Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học và tham gia cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học đạt hiệu quả cao tại trường THCS tam lư huyện quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.39 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang
MỤC LỤC
1
1. MỞ ĐẦU
2
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
2.1. Cơ sở lí luận:
4
2.2. Thực trạng các biện pháp chỉ đạo NCKH và tham gia Cuộc thi
5
KHKT dành cho học sinh trung học tại các trường trên địa bàn
huyện Quan Sơn.
2.3. Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động NCKH và tham gia Cuộc
6
thi KHKT dành cho học sinh trung học tại trường THCS Tam Lư
huyện Quan Sơn:
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
15
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
16
3.1. Kết luận.
16
3.2. Kiến nghị.
17
PHỤ LỤC
i
Phụ lục 1. Danh sách dự án, tập thể và cá nhân đạt giải Cuộc thi
KHKT dành cho học sinh trung học cấp huyện lần thứ nhất năm học
2015-2016.
Phụ lục 2. Hình ảnh Poster dự án của Trường THCS Tam Lư tham
ii
dự vòng chung kết cấp Tỉnh năm học 2015-2016.
Phụ lục 3. Giấy chứng nhận Dự án của trường THCS Tam Lư đạt
iii
giải cấp Tỉnh năm học 2015-2016.

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến


thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Để thực
hiện tốt mục tiêu Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngay từ năm học 2012-2013 Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã chỉ đạo, tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học và Cuộc

thi sáng tạo khoa học kỹ thuật các cấp dành cho học sinh trung học nhằm khyến
khích học sinh trung học sáng tạo kỹ thuật, công nghệ và vận dụng kiến thức của
các môn học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Đồng thời, qua đó góp phần
đổi mới hình thức tổ chức dạy học; đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá
kết quả học tập; phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; thúc đẩy giáo viên
tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; nâng cao chất lượng dạy
học trong các cơ sở giáo dục trung học. Những sản phẩm, hay dự án có triển vọng
áp dụng vào thực tế sẽ được các cơ sở nghiên cứu khoa học bảo trợ tạo cơ hội để
học sinh trung học giới thiệu kết quả nghiên cứu KHKT của mình; tăng cường
trao đổi, giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các địa phương và hội nhập quốc tế.
Hiện nay chúng ta đang sống trong thế kỉ của nền kinh tế tri thức với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, hơn bao giờ hết khoa học kỹ thuật và
công nghệ biểu hiện như là nguồn lực cơ bản nhất, như là “chìa khóa” của sự phát
triển kinh tế xã hội. Kế thừa tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh về vai trò của
khoa học kỹ thuật và lấy đó làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng chiến lược
phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ mới, tại Đại hội lần thứ IX Đảng ta
tiếp tục khẳng định: “Cùng với giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”. Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ sẽ tiếp
thêm sức mạnh, chắp cánh cho đất nước ta trên con đường phát triển, vươn lên
''sánh vai với các cường quốc năm châu'' như ước nguyện của Người.
Trên thực tế, nghiên cứu khoa học vẫn còn là một hoạt động khá mới mẻ và
khó với học sinh các trường trung học cả nước nói chung và trên địa bàn các
huyện miền núi, vùng sâu vùng xa như huyện Quan Sơn nói riêng. Hầu hết các em
đều rất bỡ ngỡ, nhưng khi nhà trường triển khai, tổ chức các hoạt động rộng khắp
trên phạm vi toàn trường thì hầu hết học sinh rất tự tin, chủ động khám phá tìm
tòi. Bởi theo tôi, khi các em thi học sinh giỏi các môn văn hoá là học sinh làm
theo ý tưởng của người khác, không có tương tác, còn nghiên cứu khoa học hay
tham gia Cuộc thi khoa học kỹ thuật thì ý tưởng là của các em, vận dụng kiến thức
để thực hiện ý tưởng cũng là do các em. Các em được tương tác, được thực hiện

trọn vẹn cả quá trình sáng tạo đó, các thầy cô giáo, các nhà khoa học (nếu có) chỉ
đóng vai trò hướng dẫn, cố vấn, bảo trợ mà thôi. Làm được như vậy sẽ giải quyết
được mối quan hệ giữa lý thuyết với thực hành một cách tích cực nhất, khơi nguồn
sáng tạo vô tận hay chí ít giúp các em có những tích lũy quý giá trong hành trình
sáng tạo khoa học kỹ thuật sau nay.
Với mong muốn góp phần cùng lãnh đạo các nhà trường trung học trên địa
bàn huyện Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa áp dụng sáng tạo, vận dụng linh hoạt nhiều
giải pháp, chỉ đạo có hiệu quả các hoạt động nghiên cứu khoa học và tham gia
Cuộc thi khoa học kỹ thuật tại các trường trung học hiện đang được Bộ Giáo dục


và Đào tạo quan tâm chỉ đạo tổ chức. Chính vì vậy cá nhân tôi lựa chọn đề tài:
“Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học và tham gia Cuộc thi
khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học đạt hiệu quả cao tại trường THCS
Tam Lư huyện Quan Sơn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trước hết, nghiên cứu đề tài này cá nhân tôi mong muốn cùng lãnh đạo các
nhà trường tìm ra biện pháp lãnh chỉ đạo nhằm đảm bảo hiệu quả, nâng cao chất
lượng hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh tại các trường Trung học, tham
gia tích cực cuộc thi khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, nhằm xác định các cơ sở
lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, đề tài rút ra kết luận khái quát về các biện pháp
chỉ đạo, góp phần tích cực đổi mới giáo dục phổ thông. Đây cũng là cơ sở thực
tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt, hình thành nhân cách cho các
em trong tương lai.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng chủ yếu mà đề tài này nghiên cứu là xác định các biện pháp chỉ
đạo có hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu khoa học, tích cực tham gia cuộc thi
khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học đáp ứng yêu cầu của đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục trong xu thế hội nhập.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn, bao gồm: Phương pháp quan sát;
Phương pháp trao đổi, phỏng vấn giáo viên bộ môn; Phương pháp điều tra;
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp phân tích, xử lý tài liệu.
- Phương pháp thống kê toán.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:
2.1.1. Một số khái niệm có liên quan:
- Nghiên cứu khoa học (NCKH): Là quá trình nhận thức khoa học, là hoạt
động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm ra một
cách chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến hoặc biết


chưa đầy đủ, tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới về nhận thức hoặc
phương pháp.
- Sáng chế: Là một giải pháp kỹ thuật mới về nguyên lý kỹ thuật, tính sáng
tạo và áp dụng được. Sáng chế có khả năng áp dụng nên có ý nghĩa thương mại,
được cấp bằng sáng chế độc quyền (patent), có thể mua bán bằng sáng chế, cấp
giấy phép sử dụng (licence) v à được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
- Khoa học kỹ thuật (KHKT):
+ Khoa học là hệ thống các kiến thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và
tư duy dựa trên những phương pháp được xác định để thu nhận kiến thức.
+ Kỹ thuật: thông thường được hiểu là toàn bộ các thiết bị, phương tiện,
máy móc và công cụ vật chất nằm trong tư liệu sản xuất để quản lý, khai thác, bảo
quản và chế tạo các sản phẩm dùng cho sản xuất và thỏa mãn các nhu cầu của đời
sống xã hội.
2.1.2. Cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học:
- Là cuộc thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức trên phạm vi toàn quốc,

