Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THCS quang trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.97 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2. Thực trạng của vấn đề
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
4. Kết quả
Phần III: KÕt luËn vÀ ĐỀ XUẤT
Phần nhận xét, đánh giá của Hội đồng khoa học các
cấp

TRANG
2
2
2
3
5
15
15
16

1


NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP
Ở TRƯỜNG THCS QUANG TRUNG
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống tổ chức của các trường trung học cơ sở, yếu tố cơ bản để tổ


chức giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Xây dựng tập thể lớp vững
mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các trường trung học cơ sở, đó
cũng là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên chủ nhiệm. Mỗi tập thể lớp là nền
tảng vững chắc để xây dựng nhà trường vững mạnh, một tập thể tốt chắc chắn sẽ
có những học sinh tốt, những con người vừa có đủ cả “ đức” lẫn “ tài”. Như vậy
nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng nhất
định đến việc học tập cũng như rèn luyện nhân cách của học sinh, nâng cao chất
lượng giáo dục. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên chủ nhiệm lớp ở trường THCS Quang Trung”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả làm công tác chủ
nhiệm của giáo viên ở trường trung học cơ sở.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý trong công tác chủ nhiệm cho giáo viên ở trường
Trung học cơ sở Quang Trung.
PHẦN II
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Đối với giáo dục THCS, người giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò quan trọng
trong việc giáo dục học sinh. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm,
Giáo viên chủ nhiệm lớp trước hết phải là nhà giáo dục, là người tổ chức các
hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo
đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em.
Giáo viên chủ nhiệm lớp bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động
tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh.
Mặt khác, Giáo viên chủ nhiệm còn là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ
chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng
giáo dục,... Có thể nói vai trò xã hội của người giáo viên chủ nhiệm trở nên lớn
hơn nhiều so với chức năng của người giảng dạy bộ môn.
2



Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt Hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và
cha mẹ học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi
giáo viên chủ nhiệm vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá
nhân trong lớp về mọi phương diện: học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập
thể. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi
hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng
chương trình và kế hoạch của nhà trường. Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật chủ
đạo để hình thành nhân cách cho từng học sinh trong tập thể lớp.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối, là nhân vật trung gian thiết lập các mối
quan hệ hai chiều: Nhà trường – tập thể học sinh, tập thể học sinh – xã hội. Như
vậy, một mặt giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo
dục học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt
khác, giáo viên chủ nhiệm lớp phải làm cho quan hệ giữa tập thể học sinh với xã
hội trở nên gắn bó hơn.
Giáo viên chủ nhiệm xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị
vững mạnh, tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục của tập thể lớp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2. Thực trạng của vấn đề
Trường THCS Quang Trung đóng trên địa bàn phường Ba Đình, là một
phường nằm ở trung tâm Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Dân cư đông
đúc, chủ yếu phát triển kinh tế thương nghiệp với sự tham gia của các hộ kinh tế
nhỏ lẻ. Số lượng trẻ em đông là nguồn nhân lực bổ sung dồi dào cho lực lượng
nhân tài và lao động trong tương lai. Sự phát triển kinh tế, xã hội của cả nước
nói chung, trên địa phương Phường Ba Đình nói riêng trong những năm qua đã
tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, thu hút được sự tham gia tích cực hầu hết các cơ quan Đảng,
chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội. Mặt khác, đời sống kinh tế được cải
thiện đã khiến nhiều gia đình đầu tư cho cuộc sống sinh hoạt và học tập cho con

cháu. Công tác giáo dục của nhà trường luôn được sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc
của cấp uỷ, chính quyền địa phương, Phòng Giáo dục và các Ban ngành cấp
trên. Đặc biệt là sự quan tâm sâu sắc của các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường đã làm tốt công tác phối hợp giáo dục học sinh phát triển toàn diện.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn
gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và
kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho
nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học

3


sinh. Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình
thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo
viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian dành
cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã
hội. Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa
có một khoá đào tạo chính thức nào cho Giáo viên chủ nhiệm. Chính vì vậy,
không nhiều Giáo viên chủ nhiệm thực sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu
bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên
cạnh đó, số tiết dành cho Giáo viên chủ nhiệm còn quá ít, chỉ 4 tiết trên tuần,
chưa tương xứng công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến
nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình
giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục công dân,
giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển. Hơn
nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày
càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích
sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về
pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ

giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều.Tuy nhiên,
cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Một
bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy chiếm
nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu
sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có
phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có
người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách
máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực.
Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Thực tế,
nhiều khi giữa thầy cô chủ nhiệm và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được
tiếng nói chung.
Công tác chủ nhiệm đã được Ban giám hiệu và Phụ huynh quan tâm tạo
điều kiện khá tốt. Nhà trường đã không ngừng khắc phục khó khăn, luôn tìm ra
các giải pháp phù hợp với thực trạng của nhà trường để xây dựng đội ngũ giáo
viên chủ nhiệm lớp giỏi, tạo điều kiện cho học sinh tích cực phát triển toàn điện.
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện

4


3.1. Lựa chọn giáo viên chủ nhiệm: Từ những giáo viên có kinh
nghiệm giáo dục, có uy tín với học sinh, được Hội đồng giáo dục nhà trường
nhất trí phân công chủ nhiệm lớp học để thực hiện mục tiêu giáo dục. Cụ thể:
* Giáo viên chủ nhiệm lớp cần có lòng yêu nghề và tình thương yêu
học sinh:
Lòng yêu nghề: Người thầy phải thấy được tính có ích của nghề nghiệp,
nhận thấy được nét hay nét đẹp của nó; đó chính là việc người thầy được tiếp
xúc với học sinh- những con người trẻ trung, tràn đầy nhựa sống và ngày một
trưởng thành, trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Tình thương yêu học sinh: Sự vui sướng của người thầy khi được tiếp

xúc với học sinh, khi đi vào thế giới tâm hồn rất đặc biệt của các em; người thầy
thấy hạnh phúc vì khám phá ra những điều bí mật tiềm ẩn trong các em. Luôn
sẵn sàng sống trong niềm vui, nỗi buồn của các em. Quan tâm đầy thiện chí tới
học sinh, kể cả với em học kém và vô kỷ luật. Có tình thương với học
sinh…
* Giáo viên chủ nhiệm lớp cần có phẩm chất đạo đức tốt:
Tinh thần, nghĩa vụ, trách nhiệm: Người thầy đào tạo ra học sinh
nhưng chính là đào tạo ra những con người có tinh thần, nghĩa vụ, trách nhiệm
cao đối với xã hội, biết vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
Sự tôn trọng học sinh: Phải luôn coi học sinh là những chủ thể, những
nhân cách đang phát triển với đặc điểm riêng của lứa tuổi và người thầy phải
luôn luôn tôn trọng những đặc điểm ấy.
Sự công bằng: Đây là phẩm chất rất cần thiết với người giáo viên. Với
học sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ thì giáo viên như là biểu hiện sinh động về sự
công bằng và lẽ phải. Người thầy giáo phải xứng đáng với niềm tin này của trẻ.
Sự công bằng thể hiện trong mọi hoạt động nhưng thể hiện rõ nhất là trong sự
đánh giá của giáo viên.
Lòng trung thực: học sinh chỉ yêu quý và noi theo người mà các em tin
tưởng, các em không chịu đựng được sự giả dối, “tính cách hai mặt của người
thầy giáo làm các em sửng sốt, mất niềm tin và kông tiếp nhận sự giáo dục nữa”
(Gonobolin).
Đức tính giản dị, khiêm tốn: Là những đức tính cần thiết của con người
và của người giáo viên. Khiêm tốn sẽ giúp cho người thầy giáo đánh giá đúng
mình, giản dị sẽ giúp cho người thầy gần gũi với học sinh…
3.2. Bồi dưỡng nghiệp vụ làm công tác chủ nhiệm lớp

5



3.2.1 Xây dựng kế hoạch kế hoạch bồi dưỡng giáo viên chủ nhiệm
Xác định mục tiêu kế hoạch nhằm bồi dưỡng, các điều kiện thực hiện kế
hoạch: tài liệu tham khảo, mạng Internet, đối tượng học sinh, đội ngũ giáo viên,
thời gian đảm bảo thực hiện hoạch, kinh phí tổ chức các hoạt động bồi dưỡng.
Các biện pháp thực hiện kế hoạch.
3.2.2. Tổ chức cho giáo viên bồi dưỡng nghiệp vụ làm công tác chủ
nhiệm lớp cho giáo viên
Bước 1: Tổ chức cho giáo viên nghiên cứu các văn bản: Luật Giáo dục,
Điều lệ Trường Trung học, các tài liệu về công tác chủ nhiệm lớp.
Bước 2: Bồi dưỡng những biện pháp giúp người giáo viên thực hiện hiệu
quả công tác chủ nhiệm lớp:
Hiểu rõ tâm lý lứa tuổi học sinh THCS:
Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể.
Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Nhiều khó khăn trở ngại ở lứa tuổi này
chính là các em chưa biết đánh giá, chưa biết kìm hãm và hướng dẫn bản năng,
ham muốn của mình một cách đúng đắn, chưa biết kiểm tra tình cảm và hành vi,
chưa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa người bạn khác giới. Vì thế các
nhà giáo dục cần phải giúp đỡ các em một cách tế nhị, khéo léo để các em hiểu
đúng vấn đề, đừng làm cho các em băn khoan, lo ngại.
Ở lứa tuổi này địa vị các em trong gia đình đã được thay đổi, được gia
đình thừa nhận như một thành viên tích cực, được cha mẹ, anh chị giao cho
những những nhiệm vụ cụ thể như chăm sóc em nhỏ, nấu cơm, dọn dẹp nhà
cửa…, các em ý thức được các nhiệm vụ và thực hiện tích cực. Các em được
tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình.
Hoạt động học tập và các hoạt động khác của học sinh THCS có nhiều
thay đổi, có tác động quan trọng đến việc hình thành những đặc điểm tâm lý lứa
tuổi học sinh THCS như: Sự thay đổi về nội dung dạy học, thay đổi về phương
pháp dạy học và hình thức học tập. Tất cả những thay đổi đó là điều kiện rất
quan trọng làm cho hoạt động nhận thức và nhân cách của học sinh THCS có sự
thay đổi về chất so với các lứa tuổi trước.

