Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sử dụng sơ đồ để củng cố bài học nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học phần văn bản thơ môn ngữ văn lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.87 KB, 14 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT CẨM THUỶ 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG SƠ ĐỒ ĐỂ CỦNG CỐ BÀI HỌC NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ TRONG DẠY HỌC PHẦN VĂN BẢN THƠ
MÔN NGỮ VĂN LỚP 12

Người thực hiện:
Chức vụ:
SKKN thuộc môn:

Hồ Thị Ly
Giáo viên
Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2016
1


MỤC LỤC

Nội dung
1.Mở đầu
-Lý do chọn đề tài
-Mục đích nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu
2.Nội dung
2.1.Cơ sở lý luận của vấn đề


2.2.Thực trạng của vấn đề
a.Củng cố bài học,vai trò của củng cố bài học trong phần đọc hiểu
văn bản
b.Cấu trúc,thời lượng của văn bản thơ trong chương trình SGK
Ngữ văn 12
c.Thực trạng của vấn đề
*Giáo viên chưa quan tâm đến phần củng cố bài học
*Thời gian dành cho phần củng cố bài học còn ít
2.3.Giải pháp và tổ chức thực hiện
a.Giải pháp
*Về nội dung
*Về phương pháp
b.Tổ chức thực hiện
*Văn bản Tây Tiến của Quang Dũng
*Văn bản Việt Bắc của Tố Hữu
*Văn bản Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
*Văn bản Sóng của Xuân Quỳnh
*Văn bản Đàn ghita của Lorca của Thanh Thảo
2.4.Hiệu quả của đề tài
3.Kết luận,kiến nghị
-Kết luận
-Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
3
4
4
4
5

6
6
6
7
7
7
7
7
7
8
9
9
10
10
11
11
12
13
13
13
14

2


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Tác phẩm văn học - một bài thơ, một áng văn, một thiên truyện là một
công trình nghệ thuật, thể hiện những nghiền ngẫm, tìm tòi của nhà văn, nhà thơ
về cuộc sống, về con người được diễn tả bằng những hình thức nghệ thuật ngôn

từ tinh tế, đặc sắc. Mỗi tác phẩm văn học thực sự có giá trị thường mang nhiều ý
nghĩa và có ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc trong nhận thức tư tưởng, tình cảm của
người đọc.
Dạy học tác phẩm văn chương là một loại hình dạy học đặc thù, đòi hỏi sự
nỗ lực từ cả hai phía: giáo viên và học sinh. Con đường và cách thức dạy học tác
phẩm văn chương phản ánh những phương diện quan hệ hữu cơ của quá trình
giáo dục. Bắt đầu từ việc lĩnh hội và thấm nhuần ý nghĩa, mục đích, định hướng
đến xác định nhiệm vụ cụ thể của yêu cầu dạy học trên cơ sở kiến thức cơ bản
về tác giả, tác phẩm cũng như kiến thức tâm lí giáo dục học và khả năng sư
phạm của bản thân, giáo viên từng bước hình thành kế hoạch tổ chức quá trình
chiếm lĩnh tri thức văn học cho học sinh.Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng
nói: “Cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung và trong dạy văn nói riêng
là rèn luyện bộ óc,rèn luyện phương pháp suy nghĩ,phương pháp nghiên
cứu,phương pháp vận dụng kiến thức của mình” (Trích: Tạp chí nghiên cứu giáo
dục số 26 tháng 11/1973)
Sau nhiều năm trực tiếp dạy học môn Ngữ Văn ở trường trung học phổ
thông theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, bản thân tôi thấy rằng: củng
cố và luyện tập sau giờ dạy học văn là một việc làm không kém phần quan trọng
so với các việc làm tích cực khác. Đây là biện pháp để giáo viên kiểm tra kết
quả học tập của học sinh, khắc sâu kiến thức sau giờ dạy học đồng thời khơi gợi
ở các em những hướng suy nghĩ, tư duy sáng tạo, những tìm tòi mới mẻ thông
qua tác phẩm văn học.
Tuy nhiên, trên thực tế, theo tinh thần đổi mới phương pháp và thiết kế bài
dạy thì khâu củng cố và luyện tập đã được đặt ra song khi tiến hành vẫn chưa
được coi trọng. Phần vì học sinh quá chú trọng vào phần phân tích, phần vì việc
phân bố thời gian chưa hợp lí nên thời gian cho khâu củng cố và luyện tập vẫn bị
hạn chế. Mặt khác, nhiều giáo viên coi đây là việc làm “phụ” trong một giờ học
nên còn đại khái, qua loa. Thông thường, sau khi phân tích tác phẩm, giáo viên
lo tổng kết một số ý về nội dung và nghệ thuật là coi như hoàn thành bài học,
phần củng cố và luyện tập hầu như giáo viên yêu cầu học sinh tự làm ở

