắc không biết hỏi ai, không dám hỏi.
Hoặc khi hỏi, các em thường bị la rầy, hoặc người lớn né tránh không muốn trả
lời và cho rằng các em còn nhỏ, chưa cần biết. Các em có thể bị sợ la rầy cho
nên giữ im lặng không muốn hỏi. Điều này về lâu dài sẽ có hại cho các em.
- Các em cần nhớ rằng khi có thắc mắc, lo lắng, các em nên tìm người
chia sẻ và giúp đỡ. Các em cần được cung cấp các thông tin cần thiết để các em
có thể tự bảo vệ mình
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau thời gian tìm tòi, học hỏi và áp dụng biện pháp nói trên vào công tác
chủ nhiệm đã đạt được những kết quả rất khả quan được thể hiện trên các mặt đó
là:
2.4.1. Về học lực: Kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Đa số
học sinh qua các lớp chủ nhiệm đều thể hiện tinh thần ham học hỏi, ý thức vươn
lên trong học tập được thể hiện rõ rệt nhất là trong sự chuyển biến về nhu cầu
học tập của học sinh thuộc diện có lực học yếu và trung bình.

Kết quả xếp loại học lực học sinh lớp 9 qua các năm học:
Tæng
Trung
YÕu,
Giái
Kh¸
b×nh
kÐm
sè/Lớ
Năm học
p
%
%
%
SL
SL
SL
SL %
201331/8A 3
9,7 12
38,7 16
51, 0
0
2014
6
201431/9A 5
16,1 13
41,9 13
41, 0
0

2015
3
9
2.4.2. Về hạnh kiểm:Qua thực tiễn áp dụng các biện pháp chủ nhiệm nói trên.
Sự chuyển biến về hạnh kiểm của học sinh đã được thể hiện rõ nét qua các năm
làm công tác chủ nhiệm. Thể hiện qua sự chuyển biến về chất và lượng của hạnh
kiểm học sinh:
Kết quả xếp loại hạnh kiểm học sinh lớp 9 qua các năm học:
Tæng
Trung
Kh¸
YÕu
Tốt
b×nh
sè/Lớ
Năm học
p
%
%
%
SL
SL
SL
SL %
201331/8A 29
93, 2
6,5 0
0
0
0

18


2014
5
201431/9A
31
100 0
0
0
0
0
0
2015
2.4.3. Về các phong trào thi đua của tập thể lớp:
- Về văn nghệ: Tinh thần học sinh nhất là các học sinh có hạnh kiểm yếu
kém đã được khơi dậy và phát huy hăng hái tham gia các đội văn nghệ xung
kích của lớp. Các em đã có được sân chơi và rèn luyện kỹ năng sống và gắn bó
hơn với tập thể lớp.
- Về lao động – vệ sinh:
Qua việc áp dụng các biện pháp chủ nhiệm mà tinh thần lao động tự giác
của học sinh ngày càng tăng. Học sinh đã hiểu được ý nghĩa của việc tham gia
lao động vệ sinh và lao động giúp đỡ gia đình. Với đặc trưng là một miền quê
nông nghiệp nên học sinh đã tích cực tham gia lao động trợ giúp gia đình nhất là
đối với các em học sinh có tư tưởng ham chơi đã có nhiều thay đổi. Bên cạnh
đó, tập thể lớp đã đăng ký với liên đội và nhà trường đảm nhận chăm sóc công
trình măng non là hai bồn hoa của nhà trường đã được các em chăn sóc đầy đủ
cùng với các buổi lao động vệ sinh chăm sóc Đài tưởng niệm các anh hùng Liệt
sĩ được 15 buổi/năm.
- Về sự tiến bộ của học sinh yếu – kém:

Cùng với việc áp dụng các biện pháp chung cho cả lớp, các biện pháp
dành riêng quan tâm đến các em học sinh có lực học trung bình, yếu và hạnh
kiểm trung bình. Các em đã có nhiều tiến bộ với số lượng học sinh qua các năm:
Bảng thống kê theo dõi tiến bộ của học sinh yếu- kém qua các năm:
Hạnh
Năm học Họ và tên học sinh
Lớp
Học lực
kiểm
8A
Nguyễn Anh Tuấn
4,6 – Yếu Khá
20138A
Nguyễn Văn Quang
4,8 – Yếu Khá
2014
8A
Ninh Văn Tú
5,0 - TB
Tốt
9A
Nguyễn Anh Tuấn
5,2 - TB
Tốt
20149A
Nguyễn Văn Quang
5,6 – TB
Tốt
2015
9A

