Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Rè luyện kỹ năng nói cho học sinh dân tộc qua tiết học trình bày một vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.12 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

A. Đặt vấn đề

01

B. Giải quyết vấn đề

03

I. Cơ sở lí luận của vấn đề

03

1. Khái niệm

03

2. Mục đích

03

3. Yêu cầu

03

II. Trực trạng vấn đề


03

1. Thuận lợi

03

2. Khó khăn

04

III. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề

05

1. Nghiên cứu tìm hiểu lý thuyết

05

2. Thực nghiệm giải quyết vấn đề

06

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

08

C. Kết luận

11


Mục lục

12

Tài liệu tham khảo

13

Trang 1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục có vị trí quyết định đến sự sống còn, hưng thịnh của một quốc
gia, dân tộc vì đây là hoạt động trực tiếp đào tạo ra những con người, những thế
hệ tương lai sẽ làm chủ nhân của đất nước. Chính vì vậy, sản phẩm của ngành
giáo dục tuyệt đối không được có những sai sót, mà phải là những sản phẩm thật
sự hoàn thiện, hoàn hảo.
Ai cũng biết rằng muốn trở thành một con người thì cái gì cũng phải học,
học từ những thứ đơn giản nhất đến những thứ phức tạp hơn. Ông cha ta thường
nói “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, trong đó “học nói” là thứ mà ta phải học
có khi là một đời người cũng vẫn còn phải học. Đối với người Việt, học sinh dân
tộc Kinh đã vậy thì học sinh các dân tộc thiểu số lại càng khó khăn hơn nhiều.
Từ lâu chúng ta đã nghe đến câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh “Người có
đức mà không có tài là người vô dụng, người có tài mà không có đức thì làm việc
gì cũng khó”. Câu nói ấy xác định hai vấn đề cốt lõi của mỗi người là đức và tài.
Hai yếu tố này nếu không song song tồn tại trong một con người thì người ấy sẽ
không thể nào hoàn thiện và thật sự có ích cho xã hội.
Đối với ngành giáo dục, vấn đề giáo dục để học sinh phát triển toàn diện
luôn được đặt ra mọi lúc, mọi nơi. Trong tất cả các bậc học, chương trình học tập
và rèn luyện bao giờ cũng được xây dựng theo hướng tổng hợp nhằm mục đích,

một mặt hình thành những nhân cách trong sáng, chuẩn mực, mặt khác là phải tạo
ra những sản phẩm có kỹ năng xã hội phong phú và giàu bản lĩnh trong cuộc
sống. Trong số nhiều kỹ năng cần hình thành cho học sinh mà chương trình giáo
dục phổ thông hướng đến, thiết nghĩ kỹ năng diễn đạt trước đám đông là một
trong những kĩ năng thiết yếu, nhất là đối với học sinh các dân tộc thiểu số lại đặt
trong môi trường và điều kiện xã hội phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
Và bộ môn trọng tâm giúp học sinh rèn luyện tốt kĩ năng này chính là bộ
môn Ngữ Văn. Nhưng trên thực tế thì môn ngữ văn đang dần mất đi vị trí quan
trọng mà cha ông ta từ xưa đã nhấn mạnh: “văn chương giúp thanh lọc tâm hồn
và nuôi dưỡng, khơi gợi cảm xúc nhân văn trong con người”. Đa số học sinh bây
giờ ít thích học môn ngữ văn. Nguyên nhân chính vẫn là do ý thức và nhận thức

Trang 2


còn hạn chế của cả người dạy lẫn người học. Mặc dù trong thời gian qua, nước ta
đã có sự cải cách và đạt được những thành tựu đáng kể trong việc đổi mới
phương pháp giảng dạy ở nhiều bộ môn trong đó có môn Ngữ văn nhưng nhìn
chung vẫn còn nặng về lí thuyết mà chưa thực sự chú trọng nhiều đến tính thực
hành. Điều này tạo tâm lí chán ngán và gây không ít khó khăn cho học sinh khi
trải nghiệm thực tế giữa cuộc sống hiện đại, mặc dù khi làm văn kĩ năng viết văn
và trình bày của các em rất vững nhưng khi trình bày bằng lời nói trước mọi
người thì lại rất vụng về, lúng túng.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy bộ môn Ngữ Văn và đặc biệt là ở khối
10 có tiết học trực tiếp giúp rèn luyện, phát triển kỹ năng trình bày, diễn đạt của
học sinh, nhất là học sinh các dân tộc thiểu số trước nhiều người. Xuất phát từ
thực tiễn đó, với kinh nghiệm tổ chức giảng dạy, tôi tiến hành nghiên cứu và thực
nghiệm đề tài Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh dân tộc qua tiết học “Trình
bày một vấn đề". Đây là công trình nghiên cứu của cá nhân xuất phát từ đặc điểm
tình hình của địa phương và đơn vị mà bản thân tôi đang công tác, giảng dạy. Với