nhà. Chính vì lẽ đó, sau tiết học, nhiều học sinh vẫn chưa nắm vững kiến thức cơ
bản và chưa vận dụng được vào thực tế bài làm của mình.
Bên cạnh đó, nhìn lại chương tình sách giáo khoa Ngữ văn 12-Học kỳ 1 ta
thấy chương trình đã dành một phần lớn dung lượng cho việc học văn bản thơ.
Thực tế là đã có 11 trên 50 tiết là văn bản thơ (trong đó chủ yếu là thơ ca kháng
chiến). Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh là cho dù học sinh có thuộc thơ thì cũng
không nắm vững nội dung cũng như đặc sắc nghệ thuật của từng đoạn và cả bài
3


thơ. Từ đó, học sinh lúng túng trong việc vận dụng kiến thức cơ bản để làm phần
thi đọc hiểu trong yêu cầu của đề thi mới.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, để giúp học sinh nắm vững kiến thức
văn bản thơ và vận dụng nó trong làm văn, tôi đã đã tìm tòi, nghiên cứu và thực
nghiệm khá thành công. Sau đây, tôi xin trình bày một trong những kinh nghiệm
mà tôi đã thực hiện trong 2 năm học gần đây đạt được hiệu quả cao, đó là:
“Sử dụng sơ đồ để củng cố bài học nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy
học phần văn bản thơ môn Ngữ văn lớp 12”.
1.2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài này nhằm mục đích giúp học sinh:
+Xác định được vai trò quan trọng của phần củng cố bài học
+Biết lập sơ đồ củng cố bài học phần văn bản thơ lớp 12 và vận dụng đối với
các văn bản khác
+Nắm vững kiến thức bài học thông qua sơ đồ đã củng cố
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Củng cố bài học phần văn bản thơ lớp 12(học kỳ 1) thông qua sơ đồ
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để tổ chức được các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo cho học
sinh, tôi đã vận dụng các phương pháp trong dạy học văn theo tinh thần đổi mới
như sau:
- Phương pháp đọc sáng tạo.

- Phương pháp gợi tìm.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp tái tạo.
- Phương pháp tổng hợp - so sánh bằng sơ đồ.

4


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được thể hiện
trong Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X
về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: “xây dựng một nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới, nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt
Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên
thế giới”. Văn bản đồng thời yêu cầu: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
phải quán triệt về mục tiêu, yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục của các bậc
học, cấp học quy định trong giáo dục, khắc phục những mặt hạn chế của chương
trình, sách giáo khoa, tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học,
coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, bổ sung những thành tựu khoa học
và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.....”.
Cùng với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là đổi mới sách
giáo khoa phổ thông phù hợp với mục tiêu giáo dục quy định trong luật giáo
dục. Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc đổi
mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định
trong Nghị quyết trung ương 4 khóa VII (Tháng 01 năm 1993), Nghị quyết trung
ương 2 khóa VIII (Tháng 12 năm 1996) được thể chế hóa trong luật giáo dục
(2005) được cụ thể hóa các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt là chỉ thị