Ở lứa tuổi này các en đã được xã hội thừa nhận như một thành viên tích
cực, được giao một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực khác nhau như:
tuyên tuyền cổ động, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương binh, tham
gia chăm sóc gia súc … Ở lứa tuổi này các em thích làm công tác xã hội vì: Các
em có sức lực, đã hiểu biết nhiều, muốn được mọi người thừa nhận; các em cho
rằng công tác xã hội là việc làm của người lớn và có ý nghĩa lớn lao; lứa tuổi

6


này các em thích làm những công việc mang tính tập thể, những công việc có
lien quan đến nhiều người và được nhiều người cùng tham gia. Do tham gia
công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh THCS được mở rộng, các em được
tiếp xúc với nhiều người, nhiều vấn đề của xã hội, do đó tầm hiểu biết được mở
rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú lên, nhân cách của các em được hình
thành và phát triển.
Thái độ đối với học tập của học sinh THCS cũng rất khác nhau. Tất cả các
em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ sự
biểu hiện rất khác nhau, được thể hiện như sau:
- Trong thái độ học tập: từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm, đến thái độ
lười biếng, thơ ơ thiếu trách nhiệm trong học tập.
- Trong sự hiểu biết chung: từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu biết
nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, nhưng ở một số em khác thì mức
độ phát triển rất yếu, tầm hiểu biết rất hạn chế.
- Trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập: từ chỗ có kỹ năng học tập
độc lập, có nhiều cách học đến mức hoàn toàn chưa có kỹ năng học tập độc lập,
chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng chữ.
- Trong hứng thú học tập: từ hứng thú biểu hiện rõ rệt đối với một lĩnh
vực tri thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn toàn
không có hứng thú nhận thức, cho việc học hoàn toàn gò ép, bắt buộc.

Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra, để giúp các em có thái độ đúng
đắn với việc học tập thì phải:
- Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học.
- Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu
rõ ý nghĩa của tài liệu học.
- Tài liệu phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập.
- Trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó.
- Phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp.
- Ở lứa tuổi này trí nhớ thay đổi về chất. Trí nhớ dần dần mang tính chất
của những quá trình được điều khiển, điều chỉnh và có tổ chức. Học sinh THCS
có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ, các em bắt đầu
biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Khi ghi nhớ các
em đã biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hoá, phân loại. Tốc độ
ghi nhớ và khối lượng tài liệu được ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày
càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở
nên tốt hơn, các em không muốn thuộc lòng mà muốn tái hiện bằng lời nói của

7


mình. Học sinh THCS có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn và mong
muốn người lớn quan hệ với nó một cách bình đẳng, không muốn người lớn coi
nó như trẻ con mà phải tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính
độc lập của các em.
Để duy trì sự thay đổi mối quan hệ giữa các em và người lớn, các em có
những hình thức chống cự, không phục tùng. Tuy nhiên không phải mọi người
lớn đều nhận thức được nhu cầu này của các em, nên điều này là nguyên nhân
dẫn đến sự xung đột giữa các em với người lớn.
Tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với người lớn
là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong sự giao tiếp của các em với người lớn