kiến thức, kinh nghiệm còn hạn chế rất mong nhận được sự cộng tác, góp ý của
các thầy cô đi trước và các bạn đồng nghiệp.

Trang 3


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề
1. Khái niệm
Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học xuất bản tháng 8 năm
2006 định nghĩa: “Trình bày là nói ra một cách đầy đủ và rõ ràng cho người
khác hiểu rõ”.
2. Mục đích
Theo nghĩa hẹp, trình bày một vấn đề nhằm thuyết phục người khác nghe
theo ý tưởng, suy nghĩ, đề xuất của người trình bày.
Theo nghĩa rộng, trình bày một vấn đề nhằm đạt được mục đích giao tiếp
nhanh nhất, hiệu quả nhất.
3. Yêu cầu
Ngay từ khái niệm trình bày đã nêu bật hai yêu cầu:
* Thứ nhất là trình bày cần phải đầy đủ, chính xác về nội dung vấn đề đang
trình bày.
* Thứ hai là khi trình bày phải diễn đạt một cách ngắn gọn, rõ ràng, và dễ
hiểu.
Như vậy, kĩ năng trình bày, diễn đạt trước nhiều người là một kỹ năng quan
trọng trong việc thể hiện và khẳng định bản lĩnh của con người, hoạt động này
cũng giúp ích cho mỗi cá nhân trong việc thể hiện, trình bày những tư duy, và đó
là yếu tố không thể thiếu đối với một người thành đạt.
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi
* Về phía giáo viên:

Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy và giáo dục hiện
nay đã giúp ích rất nhiều cho giáo viên trong việc tiếp cận với xu hướng đổi mới
phương pháp giảng dạy và càng thuận lợi hơn trong việc trao đổi, chia sẻ và học

Trang 4


tập, trau dồi kinh nghiệm giảng dạy của đội ngũ giáo viên ở khắp đất nước và cả
thế giới.
* Về phía học sinh:
Việc khẳng định mình trước người khác và trước nhiều người là một nhu
cầu luôn tồn tại trong mỗi cá nhân.
Học sinh lớp 10 đã hình thành những kiến thức, kỹ năng nhất định về các
mặt của đời sống xã hội nên cũng dễ dàng tiếp thu, lĩnh hội và thực hành trình
bày một vấn đề nào đó gần gũi với các em.
Những chương trình truyền hình với các chuyên mục về trao đổi thuyết
trình ngày càng phong phú cũng góp phần tích cực trong việc giúp các em học
sinh tiếp thu, học hỏi kỹ năng diễn đạt, trình bày ý tưởng, kinh nghiệm, vấn đề,...
Học sinh hứng thú với những tiết thực hành, nhất là thực hành về trình bày,
diễn đạt.
Trong quá trình trình bày một vấn đề có thể tận dụng sự hỗ trợ của các
công cụ khác như hình vẽ, âm thanh, cử chỉ, điệu bộ, đặc biệt là sự hỗ trợ của
công nghệ hiện đại.
2. Khó khăn
* Về phía giáo viên:
Phân phối chương trình phân bố cho bài học “Trình bày một vấn đề” chỉ
gói gọn trong khoảng thời gian một tiết học với đầy đủ tiến trình lên lớp. Trong
khi đó, bài học lại gồm cả hai nội dung lí thuyết và thực hành. Chính vì vậy, nếu
giáo viên tập trung giúp học sinh nắm vững kiến thức lí thuyết thì không còn
nhiều thời gian để học sinh chuẩn bị và thực hành luyện tập. Ngược lại, nếu giáo

viên dành thời gian cho học sinh thực hành quá nhiều thì những kiến thức lý
thuyết chưa được người học nắm vững dẫn đến nhiều thiếu sót, có khi là thất bại
trong trình bày vấn đề. Do đó người giáo viên phải phân phối thời gian một cách
hài hòa, linh hoạt. Tùy vào đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu
số mà chú trọng đến lí thuyết hay thực hành. Dẫu vậy đối với bài học này thì
phần thực hành mới là trọng tâm.