số 14 (Tháng 4 năm 1999). Luật giáo dục, điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh”.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ – BGD&ĐT ngày 05/5/2006 xác định rõ:
“Môn Ngữ văn ở cấp PTTH nhằm giúp học sinh: Có những kiến thức phổ
thông, cơ bản, hiện đại hệ thống về văn học và Tiếng Việt bao gồm: Kiến thức
về các tác phẩm tiêu biểu cho các thể loại cơ bản của văn học Việt Nam và một
số tác phẩm, đoạn trích văn học nước ngoài. Những hiểu biết về lịch sử văn học
và một số vấn đề lí luận văn học cần thiết... (cách tiếp nhận và tạo lập). Hình
thành và phát triển các năng lực ngữ văn với yêu cầu cao hơn cấp THCS bao
gồm: Năng lực sử dụng Tiếng Việt (thể hiện bốn kĩ năng cơ bản: đọc, viết, nghe,
nói), năng lực tiếp nhận văn học, cảm thụ, thẩm mĩ, năng lực tự học, năng lực
thực hành ứng dụng.”
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới ra đề thi THPT quốc gia từ năm 2014 của Bộ GD
và ĐT trong đó tăng cường kiểm tra kiến thức cơ bản của học sinh thông qua phần
đọc- hiểu mà theo PGS TS Đỗ Ngọc Thống, Phó Vụ Trưởng Vụ GD Trung học,
Bộ GD&ĐT, để đồng bộ trong đổi mới căn bản toàn diện việc dạy học môn Văn
trong nhà trường phổ thông, khâu kiểm tra đánh giá cũng phải chuyển theo
5


hướng đánh giá được năng lực của học sinh. Với môn Văn THPT, năng lực này
thể hiện “đông đặc” trong các kỹ năng đọc, hiểu và tạo lập văn bản..
2.2. Thực trạng của vấn đề
a. Củng cố bài học, vai trò của củng cố bài học trong phần đọc – hiểu
văn bản
Củng cố bài học là khâu cuối cùng trong phần đọc hiểu văn bản văn

học,nhằm mục đích tổng kết đánh giá lại kiến thức của toàn bài,giúp học sinh
ghi nhớ,khắc sâu kiến thức và vận dụng nó trong thực tiễn làm văn.
Trong thực tế, đối với một giờ học văn phần củng cố bài học có ý nghĩa
khá quan trọng. Mặc dù chỉ chiếm một khoảng thời gian ít ỏi (khoảng từ 3 đến 5
phút) trong một tiết học nhưng nó đã mang đến những hiệu quả nhất định:
Đây là biện pháp để giáo viên kiểm tra kết quả học tập của học sinh, khắc sâu
kiến thức sau giờ dạy học đồng thời khơi gợi ở các em những hướng suy nghĩ, tư
duy sáng tạo, những tìm tòi mới mẻ thông qua tác phẩm văn học nhằm từng
bước khắc phục tình trạng thụ động trong lĩnh hội kiến thức, khẳng định vai trò
chủ động sáng tạo của học sinh.
Góp phần khắc phục những bất cập của phương pháp dạy học văn theo lối
truyền thụ một chiều. kích thích năng lực sáng tạo tự thân của học sinh để quá
trình dạy học văn trở thành quá trình học sinh tự phát triển trí tuệ, hoàn thiện
nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn cho các em
Khơi gợi những sáng tạo trong suy nghĩ, hình thành năng lực tư duy văn học cho
học sinh. Tổ chức được các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo cho học
sinh chính là giáo viên đã phát huy được vai trò chủ động, tích cực của học sinh
trong quá trình học tập thông qua việc lĩnh hội kiến thức sau giờ học.
b. Cấu trúc, thời lượng của văn bản thơ trong chương trình SGK Ngữ
văn 12-Học kỳ 1
STT
1
2
3
4
5
6
7

Tác giả,Tác phẩm

Tây Tiến- Quang Dũng
Việt Bắc- Tố Hữu
Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm
Đọc thêm: Đất Nước- Nguyễn Đình Thi
Dọn về làng- Nông Quốc Chấn
Tiếng hát con tàu- Chế lan Viên
Đò lèn- Nguyễn Duy
Sóng- Xuân Quỳnh
Đàn ghita của Lorca- Thanh Thảo
Bác ơi- Tố Hữu