và trong sự giáo dục các em ở lứa tuổi này.
Những khó khăn đặc thù này có thể giải quyết, nếu người lớn và các em
xây dựng được mối quan hệ bạn bè, hoặc quan hệ có hình thức hợp tác trên cơ
sở tôn trọng, tin tưởng giúp đỡ lẫn nhau. Sự hợp tác này cho phép người lớn đặt
các em vào vị trí mới – vị trí của người giúp việc và người bạn trong những
công việc khác nhau, còn bản thân người lớn trở thành người mẫu mực và người
bạn tin cậy của các em.
Sự giao tiếp ở lứa tuổi học sinh THCS là một hoạt động đặc biệt, mà đối
tượng của hoạt động này là người khác – người bạn, người đồng chí. Nội dung
của hoạt động là sự xây dựng những quan hệ qua lại và những hành động trong
quan hệ đó. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các em nhận thức được người khác và
bản than mình; đồng thời qua đó làm phát triển mộtsố kỹ năng như kỹ năng so
sánh, phân tích, khái quát hành vi của bản thân và của bạn, làm phong phú thêm
những biểu tượng về nhân cách của bạn và của bản thân.
Đó chính là ý nghĩa to lớn của sự giao tiếp ở lứa tuổi này đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách. Vì thế làm công tác giáo dục phải tạo điều kiện để
các em giao tiếp với nhau, hướng dẫn và kiểm tra sự quan hệ của các em, tránh
tình trạng ngăn cấm, hạn chế sự giao tiếp của lứa tuổi này.
Về đặc điểm quan hệ giữa các em trai và các em gái ở lứa tuổi này: Có sự
thay đổi cơ bản so với lứa tuổi trước, các em đã bắt đầu quan tâm lẫn nhau, ưa
thích nhau và do đó quan tâm đến bề ngoài của mình. Lúc đầu sự quan tâm tới
giới khác, các em nam có tính chất tản mạn và biểu hiện còn trẻ con như xô đẩy,
trêu chọc các em gái … Các em gái rất bực và không hài lòng. Về sau những
quan hệ này được thay đổi, mất tính trực tiếp, xuất hiện tính ngượng ngùng, nhút
nhát, e thẹn, ở một số em điều đó được bộc lộ trực tiếp còn số khác thì được che

8


dấu bằng thái độ thơ ơ, giả tạo “khinh bỉ” đối với khác giới. Hành vi này mang

tính chất hai mặt: sự quan tâm đến nhau cùng tồn tại với sự phân biệt nam nữ.
Có nhiều học sinh lớp 8.9, đặc biệt là em gái hay để ý đến vấn đề ai yêu
ai, nhưng điều này rất bí mật, chỉ kể cho những người bạn rất thân thiết và tin
cậy. Ở học sinh lớp 6,7 tình bạn nam nữ ít nẩy sinh, nhưng các học sinh lớp 8,9
thì nẩy sinh thường xuyên, sự gắn bó hai bên rất thân thiết và nó giữ một vị trí
lớn trong cuộc sống của các em. Tất nhiên quan hệ nam nữ ở lứa tuổi này cũng
có thể lệch lạc. Quan hệ về bạn khác giới không đúng mực, đưa đến chỗ đua đòi
chơi bời, bỏ việc học tập và những công việc khác. Vì thế công tác giáo dục phải
thấy được điều đó, để hướng dẫn, uốn nắn cho tình bạn giữa nam và nữ thật lành
mạnh, trong sáng và nó là động lực để giúp nhau trong học tập, trong tu dưỡng.
Học sinh THCS bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến những
phẩm chất nhân cách của mình, các em có biểu hiện nhu cầu tự đánh giá, nhu
cầu so sánh mình với người khác. Các em bắt đầu xem xét mình, vạch cho mình
một nhân cách tương lai, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách của
mình.
Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức đã gây nhiều ấn tượng sâu
sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý của lứa tuổi này, đến hoạt động học tập, đến sự
hình thành quan hệ qua lại với mọi người.
Sự tự ý thức của lứa tuổi này được bắt đầu từ sự nhận thức hành vi của
mình, từ những hành vi riêng lẻ, đến toàn bộ hành vi và cuối cùng là nhận thức
về những phẩm chất đạo đức, tính cách và khả năng của mình.
Đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi này là mâu thuẩn giữa nhu
cầu tìm hiểu bản thân với kỹ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng đắn sự biểu lộ
của nhân cách.
Ý nghĩa quyết định để phát triển tự ý thức ở lứa tuổi học sinh THCS là
cuộc sống tập thể của các em, nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị đúng đắn, mối
quan hệ này sẽ hình thành ở các em lòng tự tin và sự tự đánh giá của mình.
Như vậy trên cơ sở phát triển tự ý thức và thái độ nhận thức thực tế, trên
cơ sở yêu cầu ngày càng cao đối với chúng, vị trí mới mẻ của các em trong tập
thể, đã làm nẩy sinh khát vọng tự tu dưỡng nhằm mục đích phát triển cho bản

than những nét tính cách tốt, khắc phục những nét tính cách lạc hậu, những
khuyết điểm, sai lầm của mình.
Tình cảm các em học sinh THCS sâu sắc và phức tạp. Điểm nổi bật ở lứa
tuổi này là dễ xúc động, dễ bị kích động, vui buồn chuyển hoá dễ dàng, tình cảm
còn mang tính bồng bột. Đặc điểm này là do ảnh hưởng của sự phát dục và sự