được bắt đầu từ năm học 2012-2013. Cuộc thi dành cho các cơ sở giáo dục có học
sinh trung học cơ sở, học sinh trung học phổ thông (gọi tắt là học sinh trung học)
và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Mục đích của cuộc thi được xác định:
+ Khuyến khích học sinh trung học nghi ên cứu, sáng tạo khoa học,
công nghệ, kỹ thuật và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề
thực tiễn cuộc sống;
+ Góp phần thúc đẩy đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy
học; đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng
lực học sinh; nâng cao chất lượng dạy học trong các cơ sở giáo dục trung học;
+ Khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, cơ sở nghiên cứu, các
tổ chức và cá nhân hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của học sinh
trung học;
+ Tạo cơ hội để học sinh trung học giới thiệu kết quả nghiên cứu khoa học
kỹ thuật của mình; tăng cường trao đổi, giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các địa
phương và hội nhập quốc tế.
2.1.3. Các quy định về tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học
sinh trung học:
- Quy chế thi nghiên cứu khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia học sinh
trung học cơ sở và trung học phổ thông (Ban hành kèm Thông tư số
38/2012/TTBGDĐT, ngày 02 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo);
- Công văn số 3162/BGDĐT-GDTrH ngày 24/6/2015 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo hướng dẫn triển khai hoạt động NCKH và tổ chức Cuộc thi KHKT cấp quốc gia
cho học sinh trung học năm học 2015-2016;
- Công văn số 1135B /SGDĐT-GDTrH, ngày 25/6/2015 của Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh Hóa hướng dẫn triển khai hoạt động NCKH và tổ chức Cuộc thi
KHKT dành cho học sinh trung học năm học 2015 -2016;



- Công văn số 259/PGD&ĐT ngày 04/8/2015 của Phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện Quan Sơn hướng dẫn triển khai hoạt động NCKH dành cho học sinh trung
học năm học 2015 -2016.
2.2. Thực trạng các biện pháp chỉ đạo NCKH và tham gia Cuộc thi
KHKT dành cho học sinh trung học tại các trường trên địa bàn huyện Quan
Sơn.
2.2.1. Thực trạng chung:
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế thi NCKH và tổ chức Cuộc thi
KHKT cho học sinh trung học ngay từ năm học 2012-2013, tuy nhiên vì nhiều lí
do khác nhau đến những năm gần đây, đặc biệt là năm học 2015-2016 ngành Giáo
dục và Đào tạo huyện Quan Sơn mới phát động phong trào NCKH và tổ chức
Cuộc thi KHKT cấp huyện, tuyển chọn dự án tham gia cấp tỉnh. Việc nghiên cứu
khoa học kỹ thuật của học sinh trung học từ trước tới năm 2012 đã có nhưng mới
dừng lại ở các ý tưởng sáng tạo, về cơ bản vẫn là trên lý thuyết. Các trường trung
học trên địa bàn huyện Quan Sơn hầu như chưa được tiếp cận với hoạt động
nghiên cứu khoa học này. Tháng 10 năm 2015 phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức
vòng chung kết cuộc thi cấp huyện, số lượng và chất lượng các đề tài tham dự
Cuộc thi nhiều và chất lượng, đã đáp ứng được nhu cầu cần có một sân chơi khoa
học lý thú, hấp dẫn, đồng thời có tác động tích cực đến phong trào NCKH trong
các nhà trường. Kỹ năng học tập, làm việc nhóm, lập luận, trình bày…của học
sinh được cải thiện, góp phần thúc đẩy việc thay đổi phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hiện nay; tạo sân chơi mới lý thú, bổ ích, hấp dẫn; bồi dưỡng cho
học sinh kể cả giáo viên kỹ năng phương pháp NCKH; hỗ trợ tích cực cho hoạt
động chuyên môn trong nhà trường, giúp học sinh biết vận dụng kiến thức trong
sách vở vào giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống, làm quen sớm với NCKH.
Cuộc thi còn góp phần đưa giáo dục hội nhập tốt hơn và giúp chúng ta nhận rõ
hơn điểm yếu của học sinh từ đó có hướng bồi dưỡng, hỗ trợ; là cơ hội huy động
sự quan tâm, tham gia mạnh mẽ từ các tổ chức xã hội, các cơ sở NCKH, các
doanh nghiệp… đối với các trường phổ thông.
Dù mới là những bước đi ban đầu với vô vàn những khó khăn nhưng hoạt

động nghiên cứu khoa học đã thu hút được nhiều học sinh trong nhà trường quan
tâm và tham gia. Nhiều học sinh cảm thấy hứng thú, say mê và thực hiện nghiêm
túc. Nhiều đề tài nghiên cứu có những tìm tòi mới mẻ, sáng tạo thể hiện khả năng
và mong muốn được chinh phục những đỉnh cao của tri thức. Phạm vi nghiên cứu
trên nhiều lĩnh vực song chủ yếu là các lĩnh vực như: Kỹ thuật điện và cơ khí;
khoa học môi trường; Hoá sinh; Khoa học máy tính; Kỹ thuật vật liệu và công
nghệ sinh học...
Tuy nhiên, với góc nhìn của một cán bộ quản lí giáo dục cá nhân tôi nhận
thấy rằng tỷ lệ học sinh tham gia sân chơi sáng tạo, nghiên cứu khoa học kỹ thuật
ở các trường phổ thông trên địa bàn huyện Quan Sơn còn hạn chế. Tại Cuộc thi
năm 2015 của huyện có 12 đề tài của 8 trường tham gia vòng chung khảo và đạt
giải (Phụ lục 1), trong khi đó cả huyện có trên 2000 học sinh với 16 trường trung
học (14 THCS, 2 THPT) cùng đội ngũ giáo viên gần 500 người; kết quả thi cấp
tỉnh của huyện Quan Sơn vỏn vẹn đạt 3 giải (2 giải Khuyến khích, 1 giải Ba).


Điều này cho thấy, kết quả đạt được vẫn chưa thể hiện hết sự miệt mài, chăm chỉ,
trí thông minh, sáng tạo của học sinh huyện Quan Sơn, sự phát triển của phong
trào NCKH chưa đều khắp giữa các các giữa các trường và chưa thật sự bền vững.
2.2.1. Nguyên nhân:
Nhận thức của cán bộ quản lí, giáo viên, phụ huynh, học sinh các nhà
trường chưa được đầy đủ về vai trò của nghiên cứu khoa học đối với việc đổi mới
giáo dục theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh dẫn tới
“đầu tư” chưa thỏa đáng, chưa hiệu quả. Việc này đã làm sai lệch động cơ nghiên
cứu của các em và vô hình chung làm cho học sinh có nhận thức không đúng đắn
về hoạt động nghiên cứu khoa học.
Do ảnh hưởng của thực trạng nền giáo dục hiện tại quá đặt năng việc học và
thi cử, phần lớn các em tập trung việc học là chính, trong khi một số trường chưa
thật quan tâm và xem công tác NCKH là nền tảng góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học. Chế độ chính sách chưa đủ sức thu hút giáo viên, học sinh tham gia

NCKH; các trường chưa có chiến lược cho việc hình thành và phát triển phong
trào NCKH của học sinh.
Việc “nhóm lửa” - phát huy khả năng khám phá, tư duy độc lập, sáng tạo và
NCKH ở học sinh phổ thông còn nhiều hạn chế, rào cản. Số lượng, chất lượng các
đề tài chưa phát huy tiềm năng trí tuệ, sáng tạo của học sinh, một số học sinh chưa
hứng thú với NCKH, thậm chí một số ít em được phỏng vấn vẫn còn chưa biết đến
sân chơi khoa học bổ ích này tạo ra là cho mình (cho rằng sân chơi này là của đội
học sinh giỏi và của giáo viên). Học sinh vẫn còn gặp khó khăn trong xác định ý
tưởng, lựa chọn đề tài và thời gian giành cho NCKH. Chính vì vậy, hàm lượng
khoa học chưa cao, chưa đáp ứng với những vấn đề xã hội quan tâm.
Ngoài ra, một số giáo viên còn hạn chế về kỹ năng, phương pháp NCKH từ
đó dẫn đến tâm lý ngại hướng dẫn NCKH cho học sinh, thiếu niềm tin vào công
tác NCKH của các em; Thiếu các cơ chế, chính sách tạo động lực và nguồn tài
chính hỗ trợ cho hoạt động NCKH của học sinh; Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các
trường chưa đáp ứng cho hoạt động NCKH; Tâm lý một số phụ huynh không
muốn cho con em mình tham gia hoạt động NCKH vì e sợ sẽ ảnh hưởng đến kết
quả học tập nên thiếu sự ủng hộ và động viên khuyến khích.
2.3. Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động NCKH và tham gia Cuộc thi
KHKT dành cho học sinh trung học tại trường THCS Tam Lư huyện Quan
Sơn:
2.3.1. Chỉ đạo tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức:
Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên, phụ huynh, học sinh,
các tổ chức chính trị, doanh nghiệp trên địa bàn xã về mục đích, ý nghĩa, kế hoạch
của hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và Cuộc thi khoa học kỹ thuật dành
cho học sinh trung học nói riêng bằng nhiều hình thức sinh động phong phú.
Sau khi đã lựa chọn nội dung kế hoạch, mục đích, ý nghĩa của NCKH và
Cuộc thi KHKT thì việc sử dụng các hình thức và biện pháp một cách linh hoạt là
yếu tố quan trọng góp phần tạo nên hiệu quả thiết thực trong công tác tuyên
truyền.
Cá nhân tôi đã chỉ đạo lựa chọn các hình thức tuyên truyền cụ thể sau:



- Thông qua các cuộc họp, hội nghị.
- Thông qua hệ thông phát thanh tại các thôn bản trên địa bàn xã.
- Thông qua các hội thi (lồng ghép các câu hỏi tích hợp có nội dung về
NCKH và Cuộc thi KHKT).
- Thông qua các góc trưng bày tại phòng truyền thống, góc tuyên truyền trên
sân trường.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên thành những tuyên truyền viên.
Qua các hình thức tuyên truyền này giúp học sinh biết vận dụng kiến thức
trong sách vở vào giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống, làm quen với nghiên
cứu khoa học. Tạo ra sân chơi bổ ích, trí tuệ và khoa học cho học sinh phổ
thông. Thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học của giáo viên và học sinh trong
nhà trường. Góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất
lượng giáo dục. Đông thời là cơ hội để tác động đến toàn xã hội, huy động sự
tham gia mạnh mẽ từ các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu
khoa học… đối với nhà trường.
2.3.2. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch năm học của nhà trường, của các tổ
chuyên môn gắn liền với kế hoạch hoạt động NCKH và Cuộc thi KHKT
Ngay từ đầu năm học nhà trường chú trọng xây dựng kế hoạch hoạt động
NCKH và Cuộc thi KHKT trong kế hoạch chỉ đạo tổng thể hoạt động của nhà
trường. Đồng thời chỉ đạo các tổ bộ môn có kế hoạch cụ thể chi tiết trên cơ sở
phân công các thành viên phụ trách hoạt động NCKH nói chung, theo từng lĩnh
vực NCKH tương ứng nói riêng.
Nhà trường tổ chức thảo luận để ban hành một số văn bản hướng dẫn cụ thể
dựa trên các hướng dẫn của Bộ, của Sở về nghiên cứu khoa học và Cuộc thi
KHKT các cấp.
Tổ chức học tập và nghiên cứu quy chế thi khoa học kỹ thuật cho giáo viên
và học sinh. Tổ chức tập huấn về nghiên cứu khoa học và các giai đoạn của Cuộc
KHKT.

Dự trù, phân bố kinh phí cho công tác NCKH và Cuộc thi KHKT với tư cách
một hoạt động thường niên, song song với hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi các
môn văn hoá. Bởi hoạt động NCKH và Cuộc thi KHKT có nhu cầu kinh phí lớn,
nếu lãnh đạo nhà trường thiếu sự chỉ đạo ưu tiên kinh phí, hoặc chưa huy động hết
các nguồn lực tài chính nhằm mục đích chú trọng hoạt động NCKH và Cuộc thi
KHKT chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn, chí ít sẽ bị động, lúng túng.
2.3.3. Thành lập Ban chỉ đạo và Hội đồng khoa học trường theo hướng
dẫn để xây dựng kế hoạch, triển khai đầy đủ các hoạt động NCKH và tổ chức
Cuộc thi KHKT:
Thành phần Ban chỉ đạo, Hội đồng khoa học cấp trường do hiệu trưởng nhà
trường ra quyết định thành lập, bao gồm 01 lãnh đạo nhà trường, giáo viên có
chuyên môn thuộc lĩnh vực của dự án nghiên cứu theo kinh nghiệm của tôi có thể
mời thêm một số nhà khoa học, chuyên gia có sẵn trên địa bàn khi cần thiết (ví dụ
có thể mời thêm cán bộ Nông trường, Kiểm lâm… đối với dự án liên quan đến bảo
tồn hệ sinh thái rừng).
Ví dụ:


- Đề tài “Máy cắt nứa vầu đa năng” của em học sinh Vi Quốc Việt đạt giải
Ba cấp tỉnh, nhà trường đã mời ông chủ xưởng cơ khí Xuân Phương đóng trên địa
bàn bản Hậu xã Tam Lư tham gia Hội đồng khoa học cùng nhà trường.
- Đề tài “Phương pháp ươm cây vầu kiểu mới đem lại hiệu quả kinh tế
cao” của em Hà Phạm Tố Uyên, mời ông Vi Văn Tăm- nguyên kỹ sư Lâm trường
Na Mèo về hưu.
Sự vào cuộc, chung tay, sẵn sàng tham gia các hoạt động NCKH và Cuộc thi
KHKT của các đội ngũ chuyên gia, những người am hiểu về các lĩnh vực liên
quan đề tài dự án của học sinh đã giúp cho việc triển khai rất hiệu quả, ít có sự sai
lầm, thiếu sót, lãng phí kinh phí trong quá trình đầu tư dự án của nhà trường.
Hội đồng khoa học cấp trường có trách nhiệm thẩm định và
cấp phép triển khai dự án nghiên cứu khoa học. Chỉ những dự án nghiên cứu

được cấp phép của Hội đồng khoa học cấp trường mới được triển khai thực hiện.
Việc thẩm định, cấp phép cho dự án nghiên cứu phải căn cứ và Quy chế thi
KHKT cấp quốc gia và văn bản hướng dẫn khác của Cuộc thi để đảm bảo dự án
đảm bảo đúng quy định.
Khi xem xét dự án nghiên cứu cần lưu ý:
- Kế hoạch nghiên cứu cần rõ ràng, cụ thể và khả thi;
- Ưu tiên những dự án có ý tưởng độc đáo, sáng tạo;
- Dự án nghiên cứu phải thuộc 17 lĩnh vực của cuộc thi và không thuộc các
dự án bị cấm (mầm bệnh, hóa chất độc hại, ảnh hưởng đến môi trường...), an toàn
cho học sinh nghiên cứu;
- Học sinh lớp 8-9 có hạnh kiểm và học lực ở học kì I từ loại khá trở lên;
- Mỗi học sinh tham gia 01 dự án; dự án tập thể có không quá 03 thành viên.
- Mỗi người hướng dẫn khoa học chỉ hướng dẫn đồng thời tối đa 02 dự
án;
Ban chỉ đạo, Hội đồng khoa học nhà trường cần cập nhật các quy định theo
văn bản hướng dẫn hằng năm của Bộ và Sở, tránh những vướng mắc phát sinh vi
phạm quy định trong quá trình tổ chức thực hiện sau này.
2.3.4. Chỉ đạo phân công giáo viên hướng dẫn theo năng lực, sở trường,
chuyên môn đào tạo thuộc các lĩnh vực quy định:
Ban chỉ đạo cần giao nhiệm vụ cụ thể cho các tổ bộ môn và giáo viên chủ
nhiệm hướng dẫn và giúp đỡ học sinh. Yêu cầu giáo viên bộ môn thuộc lĩnh vực
định hướng những vấn đề thời sự, những vấn đề nảy sinh trong thực tế, bàn bạc,
trao đổi với học sinh trong các khoảng thời gian phù hợp.
Giáo viên hướng dẫn sẽ giúp đỡ học sinh hình thành ý tưởng cho việc
lựa chọn đề tài. Theo quy chế của Cuộc thi KHKT, mỗi dự án nghiên cứu của học
sinh phải có ít nhất 01người hướng dẫn nghiên cứu. Người hướng dẫn nghiên cứu
phải thường xuyên liên lạc, theo dõi quá trình nghiên cứu của học sinh để đảm bảo
việc nghiên cứu đúng hướng. Tuy nhiên, vì dự án nghiên cứu thường có chuyên
môn sâu và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên khi giáo viên là người
hướng dẫn nghiên cứu thì cần mời các nhà khoa học, chuyên gia tham gia là người

hướng dẫn nghiên cứu thứ 2, thứ 3... hoặc là cố vấn khoa học cho dự án khi cần
thiết.