Số tiết theo PPCT
2
2
2
2
1
1
1

Nhìn vào cấu trúc chương trình Ngữ văn 12 –Học kỳ 1 ta nhận thấy,thời lượng
dành cho phần văn bản thơ cũng khá nhiều.Như vậy mục đích của người biên
soạn là nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về các thể loại thơ cho học sinh
6


c. Thực trạng của vấn đề
* Giáo viên chưa thực sự quan tâm đến phần củng cố bài học sau khi
đọc hiểu văn bản
Giờ dạy học văn bao gồm các khâu: đọc, tìm hiểu tác giả, tác phẩm, phân tích

tác phẩm, tổng kết và củng cố luyện tập. Theo tinh thần đổi mới phươ ng pháp
và thiết kế bài dạy thì khâu củng cố và luyện tập đã được đặt ra song khi tiến
hành vẫn chưa được coi trọng. Phần vì học sinh quá chú trọng vào phần phân
tích, phần vì việc phân bố thời gian chưa hợp lí nên thời gian cho khâu củng cố
và luyện tập vẫn bị hạn chế.
Thực tế dạy học đã có nhiều giáo viên chú ý đến khâu củng cố và luyện tập của
học sinh nhưng cũng nhiều giáo viên coi đây là việc làm “phụ” trong một giờ
học nên còn đại khái, qua loa. Thông thường, sau khi phân tích tác phẩm, giáo
viên lo tổng kết một số ý về nội dung và nghệ thuật là coi như hoàn thành bài
học, phần củng cố và luyện tập hầu như giáo viên yêu cầu học sinh tự làm ở nhà.
Một số giờ học đã chú ý đến phần củng cố và luyện tập nh ưng việc kích thích
cảm thụ còn hạn chế do không ít những câu hỏi không thích hợp
* Thời gian dành cho việc củng cố bài học còn ít
Nếu như giờ học Tiếng Việt, thời gian luyện tập chiếm tới 30% trong một tiết
học thì với giờ dạy học Văn, thời gian dành cho phần củng cố và luyện tập
chiếm rất ít (chỉ từ 3 đến 5 phút cho bài học có phân phối chương trình 1 tiết và
từ 7đến 10 phút cho bài học có phân phối chương trình 2 tiết trở lên)
Nhìn lại phân phối chương trình môn Ngữ văn 12-HK 1.Toàn bộ chương trình
học kỳ 1 có tổng số 50 tiết,trong đó có 17 tiết dành cho luyện tập tiếng việt và
làm văn.Chưa kể sau mỗi bài tìm hiểu kiến thức về Tiếng Việt và làm văn đều có
câu hỏi luyện tập và củng cố trong khoảng 10 phút.Trong khi đó,phần củng cố
bài học trong giờ học văn bản lại chưa được quan tâm.Như vậy chương trình chủ
yếu quan tâm đến việc rèn cho học sinh kỹ năng mà chưa chú ý đến việc khắc
sâu kiến thức cho học sinh.Chính vì lẽ đó, mà nhiều giáo viên còn chưa chú
trọng đến việc củng cố bài học cho học sinh sau mỗi tiết dạy của mình.Trong khi
đó kiến thức của phần văn bản thơ thì nhiều (có 11/50 tiết).Học sinh lại chủ yếu
phải sử dụng phần kiến thức này để tham dự kỳ thi THPT Quốc gia khi mà bản
thân các em chưa thực sự vững vàng
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
a. Giải pháp

* Về nội dung
Có thể nói, các hình thức củng cố luyện tập trong dạy học tác phẩm văn chương
không thể giống các hình thức củng cố luyện tập trong một giờ học bình thường.
Thực tế, giờ dạy học tác phẩm văn chương không chỉ đem tới thông tin mà
thường kích thích để “bùng nổ thông tin” theo nhiều kiểu, nhiều dạng, nhiều góc
độ. Giờ dạy học tác phẩm văn chương đã có thể kết thúc nhưng những vấn đề về
hình tượng văn học vẫn tiếp tục lung linh phát triển và “nổ vỡ lặng im” trong
tâm hồn các em. Chính trong phần củng cố luyện tập, nhiều học sinh đã có
những phát hiện khá lí thú, độc đáo và sáng tạo. Thiết nghĩ trong xu thế đổi mới
7