9


thay đổi một số cơ quan nội tạng gây nên.. Nhiều khi còn do hoạt động hệ thần
kinh không cân bằng, thường thì quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức
chế, đã khiến các em không tự kiềm chế được. Khi tham gia các hoạt động vui
chơi, học tập, lao động các em đều thể hiện tình cảm rõ rệt và mạnh mẽ. Đặc
biệt những lúc xem phim, xem kịch … các em có biểu hiện những xúc cảm rất
đa dạng, khi thì hồi hộp cảm động, khi thì phấn khởi vui tươi, có khi lại om sòm
la hét. Vì thế các nghệ sĩ cho rằng, các em lứa tuổi này là những khan giả ồn ào
nhất và cũng đáng biết ơn nhất.
Tính dễ kích động dẫn đến các em xúc động rất mạnh mẽ như vui quá
trớn, buồn ủ rủ, lúc thì quá hăng say, lúc thì quá chán nản. Nhiều em thay đổi rất
nhanh chóng và dễ dàng, có lúc đang vui chỉ vì một cái gì đó lại sinh ra buồn
ngay, hoặc đang buồn bực nhưng gặp một điều gì đó thích thú thì lại tươi cười
ngay. Do sự thay đổi tình cảm dễ dàng, nên trong tình cảm của của các em đôi
lúc mâu thuẫn.
Tóm lại, có thể nói tình cảm ở lứa tuổi này mang tính bồng bột, sôi nổi, dễ
bị kích động, dễ thay đổi, đôi khi còn mâu thuẫn. Tuy vậy, tình cảm các em đã
bắt đầu biết phục tùng lý trí, tình cảm đạo đức đã phát triển mạnh. Do vốn kinh
nghiệm trong cuộc sống của các em ngày càng phong phú, do thực tế tiếp xúc
hoạt động trong tập thể, trong xã hội, mà tính bộc phát trong tình cảm của các
em dần bị mất đi, nhường chỗ cho tình cảm có ý thức phát triển.
Hoàn cảnh xã hội cũng đã ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển t×nh cảm

của các em. Tình cảm bạn bè, tình đồng chí, tình tập thể ở lứa tuổi này cũng
được phát triển mạnh. Tình bạn của các em được hình thành trên cơ sở cùng học
tập, cùng sinh hoạt, cùng có hứng thú, sở thích như nhau. Các em đối với nhau
chân thành, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, cứu bạn lúc nguy
hiểm. Các em tin tưởng nhau, kể cho nhau nghe những câu chuyện thầm kín của
mình. Các em sống không thể xa bạn, thiếu bạn. Vì thế khi bị bạn phê bình, các
em cảm thấy khổ tâm, buồn phiền, đặc biệt những em bị bạn bè không chơi, tẩy
chay thì đó là một đòn tâm lý rất nặng, là một hình phạt rất nặng nề với các em.
Tìm hiểu, nắm bắt đối tượng học sinh: Ngay sau khi nhận lớp chủ
nhiệm, giáo viên cần tiến hành tìm hiểu, nắm bắt thông tin về đối tượng học sinh
lớp chủ nhiệm qua các kênh thông tin khác nhau:Điều tra qua học bạ năm học
trước của học sinh, qua giáo viên chủ nhiệm cũ; lập phiếu điều tra các thông tin
cá nhân; tiến hành phân loại học sinh…Sự phân loại và các thông tin trên là căn
cứ để lựa chọn học sinh có năng lực, nhiệt tình vào Ban cán sự lớp, BCH chi