Với chủ chương triển khai hoạt động NCKH bền vững, nên Hội đồng khoa
học nhà trường cần sử dụng tối đa đội ngũ giáo viên của nhà trường để hướng dẫn
học sinh NCKH. Chọn giáo viên nhiệt tình, có nhiều kinh nghiệm và có năng lực
chuyên môn về lĩnh vực liên quan đến dự án của học sinh, đặc biệt là những giáo
viên say mê NCKH, đã hướng dẫn học sinh NCKH đạt giải, đã tham gia nghiên
cứu khoa học (có đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, tham gia các đề
tài nghiên cứu khác, giáo viên là Thạc sĩ, Tiến sĩ...) hay những giáo viên có tích
cực, say mê trong tìm tòi, cải tiến kĩ thuật, công nghệ.
Từ thực tế chỉ đạo của trường THCS Tam Lư thời gian qua, theo chúng tôi
các nhà trường có thể khai thác thêm nguồn lực KHKT từ cha mẹ, anh, chị của
học sinh để có được các nhà khoa học, chuyên gia hướng dẫn học sinh nghiên cứu.
Trong giai đoạn đầu triển khai NCKH ở trường trung học, theo cá nhân tôi nhiều
đơn vị còn chưa có kinh nghiệm, nhân lực KHKT của nhà trường còn hạn chế,
trong điều kiện như vậy thì việc mời nhà khoa học, chuyên gia khoa học bên ngoài
nhà trường để hướng dẫn khoa học là cần thiết và đảm bảo cho việc NCKH bài
bản, đúng phương pháp và có chiều sâu. Việc mời nhà khoa học hướng dẫn
NCKH cho học sinh cũng là một cơ hội tốt để cán bộ, giáo viên của nhà trường
học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nâng cao trình độ NCKH đề dần dần có thể tự
hướng dẫn học sinh của mình.
Ví dụ:
- Đề tài “Thùng lọc nước cho người dân vùng lũ” của em Hà Mạnh Quang
thuộc lĩnh vực Công nghệ sinh học, nhà trường đã phân công thầy giáo Lê Văn
Cường (CĐSP Hóa Sinh) hướng dẫn.
- Đề tài “Máy cắt nứa vầu đa năng” của em học sinh Vi Quốc Việt thuộc lĩnh
vực Kỹ thuật điện và cơ khí nhà trường phân công thầy giáo Đào Khả Trường
(ĐHSP Vật lí) hướng dẫn.

- Đề tài “Nạn tảo hôn lứa tuổi trung học - Thực trạng và giải pháp” thuộc lĩnh
vực Khoa học xã hội nhà trường phân công cô giáo Nguyễn Thị Kim Anh (ĐHSP
Tâm lí- GDCD)
2.3.5. Chỉ đạo tổ chức Hội thảo, sinh hoạt chuyên môn xác định yêu cầu
NCKH phù hợp với hoạt động giáo dục của nhà trường:
- Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học phù hợp với thực tế hoạt động của
nhà trường, với chương trình; không gây quá tải, nặng nề làm ảnh hưởng xấu đến
việc học tập và rèn luyện của học sinh nói chung.
- Kích thích được sự say mê hứng thú cho học sinh, tạo động lực thúc
đẩy học tập.
- Giao nhiệm vụ cho các tổ trưởng chuyên môn chỉ đạo theo từng lĩnh vực
tương ứng. Phát huy được vai trò của giáo viên bộ môn, tổ chuyên môn và các tổ
chức đoàn thể trong, ngoài nhà trường trong hoạt động tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ
nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh.
- Sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn trước kia của trường THCS Tam Lư thường
có các nội dung sinh hoạt tập trung trao vào việc trao đổi chuyên môn nghiệp vụ,
đổi mới phương pháp dạy học, góp ý giờ dạy, ứng dụng công nghệ thông tin... Thì
nay, với nhiệm vụ NCKH và Cuộc thi KHKT được triển khai sâu rộng trong nhà


trường, các tổ nhóm chuyên môn dưới sự chỉ đạo và quản lí trực tiếp của các phó
hiệu trưởng đã tập trung chú trọng vào các vấn đề cơ bản của NCKH và Cuộc thi
KHKT như ý tưởng đề tài; tính hiệu quả, thiết thực của đề tài; thời gian nghiên
cứu; cách thức tiến hành… Tại buổi sinh hoạt chuyên môn, các tổ nhóm sẽ trao
đổi, thảo luận, huy động đầy đủ được ý kiến tập thể của đông đảo cán bộ giáo viên
trong trường về các ý tưởng hay các đề tài của các em đang theo đuổi, dự định.
2.3.6. Chỉ đạo tổ chức thi chọn ý tưởng sáng tạo:
Để có được những ý tưởng nghiên cứu có tính mới mẻ, sáng
tạo và có tính khả thi cao nhà trường đã chỉ đạo tổ chức các hoạt
động sau đây để giúp học sinh có được ý tưởng NCKH:

- Tổ chức Cuộc thi thuyết minh “Ý tưởng khoa học” cho học
sinh trong trường; với điều kiện của một trường chuẩn quốc gia
có phòng Truyền thống rộng rãi chúng tôi đã kết hợp bố trí sắp
xếp có đủ không gian để tổ chức Tuần lễ triển lãm ý tưởng. Các
trường chưa có phòng Truyền thống riêng biệt có thể tổ chức tại
các góc tuyên truyền trên sân trường.
- Mở chuyên mục và diễn đàn về NCKH-KT trên trang Web của
nhà trường hoặc tham gia diễn đàn về NCKH-KT trên Internet.
- Giáo viên trao đổi với học sinh về những vấn đề thời sự,
khoa học, những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn và khuyến khích
các em suy nghĩ, trao đổi, đặt câu hỏi về những tình huống, sự
kiện diễn ra trong thực tế cuộc sống để tìm hiểu, xác định vấn đề
cần tìm tòi, khám phá.
- Giáo viên trao đổi trong tổ bộ môn về các ý tưởng nghiên
cứu, những đề xuất cải tiến.
- Tổ chức cho học sinh tham quan, đi thực địa, dã ngoại, quan
sát thực tế.
Ví dụ: Để học sinh có những ý tưởng và dự án liên quan quá
trình cải tiến các máy chế biến lâm sản trên địa bàn xã Tam Lư,
nhà trường đã tạo điều kiện, phối hợp với các xưởng chế biến tại
các bản gần gũi trên địa bàn giúp các em có những tiếp xúc trực
tiếp, tìm hiểu nguyên lí cấu tạo của hệ thống các máy móc:
xưởng chế biến tăm, mành (bản Hậu, bản Piềng Khóe); xưởng chế
biến đũa (bản Hát, bản Muống); xưởng chế biến gỗ dân dụng, gỗ
cốt pha (bản Sại); xưởng cơ khí Phương Xuân (bản Hậu)…
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu các bài báo trên báo Đội, công
trình khoa học, trao đổi với nhà khoa học, chuyên gia, các cơ sở
sản xuất trên địa bàn (Trạm kiểm lâm, Nông trường Na Mèo,
Trung tâm y tế dự phòng, Bệnh viện Đa khoa, Trạm khuyến
nông…) để tìm ra những vấn đề cần nghiên cứu, cải tiến.