phương pháp dạy học văn, cần phải trả giờ văn chương lại cho bản chất giao tiếp
nghệ thuật, định hướng sư phạm cải tiến phải tạo nhiều thời gian cho học sinh
tiếp xúc với bài văn trước, trong và sau khi học để “cuộc giao tiếp im lặng thực
sự diễn ra trong giao tiếp văn chương”.
Đa dạng các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo cho học sinh trong
giờ văn còn để kích thích những rung động tâm hồn, niềm hứng khởi sáng tạo và
khát khao mạnh mẽ của học sinh trước sức hấp dẫn kì diệu mà thế giới nghệ
thuật gợi nên.
Kết thúc phần củng cố luyện tập nhưng suy nghĩ về tác phẩm không đóng
lại mà những vấn đề xung quanh tác phẩm còn mở ra để tạo được “dư âm”, “dư
vị” tiếp tục Có những vấn đề, các em chỉ giải quyết được phần nào ở lớp hoặc
giải quyết xong cả nhưng những ám ảnh của nó thì không thể chấm dứt ngay
trong suy nghĩ của các em.
Phát huy tính sáng tạo cho học sinh qua các hình thức củng cố và luyện
tập trong giờ dạy học văn là rất quan trọng cầ n thiết nhưng giáo viên phải biết
định hướng sự tiếp nhận văn học của học sinh. Dù sáng tạo hay đến mấy, độc
đáo đến mấy vẫn phải tuân thủ tính giới hạn, dựa trên lôgíc và cấu trúc đặc trưng
của hình tượng văn học, ý đồ sáng tạo, tư tưởng của nhà văn và mục tiêu giáo

dục.
Tổ chức các hình thức củng cố luyện tập sáng tạo cho học sinh còn phải
tuỳ thuộc vào đặc điểm, yêu cầu riêng của mỗi bài học và phù hợp với từng đối
tượng học sinh, tránh sự lặp lại đơn điệu hoặc áp dụng một cách máy móc. Vì
thế cùng với việc lựa chọn khả năng thích hợp đối với từng đối tượng là yêu cầu
vận dụng linh hoạt, uyển chuyển các hình thức, việc làm mới hi vọng tạo ra
hứng thú sáng tạo của học sinh. Để làm tốt khâu này thì người giáo viên cần
phải có một kĩ năng trong việc vận dụng phương pháp dạy học.
* Về phương pháp
Để tổ chức được các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo cho học
sinh, tôi đã vận dụng các phương pháp trong dạy học văn theo tinh thần đổi mới
như sau:
- Phương pháp đọc sáng tạo.
- Phương pháp gợi tìm.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp tái tạo.
- Phương pháp tổng hợp - so sánh bằng sơ đồ.
Với mỗi bài, việc vận dụng từng biện pháp có khác nhau hoặc có thể đan
xen của nhiều phương pháp. Từ các phương pháp đó, giáo viên tiến hành tổ chức
cho học sinh củng cố và luyện tập ngay trong giờ học; bằng hệ thống câu hỏi,
giáo viên đưa ra những yêu cầu để học sinh phát hiện, thảo luận và giáo viên
định hướng cho học sinh vào đúng với chủ đề tư tưởng, mục đích giáo dục của
tác phẩm.
Có nhiều hình thức và biện pháp thực hiện thao tác củng cố bài học, ở đây
tôi chỉ xin được nêu ra một số thao tác tiêu biểu sau:
8


- Tiến hành đọc diễn cảm toàn bộ đoạn trích, tác phẩm
- Tìm hiểu nội dung.