10


đoàn; đồng thời cũng là cơ sở để đưa ra những biện pháp phù hợp trong việc
giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm.
Hoàn thiện tổ chức lớp: Cơ sở lựa chọn đội ngũ cán sự có thể căn cứ vào
hồ sơ học bạ của học sinh, căn cứ vào những thông tin cá nhân của học sinh mà
giáo viên chủ nhiệm đã thu thập được; căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp; sự
nhiệt tình, năng nổ, ý thức tổ chức kỷ luật, tính gương mẫu và các biểu hiện ban
đầu của học sinh trong tập thể lớp. Giáo viên chủ nhiệm cần phân công nhiệm
vụ cụ thể cho ban cán sự lớp. Giáo viên có thể phân thêm tổ phó, bàn trưởng (có
sự thay đổi luân phiên theo từng tháng để phát huy tốt vai trò tự quản của học
sinh. Xây dựng dựng đội ngũ tự quản là nền tảng cho công tác chủ nhiệm và
cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với giáo viên chủ nhiệm. Khi
đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cần bồi dưỡng học sinh ý

thức trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự phê
bình, phương pháp quản lý lớp. Mỗi tháng họp một lần để tổng kết rút kinh
nghiệm, giao kế hoạch nhiệm vụ tháng tới, mua sổ theo dõi. Mỗi tuần giao ban
một lần vào 15 phút sinh hoạt đầu giờ thứ 6 để thứ 7 có số liệu sinh hoạt và
khen, chê kịp thời. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cần
chú ý chọn đúng nguồn, tránh việc thay cán bộ lớp, không phó mặc việc lớp cho
đội ngũ cán bộ lớp.
Lập sơ đồ tổ chức lớp học: Khi sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh trong lớp,
giáo viên không nên quá áp đặt và cũng không đưa ra tiêu chí xếp nam, nữ ngồi
cạnh nhau. Có thể dựa trên các cơ sở: Tình trạng sức khỏe của học sinh; học lực
và căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp. Học sinh cần ngồi đúng theo sơ đồ
lớp học dưới sự giám sát của giáo viên bộ môn trong các tiết học, của bàn
trưởng, tổ trưởng… Giáo viên cần có sự điều chỉnh chỗ ngồi của học sinh kịp
thời nếu thấy sự bất hợp lí theo phản ánh của chính bản thân học sinh, cán sự
lớp, giáo viên bộ môn,…. ví dụ mất trật tự, không chú ý, nhận thức chậm.
Xây dựng tiêu chí thi đua cụ thể: Căn cứ vào đặc điểm tình hình lớp,
mỗi năm học, giáo viên nên lập tiêu trí thi đua, mục tiêu cụ thể, các giải pháp
thực hiện rồi công bố trước lớp được tập thể học sinh nhất trí tại cuộc họp lớp,
thông qua và xin ý kiến phụ huynh tại cuộc họp phụ huynh đầu năm. Sau đó
thống nhất, đưa ra cho tập thể lớp thực hiện, lấy đó làm cơ sở để xếp loại thi
đua. Có sự điều chỉnh và thay đổi, bổ sung kịp thời tùy theo tình hình thực hiện
nội quy, nề nếp và ý thức rèn luyện của học sinh. Đề ra định mức khen thưởng
và kỉ luật kịp thời thông qua cuộc họp phụ huynh đầu năm, giữa năm,...Nhận xét
đánh giá theo tuần, tháng…

11


Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp qua các tiết sinh hoạt 15’,
đầu tuần, cuối tuần: Cần tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khoá để các em

được tham gia vào hoạt động thực tiễn của cuộc sống, tạo cơ hội bộc lộ chân
thật những suy nghĩ, tình cảm, hành vi trong công việc, chia sẻ những khó khăn
và niềm vui cũng như hoàn thiện dần dần các kĩ năng thực hành một cách tự
nhiên. Từ đây, tính ích kỷ cá nhân, ngại khó, vụng về, rụt rè sợ sệt sẽ nhường
chỗ cho lòng bao dung, sự tự tin, dũng cảm, tháo vát, nhanh nhẹn, khéo léo, tinh
tế, hoà đồng và thân thiện. Nội dung hoạt động cũng khá đa dạng như: hội trại,
thể thao, văn nghệ, tham quan bảo tàng và danh lam thắng cảnh; chăm sóc di
tích cách mạng, văn hoá lịch sử; trò chơi tập thể, câu lạc bộ xanh; thi phòng
tránh tai nạn giao thông, diễn thuyết tranh luận về bảo vệ môi trường, quyền trẻ
em, xử lý tình huống khẩn cấp… Có thể tổ chức theo lớp, khối, toàn trường hoặc
từng nhóm nhỏ và chú ý xác định rõ kĩ năng sống cần đạt được cho học sinh sau
mỗi hoạt động. Nên để cho học sinh viết lại, nói lại những điều mà các em cảm
thấy thú vị và bổ ích nhất.
Các hoạt động vui học, rèn kỹ năng sống (Kỹ năng quan hệ: giao tiếp, hợp
tác, giải quyết xung đột, chấp nhận sự khác biệt; Kỹ năng quan tâm: quan tâm
đến người khác, chia sẻ, đồng cảm, nuôi dưỡng quan hệ); Nhóm kỹ năng tác
động đến “cái đầu” (Kỹ năng tư duy, kỹ năng quản lý); nhóm kỹ năng sống với
mục tiêu tác động đến “ sức khỏe” bao gồm: kỹ năng sinh tồn, kỹ năng xây dựng
hình ảnh bản thân; nhóm kỹ năng sống với mục tiêu tác động đến “ đôi tay” để
học sinh có cơ hội được thể hiện mình, học sinh trao đổi ước mơ, hoài bão, định
hướng nghề nghiệp, hoặc tìm hiểu về gương người tốt, việc tốt nhất là các tấm
gương vượt khó vươn lên trong học tập...
Kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn: Giáo viên chủ nhiệm thường
xuyên tập hợp ý kiến của đồng nghiệp về lớp mình, lớp bạn; trao đổi trực tiếp
với đồng nghiệp về những vấn đề cụ thể của lớp để cùng đưa ra giải pháp giáo
dục thống nhất; đề xuất các ý kiến của tập thể học sinh về công tác dạy và học
với giáo viên có liên quan...
Kết hợp với Chi hội cha mẹ học sinh, gia đình học sinh: Tổ chức và
thực hiện tốt các kỳ họp phụ huynh học sinh do nhà trường đề ra. Đi thăm trao
đổi trực tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại với gia đình học sinh khi cần thiết. Mời