Trang 5


Giáo viên đứng lớp chưa ý thức đầy đủ vai trò của kỹ năng diễn đạt, trình
bày trước nhiều người trong việc rèn luyện bản lĩnh cần thiết để thành đạt trong
cuộc sống.
Một số giáo viên đã có quan tâm đến việc này song chưa có phương pháp
triển khai một cách hiệu quả để đảm bảo cung cấp, rèn luyện đầy đủ những kỹ
năng trình bày cần thiết đối với người học.
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu giảng dạy. Trường là trường
vùng III, mới thành lập, chưa có mạng internet, công cụ hỗ trợ còn thiếu thốn.
* Về phía học sinh
Trên 1/2 tổng số học sinh của trường là người dân tộc thiểu số, trong đó
chủ yếu là học sinh là người Mường .... Học sinh nhiều khi giao tiếp với nhau
bằng tiếng bản địa nên khả năng tiếng Việt còn chưa thật tốt.
Do đặc thù địa phương là một khu vực điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt
khó khăn, chia cắt lại xa cách trung tâm huyện lị nên khả năng giao lưu, tiếp xúc
lẫn nhau giữa học sinh trong vùng với học sinh ở thị trấn huyện và các huyện
khác trong tỉnh cũng như trong nước còn khá nhiều hạn chế.
Lối sống và phong tục thuần hậu, chất phác mang đậm tác phong nông
nghiệp và nông dân cũng dẫn đến những hạn chế trong khả năng giao lưu của học
sinh. Học sinh trên địa bàn nói chung và Trường THPT Thạch Thành 3 nói riêng
thường nhút nhát, rụt rè, thiếu sự mạnh dạn, chủ động trong việc bày vấn đề

trước đám đông.
Học sinh chưa thực sự nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như vai trò, tác
dụng của việc nói lưu loát và thuyết phục trước nhiều người.
Những hạn chế, khó khăn trên đã dẫn đến một thực trạng là công tác tổ
chức tiết học nhiều khi còn chưa hiệu quả, chưa đạt được mục đích bài học đề ra.
III. Các biện pháp giải quyết vấn đề
1. Nghiên cứu phần lí thuyết
Để khắc phục thực trạng phân bố thời gian hạn chế dành cho tiết học, giáo
viên cần linh hoạt vận dụng thời gian trong phần dặn dò của tiết học trước để

Trang 6


hướng dẫn, gợi mở cho học sinh nghiên cứu, tìm hiểu những kiến thức lí thuyết ở
nhà và soạn bài trước khi lên lớp.
Đối với học sinh dân tộc giáo viên cần cung cấp một số chủ đề gần gũi để
học sinh chuẩn bị nội dung và tập luyện trước khi bước vào tiết học chính thức
với phần trọng tâm là thực hành trình bày trước cả lớp.
2. Thực nghiệm tổ chức tiết học
Thực nghiệm tiết học gồm ba bước cơ bản sau:
a. Hướng dẫn tìm hiểu kiến thức lý thuyết
Do thời lượng chỉ trong một tiết học, phần lý thuyết trong sách giáo khoa
đầy đủ, dễ hiểu nên giáo viên chỉ cần tranh thủ khoảng thời gian ở phần củng cố,
dặn dò ở tiết học trước để hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức. Đến tiết học
chính khóa, giáo viên có thể sử dụng phương pháp vấn đáp để trắc nghiệm khả
năng nắm bắt và hiểu kiến thức lí thuyết của học sinh, sau đó củng cố lại như
phần ghi nhớ trong sách giáo khoa cho các em.
b. Chia nhóm và gợi ý một số đề tài trình bày
Vì thời lượng một tiết dạy là quá ít nên không thể tiến hành trình bày vấn
đề một cách bao quát cho tất cả học sinh trong lớp học mà chỉ có thể chia nhóm