- Nhận xét nghệ thuật.
- Tập so sánh, khái quát lập bảng biểu sơ đồ để khái quát kiến thức cho nội dung
bài học
b. Tổ chức thực hiện:
Sử dụng sơ đồ để củng cố bài học trong giờ học phần văn bản thơ môn Ngữ
văn 12
Trên thực tế dạy học cho thấy học sinh có nắm vững mở rộng và khái quát
được kiến thức hay không một phần lớn phụ thuộc vào bước củng cố của tiết
học. Nếu thầy coi nhẹ bước này, học sinh sẽ không thể nhớ lâu, rất khó vận dụng
vào việc làm các bài tập . Ngược lại thầy coi trọng, kiến thức sẽ đọng lại và ám
ảnh mãi trong các em, tạo nên mối liên hệ kích thích tìm tòi trong sự vận dụng
làm các bài tập ở phần luện tập được tốt hơn.
Để củng cố bài học đạt được hiệu quả cao chúng ta có thể vận dụng nhiều
cách khác nhau như: Đặt câu hỏi mang tính khái quát để học sinh tổng quát lại
giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cũng như ý ngh ĩa của bài học… Song tôi thiết
nghĩ có một biện pháp đạt hiệu quả cao hơn cả đó là dùng bảng phụ có tính Tổng
hợp – so sánh. Cái khó của biện pháp này là thầy cần phải dành thời gian nghiên
cứu kĩ lưỡng để mỗi bài học đưa ra được một sơ đồ có tính Tổng hợp – so sánh,
khái quát toàn bộ kiến thức của bài học. Và để thực hiện được cách làm này thì
giáo viên cần chuẩn bị trước vào bảng phụ hoặc thiết kế vào máy (nếu có), chỉ
đến bước củng cố mới đưa ra sử dụng. Để phát huy tối đa tác dụng của bảng phụ
này thầy có thể dùng kết hợp các biện pháp: hỏi – đáp, diễn giảng, thảo luận,
trình bày, … Nhưng xin lưu ý rằng dùng biện pháp nào và dùng như thế nào,
cách thức ra sao còn tuỳ thuộc vào đối tượng thực tế của học sinh trong từng tiết
học cụ thể
Dưới đây, tôi xin đưa ra một số sơ đồ cụ thể cho phần củng cố trong giờ
học văn bản thơ lớp 12
*.Văn bản Tây tiến của Quang Dũng (Ngữ văn 12-Cơ bản)

Tây Tiến

14 câu đầu: Nỗi
nhớ về thiên
nhiên Tây Bắc
và hình ảnh
người lính trên
chặng đường
hành quân

8 câu tiếp: Nỗi
nhớ Tây tiến
hào hoa
-Cảnh đêm liên
hoan văn nghệ
-Cảnh sông
nước Tây Bắc

8 câu tiếp:Vẻ
đẹp của hình
tượng người
lính tây tiến
-Về ngoại hình
-Về phẩm
chất,tính cách

4 câu cuối: Lời
thề,lời hẹn ước
lên đường

9



Nghệ thuật:
-Sử dụng điệp từ: Nhớ..
-Sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ: Súng ngửi trời,đêm hơi
-Nghệ thuật đối lập: hình ảnh,thanh điệu
*Văn bản Việt Bắc của Tố Hữu (Ngữ văn 12-Cơ bản-Học kỳ 1)

Việt Bắc
8 câu đầu: Khúc
dạo đầu của cuộc
chia ly
-Bốn câu đầu: Sự
băn khoăn lo lắng
của người ở lại
- Bốn câu đầu: Sự
xúc động nghẹ ngào
của người ra đi

12 câu tiếp: Việt
Bắc gợi nhớ
-Gợi nhớ thiên nhiên
-Gợi nhớ cuộc sống
kháng chiến
-Gợi nhớ con người
kháng chiến

Còn lại: Người
Cán bộ kháng
chiến bộc lộ nỗi
nhớ

-Nhớ cuộc
sống,con người
Việt Bắc
-Nhớ thiên nhiên
-Nhớ không khí
kháng chiến

Nghệ thuật:
-Thể thơ lục bát.Sử dụng sáng tạo cặp đại ta mình ta cùng kết cấu đối đáp giao
duyên truyền thống tạo nên giọng thơ tâm tình ngọt ngào đậm đà tính dân tộc
-Ngôn ngữ hình ảnh giản dị,quen thuộc,mang đặc trưng riêng của Việt Bắc
-Sử dụng nhiều biện pháp tu từ:Ẩn dụ,so sánh
*Văn bản Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm (Ngữ văn 12-Cơ bản)

Đất Nước
9 câu đầu: Đất
Nước có tự bao giờ
-Từ thuở xa xưa
-Bắt đầu: với miếng
trầu bà ăn
-Lớn lên: Bằng

33 câu tiếp: Đất
Nước là gì
-Là không gian bình
dị,gần gũi
-Là thời gian lịch sử
từ quá khứ đến hiện