phụ huynh học sinh đến trường trao đổi về việc giáo dục học sinh khi có những
hiện tượng bất thường và khẩn cấp. Liên hệ thường xuyên với Ban chấp hành
Hội phụ huynh học sinh để tích cực hóa các hoạt động của hội phụ huynh học
sinh trong công tác giáo dục. Mỗi chủ điểm sinh hoạt trọng tâm mời Chi hội

12


trưởng Hội phụ huynh học sinh dự buổi sinh hoạt ngoại khóa. Thiết lập mối
quan hệ giữa nhà trường và gia đình qua sổ liên lạc và qua điện thoại. Cung cấp
cho phụ huynh số điện thoại của giáo viên chủ nhiệm để phụ huynh tiện liên hệ
khi cần thiết.
Kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể: Giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt
được kế hoạch của nhà trường, Đoàn thanh niên để phối hợp và phổ biến kịp
thời đến học sinh. Thường xuyên động viên, đôn đốc nhắc nhở các em tham gia
tốt các hoạt động đoàn thể, phong trào thi đua do đoàn thể phát động. Thường
xuyên động viên, đôn đốc nhắc nhở các em thực hiện tốt các các nội quy, quy
định mà ban nề nếp của trường đề ra.
Giáo dục học sinh cá biệt
Trong một lớp học bao giờ cũng có học sinh ngoan ngoãn, học sinh
nghịch ngợm, cá biệt. Do đó tìm hiểu nắm vững từng đối tượng học sinh sẽ giúp
GVCN có biện pháp giáo dục tốt sẽ là động lực để xây dựng được tập thể lớp
vững mạnh. Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu lý lịch, tính cách học sinh, tìm
hiểu điểm yếu của học sinh. Kết hợp với giáo viên bộ môn, nhà trường, gia đình.
Giáo viên chủ nhiệm không được nóng vội, uốn nắn dần, khi đưa ra tập thể lớp
không nói nhiều, khi gặp riêng không được chì trích mà nhẹ nhàng tâm sự và
phân tích. Giao cho học sinh cá biệt một số việc và sau đó phải động viên
khuyến khích kịp thời những việc em làm tốt. Lập kế hoạch cho cán sự lớp để
thành lập các đôi bạn cùng tiến. Luôn thông báo kịp thời các thông tin về học
sinh với gia đình và ngược lại.

Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu lý lịch, tính cách học sinh, tìm hiểu điểm
yếu, thế mạnh của những học sinh này. Kết hợp với giáo viên bộ môn, nhà
trường, gia đình trong hoạt động giáo dục. Giáo viên không nên nóng vội mà
phải kiên trì uốn nắn dần; giao cho học sinh cá biệt một số việc phù hợp với
năng lực; sau đó động viên khuyến khích kịp thời những việc làm tốt.
Nhà trường sẽ tăng cường bồi dưỡng về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
giúp các đồng chí giáo viên hiểu rõ vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp: giáo
viên chủ nhiệm là cầu nối, người giữ mối liên lạc thường xuyên giữa các lực
lượng giáo dục trong nhà trường với gia đình và các tổ chức xã hội khác. giáo
viên chủ nhiệm là người góp phần quyết định sự thành công hay thất bại trong
công tác giáo dục nhà trường. giáo viên chủ nhiệm là người thực hiện nhiệm vụ
quản lý và giáo dục học sinh. giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt và đại diện
cho quyền lợi chính đáng của tập thể học sinh, thay mặt tập thể học sinh giải
quyết một số vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ hợp lý của các em.