Ninh Văn Tú
5,7 - TB
Tốt
- Về khen thưởng:
Nhờ thực hiện các biện pháp nói trên mà liên tục nhiều năm làm công tác
chủ nhiệm lớp chủ nhiệm của tôi đã liên tục đạt được các danh hiệu tập thể lớp
tiên tiến.
Năm học

Lớp

Danh hiệu

Cấp khen thưởng

20132014
20142015

9A

Tập thể lớp tiên tiến

Cấp trường

9A

Tập thể lớp tiên tiến xuất sắc

Cấp trường
19



20142015

9A

Giấy khen của HĐĐ xã

Đoàn xã

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục cho học sinh phát
triển một cách toàn diện là vô cùng to lớn. Một công việc tưởng như đơn giản
song không hề dễ dàng, nó phức tạp và khó khăn rất nhiều. Năm học nào cũng
vậy, lớp học nào cũng thế đều có đủ các đối tượng học sinh. Nhiều học sinh đã
làm thầy cô chật vật. Nhưng bằng tình yêu thương của mình – Người giáo viên
chủ nhiệm phải nhiệt tình , tâm huyết sáng tạo và nên đặt lợi ích của tập thể lớp
lên trên hết, hãy phát huy những thế mạnh của lớp bằng tình yêu thương của
mình để đưa các em hoà vào thế giới tuổi thơ bằng tâm hồn trong sáng nhất.
Người giáo viên chủ nhiệm hãy xem tập thể lớp mình chủ nhiệm là một mái ấm
gia đình . Hãy là người chắp cánh cho ước mơ của em bay cao bay xa để các em
hoàn thiện và khẳng định mình xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
3.2. Kiến nghị:
+ Với các cấp quản lý giáo dục:
Với vai trò rất quan trọng của công tác chủ nhiệm là một trong những
khâu cùng với hoạt động chuyên môn của nhà trường là một trong những yếu tố
góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Vì vậy kính đề nghị với các cấp quản
lý giáo dục thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn các nội dung và chia sẻ kinh
nghiệm về công tác chủ nhiệm để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chủ

nhiệm trong các nhà trường.
+ Với nhà trường:
Cần có sự tập huấn chuyên đề, lựa chọn giáo viên có kinh nghiệm và có
chất lượng bố trí làm công tác chủ nhiệm để góp phần nâng cao hơn nữa chất
lượng chủ nhiệm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
+ Với đồng nghiệp làm công tác chủ nhiệm:
Rất mong được các đồng nghiệp chia sẻ thêm nhiều kinh nghiệm hơn nữa
và có sự đúc kết để công tác chủ nhiệm ngày càng nhẹ nhàng nhưng hiệu quả
ngày càng cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2016
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
Bùi Thị Nam
20


Trịnh Thị Chiến

21


MỤC LỤC
STT
1

2


3

1.MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
- Mục đích nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu

Trang
1-2
2
2
2

2.NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lí luận.

2
2.2. Thực trạng.
3
2.3. Những giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
3
2.3.1. Xây dựng lớp học dân chủ và kỷ luật.
4
*Xây dựng lớp học dân chủ.
4-7
*Xây dựng ý thức kỷ luật.
7-9
2.3.2.Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực

9
* Biện pháp xây dựng không gian thân thiện trong lớp
10-11
* Biện pháp xây dựng “Tình cảm thân thiện” :
11-13
* Biện pháp xây dựng mối quan hệ “Hợp tác thân thiện và tích 13-15
cực”:
2.3.3.Giáo dục giới tính lứa tuổi học sinh lớp 9.
15
* Tình bạn - Tình bạn khác giới - Tình yêu
16-18
*Mang thai sớm – Hậu quả và cách phòng tránh
18-19
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
20
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
20
- Kết luận.
- Kiến nghị.

22


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM
TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM HỌC SINH LỚP 9


Người thực hiện:Trịnh Thị Chiến
Chức vụ: giáo viên
Đơn vị công tác:Trường THCS Xuân Châu
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Chủ nhiệm

THANH HÓA NĂM 2016
23


24



×