để các em tham gia thảo luận ngắn ( khoảng năm phút ) trên cơ sở phần chuẩn bị
nội dung ở nhà và cử đại diện thực hành trên lớp. Thông qua cách thức trình bày
của bạn mình các em tự rút ra bài học và kinh nghiệm thực tế cho bản thân. Giáo
viên có thể chia lớp thành 6 nhóm và cung cấp lại những đề tài đã gợi ý ở tiết học
trước để mỗi nhóm dựa vào vốn kiến thức cũng như sự hiểu biết, sự chuẩn bị của
nhóm mà lựa chọn đề tài thích hợp để thảo luận trình bày.
Chủ đề trình bày có thể lấy theo gợi ý trong sách giáo khoa hoặc giáo
viên cung cấp thêm những chủ đề khác gần gũi với tâm lý, lứa tuổi của học sinh
như:
- Thời trang trong học đường ( có thể chọn những chủ đề cụ thể hơn như:
áo dài với nữ sinh; đồng phục áo trắng quần đen với học sinh,… ).
- Tình bạn trong cuộc sống mỗi người.
- Tình yêu với lứa tuổi học sinh.

Trang 7


- Học sinh với vấn đề an toàn giao thông.
- Môi trường và sự sống của con người
- Tình trạng bạo lực học đường hiện nay,….
Sau khi gợi ý một chủ đề giáo viên giới hạn thời gian mỗi lượt trình bày để
học sinh dự kiến dung lượng và nội dung trình bày cho phù hợp. Phần này tiến
hành ở tiết học trước cùng với phần hướng dẫn tìm hiểu kiến thức lý thuyết.
c. Tổ chức tiết thực hành trình bày
Đây là phần quan trọng nhất của tiết học, giáo viên nên tạo sự hứng thú
cho học sinh bằng cách giới thiệu bài dí dỏm, hấp dẫn. Trong bước này gồm có
các khâu tổ chức sau:
* Trang trí:
Không cần cầu kỳ, giáo viên nên ghi tiêu đề “TRÌNH BÀY MỘT VẤN
ĐỀ”, cỡ chữ lớn trên chính giữa bảng để khi học sinh đứng trước bảng trình bày,

điều này sẽ góp phần tạo được không khí như đang trình bày trước diễn đàn.
* Giới thiệu:
Giáo viên giới thiệu như người dẫn chương trình. Đồng thời cũng nêu một
số yêu cầu đối với học sinh khi trình bày (về vị trí đứng, cách chào hỏi, tự giới
thiệu, bắt đầu trình bày, kết thúc vấn đề,…). Sau khâu tổ chức này, giáo viên nên
ngồi ở vị trí tại bàn của học sinh để làm khán giả - giám khảo. Giáo viên nên lựa
chọn tỉ lệ lên trình bày cứ một học sinh người kinh thì cho hai học sinh người đân
tộc cùng trình bày để các en có sự so sánh, đối chiếu.
* Nhận xét, đánh giá và điều chỉnh:
Giáo viên cần theo dõi quá trình học sinh trình bày, xây dựng tiêu chí đánh
giá rõ ràng ngay sau mỗi phần trình bày của học sinh và nên đánh giá, đồng thời
có thể chủ động cho phép các nhóm khác nhận xét đánh giá, điều chỉnh nhưng
phải tập trung theo ba tiêu chí chủ yếu là:
- Tác phong khi trình bày
- Nội dung chủ đề trình bày

Trang 8


- Kĩ năng trình bày
Tránh trường hợp học sinh đang trình bày giáo viên ngắt lời làm cho bài trình bày
gián đoạn, học sinh dễ bị lúng túng sau nhận xét của giáo viên.
* Cho điểm:
Giáo viên nên cho điểm sau phần nhận xét, điều chỉnh nhưng cần phải chú
trọng tính chất động viên, khích lệ vì nhiều trường hợp đây là lần đầu tiên học
sinh trình bày vấn đề trước nhiều người, vả lại đối tượng mà đề tài đang hướng
tới là học sinh các dân tộc thiểu số.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua việc triển khai thực hành áp dụng cho hai lớp khối 10 suốt hai năm
học tôi nhận thấy:

Hầu hết học sinh hiểu và khắc sâu được kiến thức lí thuyết.
Học sinh hứng thú trong thực hành.
Không khí lớp học sôi nổi, hào hứng, phát huy được tính chủ động của học
sinh trong việc phát hiện kiến thức.
Hạn chế được tình trạng thụ động trong quá trình tiếp thu bài giảng của học
sinh.
Tạo được mối liên hệ mật thiết, thân thiện và cởi mở giữa thầy và trò, giữa
học sinh trong lớp với nhau.
Học sinh bước đầu đã hình thành, và có ý thức rèn luyện kỹ năng trình bày,
diễn đạt trước nhiều người.
Trắc nghiệm hiệu quả thực nghiệm cụ thể như sau:
Lớp