Còn lại:Đất nước

do ai làm nên
-Về địa lý
-Về lịch sử
-Về văn hóa:
->Khẳng định
10


truyền thống và
phong tục tốt đẹp

tại và tương lai
-Gắn với trách nhiệm
của cá nhân

chính nhân dân
đã làm nên Đất
Nước

Nghệ thuật:
-Sử dụng tài tình và hiệu quả chất liệu văn hóa dân gian như: Ca dao,truyền
thuyết,cổ tích và mang đến cho nó một màu sắc mới
-Giọng thơ chân thành,tha thiết như một lời nhắn nhủ tâm tình
-Đậm chất trữ tình và chính luận
*Văn bản Sóng của Xuân Quỳnh (Ngữ văn 12-Cơ bản)

Sóng
Khổ 1, khổ 2
Trạng thái của sóng và tình yêu
-Trạng thái:dữ dội,ồn ào,dịu êm và

lặng lẽ
- Khát vọng tìm đến một tình yêu
đích thực

Khổ 5 – Khổ 9
Quy luật của tình yêu
-Tình yêu là thế giới bí ẩn
-Yêu là nhớ
-Yêu là chung thủy
-Yêu là khát vọng dâng hiến

Nghệ thuật
-Kết cấu sóng đôi giữa hai hình tượng Sóng và em
-Thể thơ ngũ ngôn,nhiều khổ,mỗi khổ bốn dòng,giữa các khổ thường có âm tiết
cuối hiệp vần tạo nên âm hưởng,nhịp điệu của những đợt sóng
- Sử dụng nhiều cặp câu đối xứng
*Văn bản Đàn ghita của Lorca của Thanh Thảo (Ngữ văn 12-Cơ bản)

Đàn ghita của Lorca
6 câu đầu: Lorca
người nghệ sĩ tự do
-Không gian văn
hóa Tây Ban Nha

12 câu tiếp: Lorca
người nghệ sĩ bất hạnh
-Lorca trước khi bị
bắn

13 câu cuối: Sự bất tử

của Lorca và suy tư
của Thanh Thảo
-Sự bất tử của Lorca
11


-Hình ảnh Lorca

-Cái chết bi thảm của
Lorca

-Suy tư của Thanh
Thảo

Nghệ thuật:
-Thể thơ tự do,không viết hoa đầu dòng,không sử dụng dấu câu
-Hình thức trùng điệp: về hình ảnh,âm điệu
-Kết thúc:mở
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua việc tổ chức thực hiện củng cố bài học trong giờ học văn bản thơ chương
trình SGK Ngữ văn 12-học kỳ 1 trong năm học 2014-2015 và 2015-2016 tôi nhận
thấy :
- Đa số học sinh nắm vững kiến thức cơ bản và vận dụng tốt vào việc làm phần đọc –
hiểu theo yêu cầu đổi mới ra đề thi theo hướng phát triển năng lực của học sinh.
- Đa số học sinh phát triển năng lực sáng tạo của bản thân.Trên cơ sở các sơ đồ củng cố
bài học giáo viên đã cho học sinh có thể triển khai tiếp ở các văn bản khác.
Kết quả cụ thể như sau :
Sau đây là bảng thống kê điểm bài kiểm tra học kỳ II trong hai năm học
2014-2015 và 2015-2016 có sự so sánh đối chiếu giữa những lớp có sử dụng
phương pháp củng cố bài học theo sơ đồ và những lớp không thực hiện phương

pháp này
1. Bài kiểm tra học kỳ II – Năm học 2014 – 2015
Tổng
số
45

Điểm
Ghi chú
Lớp
0-2
3- 4
5-6
7-8
9-10
12A2
0
0
10
34
1
100% TB
(22,2%) (75,6%) (3,2%) trở lên
12A7
43
0
10
20
13
0
76,7%TB

(23,3%) (46,5%) (30,2%)
trở lên
*Lưu ý: Lớp 12A2: Thực hiện việc củng cố bài học theo sơ đồ
Lớp 12A7: Không thực hiện việc củng cố bài học theo sơ đồ
2. Bài kiểm tra học kỳ II – Năm học 2015 – 2016
Tổng
số
48