- Gắn kết với cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải
quyết các vấn đề thực tiễn để có thêm các ý tưởng cho dự án
nghiên cứu.


- Giáo viên tổ chức trao đổi, thảo luận trong giờ sinh hoạt lớp, ngoại khóa…
để định hướng hình thành ý tưởng về dự án nghiên cứu cho học sinh.
- Sau khi học sinh đăng ký đề tài, nhà trường tổ chức cuộc thi ý tưởng
sáng tạo.
Có một thực tế, trong quá trình tổ chức thi tuyển, tìm kiếm ý tưởng, chúng tôi
thấy rằng các nhà trường hãy khuyến khích các em xây dựng các đề tài nghiên cứu
xuất phát từ chính suy nghĩ của các em, điều này sẽ đem lại nhiều điều lý thú đôi
khi là thành công bất ngờ. Và như vậy sẽ đạt được mục đích là các em sẽ năng
động hơn, tích cực và sáng tạo hơn.
2.3.7. Chỉ đạo tổ chức Đăng ký đề tài:
Sau khi học sinh có ý tưởng cụ thể nhờ quá trình tìm hiểu, bước đầu nghiên
cứu, nhà trường đã định hướng giúp các em Đăng ký đề tài dựa trên một số những
nội dung cơ bản sau:
- Gợi ý chọn đề tài:
+ Đề tài thuộc các lĩnh vực đã quy định;
+ Đề tài có tính mới và tính sáng tạo, thực tiễn, có khả năng ứng dụng
rộng được đánh giá cao;
+ Đề tài phải mang tính nghiên cứu;
- Yêu cầu nội dung đề tài:
+ Thể hiện ý tưởng và tư duy sáng tạo của học sinh;
+ Có kế hoạch nghiên cứu rõ ràng;
+ Cách thức tiến hành nghiên cứu chặt chẽ, sáng tạo;
+ Đưa ra được những kết luận mang tính khoa học và thực tiễn.
2.3.8. Tổ chức chỉ đạo duyệt đề cương các dự án theo kế hoạch
Sau khi học sinh được thầy cô phụ trách hướng dẫn xây dựng dự án, bước

tiếp theo nhà trường chỉ đạo các tổ chuyên môn phân theo lĩnh vực tương ứng góp
ý và Hội đồng khoa học duyệt đề cương các dự án nhằm đảm bảo đúng tiến độ,
điều chỉnh, xử lí các vấn đề phát sinh (nếu có). Hội đồng khoa học trong quá trình
duyệt đề cương đã chú ý những vấn đề cụ thể sau:
- Về tính khoa học, tính khả thi của đề tài.
- Qua việc đánh giá chính xác tính khả thi của đề tài, hội đồng khoa học
sẽ quyết định chọn những đề tài nào đưa vào thực hiện.
- Từ đó nhà trường có thể chủ động trong việc bố trí kinh phí và các
điều kiện khác để học sinh tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo của đề tài.
Qua thực tế việc chỉ đạo duyệt đề cương cho các dự án của nhà trường,
chúng tôi nhận thấy hoạt động này sẽ giúp các em hạn chế thấp nhất được các sai
lầm vốn có cuả NCKH, một số lớn các đề tài “chệch hướng”, hoặc mới chỉ dừng
lại từ những ý tưởng và nguyện vọng, đôi khi có thể là ý tưởng khá lớn nhưng các
em chưa có đủ thời gian, kiến thức và các điều kiện cần thiết để thực hiện ý tưởng
của mình. Nếu các em tiếp tục nghiên cứu kết quả chưa thật rõ và đôi khi kết luận
còn mang tính chủ quan.
2.3.9. Chỉ đạo triển khai dự án theo kế hoạch:


Sau khi đã có ý tưởng nghiên cứu và có người hướng dẫn nghiên cứu, giáo
viên hướng dẫn nghiên cứu hướng dẫn học sinh lập kế hoạch triển khai dự án
nghiên cứu khoa học.
Trước tiên, cần làm rõ ràng ý tưởng nghiên cứu và xác định những mục tiêu
chính, những nội dung chính của dự án nghiên cứu. Sau khi đã có ý tưởng rõ ràng
về dự án nghiên cứu việc tiếp theo là lập kế hoạch thực hiện bao các phần việc
chính, nhằm quản lí tốt quỹ thời gian cũng như kiểm soát được tiến độ thực hiện
một cách khoa học. Kế hoạch có vai trò như sợi chỉ dẫn đường, có tính linh động
và dễ dàng điều chỉnh chứ không phải là bất di bất dịch.
Những phần việc chính của dự án bao gồm: Tìm hiểu thực trạng, viết đề
cương nghiên cứu, triển khai dự án, viết báo cáo và trình bày bảo vệ kết quả

nghiên cứu.
Khi lập kế hoạch cần tính toán khối lượng công việc, phân bổ khung thời
gian cho mỗi phần việc, tính toán chi phí, dự kiến trang thiết bị thí nghiệm, cơ sở
vật chất.
Kế hoạch cần chi tiết và có phân công rõ ràng (đặc biệt là với dự án tập thể);
Cần lưu ý đến các yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến tiến độ nghiên cứu
như đối tượng nghiên cứu, phương tiện nghiên cứu...
Việc triển khai dự án nghiên cứu được tiến hành sau khi đã được hội đồng
thẩm định khoa học cấp trường cấp phép. Người hướng dẫn nghiên cứu, người
bảo trợ (nếu có) phải bảo đảm an toàn cho học sinh trong quá trình nghiên cứu;
phải liên lạc thường xuyên với học sinh trong quá trình nghiên cứu. Người hướng
dẫn khoa học, người bảo trợ chịu trách nhiệm về việc đảm bảo học sinh thực hiện
nghiên cứu đúng quy định của cuộc thi, của nghiên cứu khoa học, của pháp luật...
Trong quá trình triển khai nghiên cứu, nhà trường đã mời thêm người hướng
dẫn, bảo trợ, giám sát khi cần thiết. Người hướng dẫn khoa học đã hướng dẫn học
sinh ghi chép, viết báo cáo và trình bày dự án NCKH-KT của mình. Nhà trường
đã chủ động tổ chức hội thảo KHKT của học sinh, giáo viên. Từ đó, học sinh có
cơ hội rèn luyện kĩ năng trình bày báo cáo khoa học. Tạo điều kiện giúp học sinh,
giáo viên (hướng dẫn khoa học) tham gia các hội thảo, hội nghị khoa học, trao đổi
giao lưu với nhà khoa học, chuyên gia để nhận được sự phản biện, học hỏi phương
pháp, kinh nghiệm nghiên cứu KHKT, kinh nghiệm hướng dẫn NCKH, quản lý
NCKH.
Tập hợp các thí sinh đăng kí dự thi và mời chuyên gia khoa học đến tập huấn
phương pháp NCKH và truyền lửa đam mê nghiên cứu cho các em; lập hội học
sinh nghiên cứu, diễn đàn nghiên cứu trên web để trao đổi, giải đáp thắc mắc, khó
khăn cho học sinh nghiên cứu. Định kỳ yêu cầu học sinh báo cáo để đánh giá quá
trình nghiên cứu, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và kịp thời khắc phục
những sai sót hoặc “chệch hướng” nghiên cứu.
Có một điều quan trọng trong quá trình chỉ đạo hướng dẫn nghiên cứu, chúng
tôi thấy rằng, người hướng dẫn cần lưu ý hướng dẫn từng giai đoạn một, đồng thời

kiểm tra liên tục để điều chỉnh hướng nghiên cứu khi cần thiết. Cần lưu ý sâu sát
các khâu như:


- Hướng dẫn chọn mẫu, viết phiếu điều tra, lấy phiếu điều tra, ghi chép số
liệu, ghi kết quả thực nghiệm...
- Giúp liên hệ phòng thí nghiệm, theo dõi và giúp đỡ trong quá trình thực
nghiệm, đảm bảo an toàn khi thực hiện các thí nghiệm;
- Hướng dẫn thí sinh thu thập đầy đủ các số liệu, tài liệu;
- Hướng dẫn học sinh viết báo cáo đề tài, viết tóm tắt, chuẩn bị gian trưng
bày (bắt buộc theo qui định), chuẩn bị bài trình bày, tác phong trình bày, trả lời
phỏng vấn (tập luyện cho học sinh)...
- Yêu cầu học sinh cần lưu ý đến từng chi tiết nhỏ, thể hiện tư duy của học
sinh, nghiêm túc, cần cù, tỉ mỉ.
- Luôn hướng đến kiểm thử giả thuyết đã đặt ra và kết quả, số liệu nghiên
cứu phải trung thực. Kết luận phải được rút ra một các thuyết phục và trả lời cho
giả thuyết nghiên cứu;
- Hướng dẫn học sinh tìm kiếm tài liệu và chia sẻ với những người khác để
làm giàu kiến thức; khuyến khích học sinh khám phá, tự tin và tích cực trong
nghiên cứu.
Trong quá trình hướng dẫn các dự án khoa học, kỹ thuật, cá nhân tôi đã liên
hệ với các cơ quan như Trung tâm y học dân tộc, Y tế dự phòng, Nông trường Na
Mèo để xin được hỗ trợ, tư vấn về kỹ thuật, về các thông số khoa học liên
quan đến dự án của các em.
2.3.10. Tổ chức chỉ đạo viết báo cáo khoa học:
Yêu cầu học sinh viết báo cáo khoa học là một việc khó, bởi các em chưa
được làm quen. Tuy nhiên cần kiên trì hướng dẫn các em yêu cầu cần có của một
báo cáo, đó là sự rõ ràng và súc tích, dễ đọc, ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề;
dễ hiểu, rành mạch. Chúng tôi đã xây dựng bố cục, yêu cầu học sinh trình bày
theo mẫu với các phần theo thứ tự sau:

- Trang bìa và mục lục: Trang bìa và mục lục giúp người đọc có thể
theo sát cấu trúc của báo cáo một cách nhanh chóng.
- Phần giới thiệu: Phần giới thiệu tạo được bối cảnh cho báo cáo. Bao
gồm mục đích, giả thiết vấn đề hoặc mục đích nghiên cứu, một lời giải thích về lý
do nảy sinh ý tưởng nghiên cứu....
- Tư liệu và phương pháp: Miêu tả chi tiết phương pháp sử dụng để thu
nhập dữ liệu, quan sát và chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm, v.v... báo cáo phải đầy đủ
chi tiết để người khác cũng có thể lặp lại thí nghiệm từ những thông tin trong báo
cáo. Kèm theo ảnh chi tiết hoặc bản vẽ của những dụng cụ tự chế.
- Kết quả: Kết quả bao gồm dữ liệu và phân tích. Kết quả phải kèm
theo số liệu thống kê, biểu đồ, dữ liệu thu thập…
- Thảo luận: Đây là trọng tâm của báo cáo. So sánh kết quả với những
giá trị lý thuyết, dữ liệu đã công bố, quy tắc chung hoặc những kết quả được trông
đợi. Thêm vào phần thảo luận những sai số có thể có. Dữ liệu có thay đổi thế nào
giữa những lần lặp lại thí nghiệm về cùng một hiện tượng? Kết quả đã bị ảnh
hưởng như thế nào bởi những yếu tố không được kiểm soát? Sẽ làm gì khác đi nếu
thí nghiệm được lặp lại? Những thí nghiệm nào khác cần được tiến hành?


- Kết luận: Tóm tắt ngắn gọn kết quả. Báo cáo kết quả tìm được dựa trên
quan hệ của một yếu tố với các yếu tố khác. Hỗ trợ báo cáo với những dữ liệu
thực nghiệm. Cần phải cụ thể, không thể nói chung chung. Không bao giờ đề cập
đến một vấn đề ở phần kết luận mà chưa đề cập đến ở những phần trước. Có thể
đề cập đến những ứng dụng thực tế.
- Lời cảm ơn: Bày tỏ sự biết ơn đối với những người đã hỗ trợ, gồm các cá
nhân, doanh nghiệp các tổ chức giáo dục và nghiên cứu.
- Phần tham khảo: Danh sách tham khảo nên kèm theo các tài liệu mà người
nghiên cứu sử dụng (bao gồm sách, bài báo, trang Web...). Tham khảo một số tài
liệu về hình thức trích dẫn tham khảo.
Báo cáo cần chính xác về mặt khoa học, giả thuyết hợp lý, giả định được

nêu rõ và chứng minh.
Kết luận hợp lý và được chứng minh, có mối liên quan chặt chẽ giữa các giả
thuyết và kết luận.
Đặc thù tâm lí học sinh miền núi và vùng dân tộc như trường THCS Tam Lư
hay rụt rè, ngại giao tiếp, việc biểu đạt ngôn ngữ chưa phong phú, thiếu tính biểu
cảm nên nhà trường đã tổ chức cho học sinh báo cáo thử để điều chỉnh, tập dượt
dần khả năng trình bày thuyết minh trước hội đồng hoa học các cấp. Thuyết minh
là phần quan trọng, thể hiện hiểu biết và năng lực nghiên cứu của học sinh thực
hiện dự án. Năm học 2015-2016 học sinh nhà trường có dự án “Cải tiến máy thái
sắn” là dự án của một nhóm học sinh, Hội đồng khoa học nhà trường đã định
hướng cho các em cần có sự phối hợp giữa các thành viên khi thuyết minh. Nhằm
đảm bảo sự hài hòa, kích thích sự hứng thú, tạo điều kiện cho tất cả các em đều
được góp phần mình trong quá trình thuyết minh.
2.3.11. Trưng bày dự án (poster)
- Xác định tầm quan trọng: Gian trưng bày là một bộ phận không thể
thiếu của một đề tài dự thi, khâu quyết định cuối cùng sự thành công của dự án.
- Gian trưng bày phải làm nổi bật được nội dung chính của đề tài, giúp
cho người xem nắm bắt đề tài nhanh nhất.
- Gian trưng bày phải được sắp xếp ngăn nắp, hợp lí, thể hiện tính khoa
học và tính thẩm mỹ.
Những dự án nhận được sự được đồng ý cho tham dự cuộc thi của ban tổ
chức phải chuẩn bị cho việc trưng bày dự án tại cuộc thi. Ban tổ chức sẽ cung cấp
cho mỗi dự án một gian trưng bày tại khu vực trưng bày dự án của cuộc thi. Khi
chuẩn bị gian trưngbày cần chú ý:
- Tìm hiểu quy định về trưng bày của cuộc thi: thời gian, địa điểm, kích
thước, những vật được phép và không được phép... Việc trưng bày dự án trong
gian trưng bày phải tuân thủ quy định an toàn của cuộc thi KHKT quốc gia.
- Gian trưng bày phải làm nổi bật được nội dung chính của đề tài để giám
khảo, người xem nắm bắt đề tài nhanh nhất. Hầu hết giám khảo nhìn vào gian
trưng bày trước khi phỏng vấn.