Hứng thú

Tỉ lệ hs dân tộc

Hiểu bài

Tỉ lệ hs dân tộc

10C1

41/41

20/41 = 50%

41/41

20/20 = 100%


10C2

39/39

21/39 = 53%

39/39

21/21 = 100%

Kết quả kiểm tra lý thuyết và thực hành ở các lớp áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm như sau:
Lớp 10C1

Trang 9


* Lý thuyết
+ Tỉ lệ bài đạt loại giỏi:

40%

+ Tỉ lệ bài đạt loại khá:

37%

+ Tỉ lệ bài đạt loại trung bình: 23%
* Thực hành
+ Tỉ lệ bài đạt loại giỏi:


31%

+ Tỉ lệ bài đạt loại khá:

51%

+ Tỉ lệ bài đạt loại trung bình: 18%
Lớp 10C2
* Lý thuyết
+ Tỉ lệ bài đạt loại giỏi:

60%

+ Tỉ lệ bài đạt loại khá:

34%

+ Tỉ lệ bài đạt loại trung bình: 6%
* Thực hành
+ Tỉ lệ bài đạt loại giỏi:

60%

+ Tỉ lệ bài đạt loại khá:

22%

+ Tỉ lệ bài đạt loại trung bình: 18%


C. KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm đề tài, tôi đã nhận thấy hiệu quả giáo
dục kỹ năng trình bày, diễn đạt cho học sinh, đặc biệt là học sinh các dân tộc
thiểu số là rất lớn. Ngày nay, toàn cầu hoá ngày càng rộng rãi, yêu cầu giao lưu,
trao đổi giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng nhiều thì kĩ năng giao lưu và mạnh
dạn trong giao lưu trong giai đoạn này càng cần phải được rèn luyện để phát triển

Trang 10


tốt nhất. Và để tạo lập bản lĩnh cá nhân, rèn luyện tư duy, thuyết phục người
khác, hướng đến sự thành công, mỗi người cần thiết phải được cung cấp những
kiến thức thiết yếu về diễn đạt, trình bày, và cần thiết hơn là khả năng thực hành
diễn đạt, trình bày vấn đề trước nhiều người.
Việc vận dụng, tổ chức hiệu quả tiết học “Trình bày một vấn đề” một cách
linh hoạt và sáng tạo sẽ giúp ích lớn cho học sinh nói chung và học sinh dân tộc
thiểu số nói riêng trong việc hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp, đối thoại
để từ đó hình thành nhân cách và bản lĩnh. Điều này có giá trị vô cùng to lớn để
giúp các em trưởng thành và thành công hơn trong cuộc sống sau này.
Tổ chức tiết học này thật sự có hiệu quả trong việc rèn luyện tư duy, tạo
lập bản lĩnh vững vàng, tác phong mạnh dạn, chững chạc cho học sinh. Vì vậy,
tôi đề nghị bộ phận chuyên môn cần có sự chỉ đạo để điều chỉnh những vướng
mắc đã nêu để việc tổ chức triển khai giảng dạy ngày càng phát huy hiệu quả
nhiều hơn nữa. Đồng thời, với những bài học kiến thức khác, vẫn có thể vận dụng
hiệu quả cách tổ chức này để phát huy tính chủ động của học sinh trong việc tự
tìm hiểu, chiếm lĩnh và tích luỹ tri thức.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi rút ra trong quá trình nghiên cứu và
thực nghiệm đề tài. Rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các đồng chí,
đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.


XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
KT.Hiệu trưởng
P. Hiệu trưởng

Thạch Thành, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Đỗ Duy Thành

Lê Thị Cam

Trang 11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NXB Giáo Dục, Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 tập một, 2013.
2. NXB Giáo Dục, Sách giáo viên Ngữ Văn 10 tập một, 2013.
3. Viện Ngôn Ngữ học, Từ điển Tiếng Việt phổ thông, 2006.
4. Nguyễn Văn Đường, Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 10 nâng cao, NXB Đại
học sư phạm 2006.
5. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 10, NXB Giáo Dục 2006.
Tài liệu của các đồng nghiệp và một số bài báo về kĩ năng giao tiếp tham khảo
trên mạng trực tuyến.

Trang 12




×