Điểm
Lớp
0-2
3- 4
5-6
7-8
9-10
12A5
0
0
10
37
1
(20,8%) (77,1%) (3,1%)
12A6
37
0
10
20
7
0

(27,0%) (54,1%) (18,9%)
*Lưu ý: Lớp 12A5: Thực hiện việc củng cố bài học theo sơ đồ

Ghi chú
100% TB
trở lên
73% TB
trở lên

12


Lớp 12A6: Không thực hiện việc củng cố bài học theo sơ đồ
3. Kết luận,kiến nghị:
- Kết luận: Qua thời gian thử nghiệm phương pháp củng cố bài học theo
sơ đồ trong giờ học phần văn bản môn ngữ văn tôi rút ra mộ số nhận xét sau:
+ Phương pháp này có thể giúp học sinh nắm chắc các phần kiến thức cơ
bản mà sách giáo khoa đã đưa, chính vì vậy giáo viên cần đa dạng các hình thức
củng cố bài học trong giờ học văn bản môn ngữ văn để kích thích những rung
động tâm hồn,niềm hứng khởi sáng tạo và khát khao mạnh mẽ của học sinh
trước sức hấp dẫn kỳ diệu mà thế giới nghệ thuật gợi nên.
+ Kết thúc phần củng cố những suy nghĩ về tác phẩm không đóng lại mà
những vấn đề xung quanh tác phẩm còn mở ra. Vì vậy phương pháp này cần
được vận dụng một cách linh hoạt thường xuyên đề cập đến những vấn đề mà
học sinh quan tâm và có hứng thú tránh sự nhàm chán.
+ Phát huy tính sáng tạo cho học sinh qua các hình thức củng cố trong
giờ dạy học văn là rất quan trọng cần thiết nhưng giáo viên phải biết định hướng
sự tiếp nhận văn học của học sinh. Dù sáng tạo hay đến mấy, độc đáo đến mấy
vẫn phải tuân thủ tính giới hạn, dựa trên lôgíc và cấu trúc đặc trưng của hình
tượng văn học, ý đồ sáng tạo, tư tưởng của nhà văn và mục tiêu giáo dục.

+ Tổ chức các hình thức củng cố luyện tập sáng tạo cho học sinh còn phải
tuỳ thuộc vào đặc điểm, yêu cầu riêng của mỗi bài học và phù hợp với từng đối
tượng học sinh, tránh sự lặp lại đơn điệu hoặc áp dụng một cách máy móc. Vì
thế cùng với việc lựa chọn khả năng thích hợp đối với từng đối tượng là yêu cầu
vận dụng linh hoạt, uyển chuyển các hình thức, việc làm mới hi vọng tạo ra
hứng thú sáng tạo của học sinh. Để làm tốt khâu này thì người giáo viên cần
phải có một kĩ năng trong việc vận dụng phương pháp dạy học.
- Kiến nghị:
Trên đây là toàn bộ những nội dung sáng kiến kinh nghiệm mà cá nhân tôi
đã tiến hành thực nghiệm trong hai năm học 2014-2015 và 2015-1016, chắc hẳn
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.Chính vì vậy, rất mong ý kiến đóng góp bổ
sung của các đồng nghiệp, để sáng kiến có giá trị tốt hơn đối với công tác giảng
dạy, công tác hướng dẫn học sinh ôn tập kiến thức cơ bản nhằm chuẩn bị những
điều kiện tốt nhất để bước vào kỳ thi THPT Quốc gia.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 16 tháng5 năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết,không sao chép nội dung của
người khác

Hồ Thị Ly
13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2008), Sách giáo khoa Ngữ Văn 12 (chương
trình chuẩn). NXB Giáo dục Việt Nam.
[2].Đỗ Kim Hồi – Bùi Minh Toán (Đồng chủ biên) (2008),Tư liệu Ngữ văn
12.NXB giáo dục Việt Nam.
[3]. Vũ Nho (Chủ biên) (2014), Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông

môn Ngữ Văn (năm 2013-2014) ,NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4]. Lê Bá Hán (Chủ biên) (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB giáo dục Việt
Nam

14



×