- Tựa đề là thông tin thu hút sự quan tâm của giám khảo, khách tham quan.
Tựa nên thể hiện một cách đơn giản, chính xác công trình nghiên cứu của bạn và


tính chất của dự án nghiên cứu. Tựa đề cũng phải khiến cho người xem phải muốn
tìm hiểu thêm.
- Gian trưng bày phải được sắp xếp ngăn nắp, hợp lí, thể hiện tính khoa học,
tính thẩm mỹ, dễ theo dõi và dễ đọc.
- Tóm tắt báo cáo dự án nghiên cứu không quá 250 từ và luôn có sẵn tại gian
trưng bày của dự án. Nên sử dụng hình vẽ, sơ đồ... để mô tả tóm tắt dự án và kết
quả nghiên cứu. Bản tóm tắt thường bao gồm: (i) mục đích của thí nghiệm; (ii)
cách thức tiến hành, (iii) dữ liệu và (iv) kết luận. Tóm tắt cũng có thể bao gồm
những ứng dụng nghiên cứu. Bản tóm tắt phải tập trung vào công trình thực hiện
trong của thí sinh ở năm hiện tại và không nên kèm theo lời cám ơn.
- Tại gian trưng bày dự án thí sinh phải chuẩn bị để trình bày dự án cho thành
viên ban giám khảo, giới thiệu dự án cho khách tham quan. Thí sinh cần chuẩn bị
để trình bày, giới thiệu ngắn gọn, súc tích, nêu bật được trọng tâm của dự án
(thường không quá 7 phút, nên chọn học sinh có khả năng trình bày lưu loát,
ngông ngữ diễn đạt dễ hiểu). Nếu là đề tài tập thể thì nên có sự phối hợp giữa các
thành viên khi trình bày. Nên chuẩn bị kĩ lưỡng, dự kiến trước câu hỏi của giám
khảo, người tham quan và chuẩn bị trước câu trả lời.
Theo quy chế, Ban tổ chức sẽ cấp cho mỗi dự án một gian trưng bày có kích
thức tối đa: 76 cm chiều sâu, 122 cm chiều rộng, 274 cm chiều cao kèm theo một
bàn trưng bày cao không quá 91 cm. Kích cỡ tối đa của dự án bao gồm tất cả các
vật liệu dự án và các dụng cụ hỗ trợ đều không được vượt quá diện tích cho phép.
Cần tận dụng tối đa diện tích sử dụng để minh hoạ rõ ràng và chính xác dự án
nghiên cứu.
Yêu cầu để trình bày tốt một dự án là phần trình bày phải rõ ràng, súc tích để
khi nhìn vào mọi người có thể hiểu được ý tưởng và thấy ngay được kết quả của
dự án.

Poster không nên quá nhiều chữ mà cần được sơ đồ hóa (Phụ lục 2)
2.3.12. Tổ chức thi cấp trường
Thời gian tổ chức thi cấp trường trong khoảng tháng 10, 11 hàng năm khi đã
chuẩn bị đầy đủ điều kiện:
- Hoàn thành hồ sơ dự án gồm:
+ Sản phẩm hoặc mô hình hoàn thiện
+ Báo cáo khoa học.
+ Báo cáo tóm tắt khoảng 250 từ.
+ Bản trình chiếu Power Point (trình bày khoảng 7 phút).
- Các đề tài dự toán kinh phí gửi lên lãnh đạo nhà trường .
- Đề xuất về việc sử dụng cơ sở vật chất (phòng trưng bày).
- Cơ cấu giải, mức độ thưởng .
- Nhà trường duyệt điều kiện, kinh phí .
- Thành lập Ban tổ chức, Ban giám khảo Cuộc thi.
- Chọn dự án thi cấp tỉnh; Tổng kết, trao giải, rút kinh nghiệm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1. Kết quả thực hiện:


a. Kết quả tích cực:
Năm học 2015-2016 trường THCS Tam Lư đã tổ chức tương đối thành công
các hoạt động NCKH và tham gia Cuộc thi KHKT các cấp. Trong tổng số 12 dự
án dự thi cấp trường có 2 dự án lọt vòng chung kết cuộc thi cấp huyện đạt giải
Nhì, Khuyến khích;1 dự án tham dự vòng chung kết cấp tỉnh đạt giải Ba duy nhất
của huyện Quan Sơn (Phụ lục 3)
Phần lớn các đề tài có nội dung và phương pháp nghiên cứu phù hợp, thực
hiện tiến trình nghiên cứu, ghi chép nhật trình và trình bày báo cáo khoa học theo
đúng yêu cầu của một công trình khoa học. Đa số các dự án có tính sáng tạo ở
mức độ khác nhau. Nhiều đề tài tiếp cận những vấn đề lớn có tính khái quát hoặc

cần những kỹ thuật phòng thí nghiệm. Điều này giúp rèn luyện năng lực NCKH
của các em.
Nhiều đề tài khoa học, và phần trình bày của nhiều em đã chú ý tới việc vận
dụng kiến thức học được trên lớp vào NCKH. Nhìn chung các đề tài năm nay
chuẩn bị khá công phu và đúng theo quy định của một công trình khoa học dự thi.
Qua cuộc thi, chúng tôi thấy rõ sự nhiệt tình và công sức của các thầy cô
giáo, phụ huynh và các nhà khoa học đã tham gia tư vấn và hướng dẫn các em.
Phải nói với các em rằng, các em có được những người thày và người cô nhiệt
tình với các em như vậy là một niềm hạnh phúc lớn. Sự tham gia của các nhà
khoa học trợ giúp trong việc thực hiện ý tưởng của chính các em cũng là một
thành công của cuộc thi.
Tuy vậy, thành công của cuộc thi không chỉ là số lượng đề tài mà là sự nhiệt
tình, tính chủ động, sự say mê với NCKH của các em học sinh. Nhiều thầy cô cho
rằng: chính sự nhiệt tình, tự tin của các em đã truyền cảm hứng cho các thầy cô,
nhiều học sinh và nhiều dự án đem lại sự thích thú cho các thành viên ban giám
khảo
b. Một số hạn chế:
Một số đề tài có ý tưởng và nguyện vọng khá lớn nhưng chưa có đủ thời gian,
kiến thức và các điều kiện cần thiết để thực hiện.
Cơ sở vật chất phục vụ NCKH của nhà trường còn nhiều thiếu thốn dẫn đến
nhiều dự án không thành công như mong đợi; Việc phối hợp giữa nhà trường với
các cơ quan nghiên cứu khoa học chưa thật chặt chẽ, đôi lúc còn thụ động hoặc
không có động thái về việc này.
Phương pháp nghiên cứu khoa học của học sinh và giáo viên hướng dẫn còn
nhiều lúng túng; Kinh phí của nhà trường còn nhiều khó khăn nên việc dành cho
hoạt động NCKH và Cuộc thi KHKT chưa nhiều, một số dự án giáo viên nhà
trường còn kêu gọi thầy cô hướng dẫn và phụ huynh hỗ trợ kinh phí; Chưa huy
động được nguồn tài chính bền vững để xây dựng chế độ hỗ trợ giáo viên hướng
dẫn và người bảo trợ khoa học cho các em.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận:
Hoạt động NCKH và Cuộc thi KHKT thực sự đã giúp cho các em học sinh
khả năng, hiểu biết mà những năng lực này được hình thành, tích lũy dần qua
nghiên cứu, học hỏi. Hoạt động NCKH và Cuộc thi KHKT còn góp phần triển


khai thực hiện chủ trương tăng cường thí nghiệm, thực hành; chủ trương dạy học
phân hóa theo năng lực học sinh góp phần nâng cao chất lượng, đóng góp cơ sở
thực tiễn, cơ sở lý luận cho việc triển khai đổi mới đồng bộ hình thức tổ chức dạy
học.
Trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo hiện nay thì đổi
mới giáo dục phổ thông đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu của hoạt động
NCKH, là sân chơi bổ ích giúp các em áp dụng những kiến thức đã học vào cuộc
sống, học đi đôi với hành; tiếp cận, làm quen với phương pháp, kỹ năng NCKH,
tạo đà cho các bậc học tiếp theo; tạo sự tự tin, tìm tòi và sáng tạo; rèn luyện cách
làm việc tự lực, làm việc nhóm, tính tích cực, chủ động, hứng thú trong học tập và
sinh hoạt. Từ đó phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh ở một số môn
học có liên quan, phát hiện các tài năng để bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
NCKH trong nhà trường là một trong những nội dung cần được đẩy mạnh,
nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục. Để phát huy
những lợi ích trên, hoạt động NCKH phải được chú trọng ngay trong độ tuổi học
trò, có như vậy mới có cơ sở xây dựng và phát triển được đội ngũ nhân lực chất
lượng cao cho xã hội.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Đẩy mạnh công tác tuyền truyền: Tổ chức truyền thông rộng rãi về mục
đích, ý nghĩa, nội dung, kế hoạch các cuộc thi, hội thi đến các đơn vị chức năng,
cán bộ, giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh và cộng đồng xã hội, từ đó nâng
cao nhận thức cho các đơn vị, cá nhân, xã hội và chất lượng giáo dục đào tạo;
- Nâng cao năng lực nghiên cứu cho học sinh và giáo viên: Tổ chức các