13


3.2.3. Tổ chức hội thi giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp trường
Mục đích: Tuyển chọn, công nhận giáo viên đạt danh hiệu giáo viên chủ
nhiệm giỏi trong nhà trường, tạo điều kiện để giáo viên thể hiện năng lực, học
tập, trao đổi kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp; Phát hiện, tuyên dương và
nhân rộng những điển hình tiên tiến, góp phần tạo động lực nâng cao chất lượng
giáo dục của trường, góp phần thu hút sự quan tâm của các lực lượng xã hội
tham gia giáo dục học sinh; Góp phần đánh giá thực trạng năng lực, nghiệp vụ
sư phạm của đội ngũ, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng
cao năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục.
Nội dung bình bầu: Mức độ hoàn thành nhiệm vụ công tác chủ nhiệm
của giáo viên theo quy định thể hiện ở các thành tích đạt được và sự tiến bộ của

lớp chủ nhiệm; Sáng kiến kinh nghiệm hoặc sản phẩm nghiên cứu khoa học sư
phạm ứng dụng đã triển khai có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục học sinh trong công tác chủ nhiệm; Thành tích trong công tác chống bỏ học,
giáo dục đạo đức học sinh nói chung và giáo dục học sinh cá biệt nói riêng; Giải
pháp và kết quả trong việc phối hợp các lực lượng gia đình và xã hội tham gia
giáo dục học sinh; Sự tín nhiệm của học sinh lớp chủ nhiệm, cha mẹ học sinh và
các tổ chức, cá nhân có liên quan trong nhà trường (các giáo viên bộ môn, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh).
3.2.4. Bình xét thi đua:
Ngay từ đầu năm học, Hội đồng thi đua khen thưởng xây dựng dự thảo
tiêu chí đánh giá xếp loại giáo viên chủ nhiệm; Trong tiêu chí thi đua nêu rõ: đối
với giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp một trong những điều kiện để đạt danh
hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở phải được xếp loại giáo viên chủ nhiệm giỏi. Dự thảo
tiêu chí thi đua được đem ra hội nghị cán bộ, công chức, viên chức thảo luận.
Khi tiêu chí thi đua được thông qua mỗi cán bộ, công chức, viên chức đều cảm
thấy đó là ý chí, nguyện vọng của mình. Các cá nhân đăng ký thi đua từ đầu năm
học. Để bình xét thi đua công bằng, chính xác, cần tiến hành theo dõi hoạt động
của giáo viên chủ nhiệm theo phương thức 3 bên: Ban giám hiệu, tổ chủ nhiệm,
Đoàn thanh niên và Đội Thiếu niên. Các bộ phận theo dõi gửi kết quả đến
trưởng ban thi đua thông báo tại kỳ giao ban đầu tuần; Tổ trưởng các tổ dự giao
ban nắm bắt tình hình thông báo lại đến tổ viên để họ kịp thời phát huy ưu điểm,
khắc phục nhược điểm. Gắn liền với công tác thi đua là chế độ khen thưởng;
khen thưởng là một hình thức biểu hiện của phương pháp kinh tế trong quản lý
giáo dục nhằm mục đích động viên, khuyến khích mọi người làm việc tốt hơn.

14


Điều kiện thực hiện: Có đội ngũ chuyên gia sư phạm giỏi. Hiệu trưởng
điều hành mối quan hệ phối hợp giữa tổ trưởng tổ chủ nhiệm, Hội đồng thi đua

khen thưởng, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên trong đánh giá giáo viên chủ
nhiệm; Sử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá công bằng, hợp lý.
4. Kết quả
Qua thực tế thực hiện các giải pháp trên đạt được kết quả: Có 100% giáo viên
chủ nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
PHẦN IV
KÕt luËn vÀ ĐỀ XUẤT
Trong những năm gần đây ngành giáo dục chúng ta hiện nay đang trên
đà chuyển biến với chiều hướng tích cực đồng hành cùng với sự vươn lên cùng
với sự phát triển của xã hội. Bởi vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm là một việc làm rất cần thiết đối với người quản lí trường học là làm thế
nào cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, có
kiến thức vững vàng trong giảng dạy và chủ nhiệm để đáp ứng được nhu
cầu phát triển của đất nước hiện nay. Qua quá trình quản lý tôi rút ra những biện
pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp. Tôi rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí để đề tài của tôi đạt kết quả cao hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 02 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người thực hiện

Bùi Thị Thu Thủy

15


PHẦN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP

16



×