hoạt động hội thảo, tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên,
học sinh về phương pháp, kỹ năng NCKH; tạo điều kiện, khuyến khích để học
sinh, giáo viên tham gia hội nghị, hội thảo khoa học và triển khai áp dụng kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn;
- Đẩy mạnh các hoạt động phối kết hợp: Cần có kế hoạch, biện pháp tạo
điều kiện kết nối giữa các nhà trường- giáo viên- học sinh NCKH với các Trung
tâm khoa học; các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp, các nhà khoa học,
chuyên gia có sẵn trên địa bàn.
3.2.2. Với Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo:
- Tổ chức thực hiện, cơ chế chính sách: Cần có chế độ ưu tiên, khuyến
khích đối với giáo viên, người hướng dẫn NCKH, học sinh đoạt giải cấp cơ sở;
người có nhiều đóng góp tích cực trong Cuộc thi, kịp thời khích lệ, động viên,
khuyến khích những học sinh có thành tích cao trong các Cuộc thi KHKT, ý tưởng
sáng tạo cấp tỉnh, cấp quốc gia, quốc tế; cần có cơ chế khuyến khích phát triển
những ý tưởng khoa học hay và triển khai ứng dụng các đề tài chất lượng phục vụ
cuộc sống từ các đơn vị quản lý nhà nước, các cơ sở sản xuất, kinh doanh và
doanh nghiệp.
- Cần đổi mới nội dung, chương trình: Đổi mới theo hướng giảm tải cho
học sinh và xem NCKH là hoạt động bắt buộc ở các trường phổ thông; đồng thời


cần ban hành các chế độ, chính sách phù hợp hơn cho giáo viên, học sinh đoạt giải
cao trong các kỳ thi.
- Cần quan tâm đầu tư các nguồn lực cho giáo dục: Từng bước đầu tư hạ
tầng kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ dạy học và nghiên cứu, đồng thời cần có
chiến lược và kế hoạch để xây dựng hoạt động học tập gắn kết với phong trào
NCKH của học sinh; Tranh thủ mọi nguồn lực để hỗ trợ cho hoạt động NCKH và
tổ chức các Cuộc thi cấp cơ sở.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Quan Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Ngọc Huynh


Phụ lục 1.

DANH SÁCH DỰ ÁN, TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN ĐẠT GIẢI TẠI CUỘC THI KHOA HỌC KỸ THUẬT DÀNH CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC CẤP HUYỆN LẦN THỨ NHẤT NĂM HỌC 2015 – 2016

(Kèm theo Quyết định số: 205 /QĐ- PGD&ĐT ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Trưởng Phòng GD&ĐT)

TT

1

Tên dự án

Sử dụng vật liệu dễ tìm kiếm để chế tạo công tắc
tự động bật, tắt đèn điện khi đóng, mở cửa phòng
dùng cho nhà vệ sinh học sinh của trường THCS DTNT Quan Sơn nhằm tiết kiệm điện
Triết suất tinh dầu từ cành và lá quế quy mô hộ
gia đình

2


Lĩnh vực
dự thi

Số
lượng
thí
sinh/d
ự án

Kỹ thuật cơ
khí

1

Hóa học

2

Thí sinh tham gia dự án
Họ và tên

L Quang Thắng

Phạm Lê Anh

Ngày/tháng/
năm sinh

Lớp


09/06/2001

9A

12/07/2001

9

Họ tên giáo
viên hướng
dẫn

Xếp
giải

THCS - DTNT Quan
Sơn

Mai Quang
Huy

Nhì

TH&THCS Thị trấn Quan
Sơn

Phạm Hoài
Nam

Nhì


Trường

Triết suất tinh dầu từ cành và lá quế quy mô hộ
gia đình

Hóa học

2

Hà Minh Tuấn

13/05/2001

9

3

Máy cắt nan đa năng

Kỹ thuật cơ
khí

1

Vi Quốc Việt

21/07/2002

8


4

Thiết bị lọc nước sông, suối thành nước trong,
sạch dùng trong sinh hoạt cho khu vực nông thôn,
miền núi huyện Quan Sơn

Kỹ thuật
môi trường

1

Phạm Tuấn
Minh

12/01/2001

9B

PTDT bán trú THCS
Na Mèo

5

Tự làm bẫy chuột treo tường từ ng nước PVC
110 để bắt chuột từ trên cao xuống

Kỹ thuật cơ
khí


1

Lê Văn Hiệp

04/02/2001

9A

THCS - DTNT Quan
Sơn

Lê Văn
Trưởng

Ba

6

Sử dụng keo được làm từ xốp và mùn cưa để hàn
tấm lợp Fibro xi mang và làm keo dán gỗ.

Khoa học
ứng dụng

1

Lương Thị
Thúy H ng

01/07/2002


8B

PTDT Bán Trú THCS
Tam Thanh

Nguyễn
Tuấn Lâm

KK

THCS Tam Lư

Đào Khả
Trường
Nguyễn
Văn
Dương

Nhì
Nhì


7

Bình nước nóng sử dụng năng lượng mặt trời

KH môi
trường


1

Thùng rác hai ngăn

KH môi
trường

2

Lê Thị Mai
Linh
Lương Thị Mai

01/10/2001

9

10/07/2001

9

8

THCS Sơn Lư

Lê Văn

THCS Sơn Lư

Hà Thị

Huyên

Thùng rác hai ngăn

KH môi
trường

2

Lê Xuân Tú

12/01/2001

9

9

Tự điều chế nước Javel để khử trùng, t y sạch nhà
vệ sinh, sử l bể phốt ở trường THCS - DTNT
Quan Sơn

Hóa học

1

Lê Hoàng
Kiên

20/10/2001


9A

THCS - DTNT Quan
Sơn

Lê Văn
Trưởng

10

Tự làm bẫy ru i thông minh từ nh ng can
đựng nước, đựng dầu đ qua sử dụng

Kỹ thuật cơ
khí

1

Lê Văn Hiệp

04/02/2001

9A

THCS - DTNT Quan
Sơn

Lê Văn
Trưởng


11

Cải tiến công tắc điện VINAKIP 2 cực thành
công tắc 3 cực để phục vụ học thực hành lắp
mạch điện cầu thang môn Công nghệ 8, 9 tại
trường THCS - DTNT Quan Sơn

Kỹ thuật cơ
khí

1

Hà Văn Tựng

18/03/2001

9A

THCS - DTNT Quan
Sơn

Mai Qu
Huy

Máy hút bụi mini

Kỹ thuật
điện - cơ
khí


2

Hà Thị Cúc

28/09/2002

8
Lê Thị
Châm

Máy hút bụi mini

Kỹ thuật
điện - cơ
khí

PTDTBT THCS Trung
Thượng
2

Hà Văn
Huynh

Thùng lọc nước mini

Kỹ thuật
môi trường

1


Nguyễn Văn
Lâm

PTDT BT THCS Sơn
Điện

Phạm
Quang
Cảnh

12

13

01/10/2002

05/06/2001

Giải Khuyến khích (KK)
Danh sách trên gồm: 13 dự án, 16 học sinh và 13 giáo viên hướng dẫn

8

9


Phụ lục 2


Phụ lục 3




×