Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi để nâng cao hiệu quả trong việc dạy đọc hiểu văn bản tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.26 KB, 19 trang )

MUC

TÓM LƯỢC NỘI DUNG

TRANG

Mục lục
A

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1

Lý do chọn đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu

1

3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2


4

Phương pháp nghiên cứu

2

B

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.1. Thực trạng trong việc xây dựng và phân loại hệ thống
câu hỏi của người dạy
2.2. Thực trạng trong việc tiếp thu và trả lời câu hỏi của giáo
viên ở người học
Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề

2

3.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi

4

3.2. Phân loại hệ thống câu hỏi


6

3.2.1. Loại câu hỏi đóng

7

3.2.2. Loại câu hỏi mở

8

3.3. Sử dụng hệ thống câu hỏi

10

3.3.1. Cách thức vận dụng

10

3.3.2. Hệ thống câu hỏi minh họa trong một bài học cụ thể

11

Hiệu quả vận dụng

15

4.1. Hiệu quả vận dụng của bản thân

15


4.2. Triển khai trước tổ chuyên môn

16

2

3

4

C

3

3
4

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

16

TÀI LIỆU THAM KHẢO

18

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1



1. Lý do chọn đề tài
Dạy học tác phẩm văn học trong trường phổ thông là công việc không hề
đơn giản, nó yêu cầu ở người dạy cả về tư duy lôgic, tư duy trừu tượng và tư duy
hình tượng, những xúc cảm thẩm mĩ phong phú, khả năng chiếm lĩnh đối tượng
qua văn bản ngôn từ nghệ thuật, cùng với đó là việc tổ chức, định hướng các
hoạt động để khơi gợi hứng thú, cảm xúc và tư duy để người học cùng khám phá
và chiếm lĩnh tác phẩm. Hiệu quả và chất lượng của việc dạy học đọc - hiểu văn
bản văn học được quyết định một phần quan trọng ở hệ thống câu hỏi được
người thầy xây dựng và vận dụng.
Hệ thống câu hỏi trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản văn học là sự hiện thực
hoá "kịch bản" của mỗi một tiết học, vừa thể hiện năng lực chuyên môn vừa thể
hiện phương pháp dạy học của người thầy. Đồng thời, hệ thống câu hỏi mà giáo
viên chuẩn bị sẽ tác động trực tiếp, đánh thức tư duy và khơi gợi hứng thú của
học sinh đối với môn học nói chung và đối với mỗi bài học về tác phẩm cụ thể
nói riêng, nó giúp học sinh từng bước, từng mức độ từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, chiếm lĩnh văn bản tác phẩm, từ đó mở rộng những nhận thức về
cuộc sống, con người và về chính bản thân mình.
Nói đến hệ thống câu hỏi trong dạy học đọc - hiểu văn bản văn học là nói
đến thực tiễn dạy học hết sức phong phú và sinh động. Mỗi giáo viên, tuỳ thuộc
vào sự hiểu biết về văn bản tác phẩm, kinh nghiệm dạy học, phương pháp vận
dụng và cả về thói quen… sẽ có một hệ thống câu hỏi riêng. Trong mỗi bài dạy,
mỗi văn bản và ở mỗi thể loại khác nhau, hay đối với mỗi đối tượng học sinh
khác nhau, việc chuẩn bị và sử dụng hệ thống câu hỏi cũng sẽ khác nhau.
Từ những lí do trên và từ những kinh nghiệm thực tiễn dạy học của bản
thân, chúng tôi xin được trình bày đề tài sáng kiến kinh nghiệm với nội dung:
Xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi để nâng cao hiệu quả trong dạy học
đọc - hiểu văn bản tác phẩm văn học ở trường trung học phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là từ việc xây dựng và phân loại hệ
thống câu hỏi phù hợp, phát huy tính tự giác, chủ động và tích cực của học sinh

trong các tiết dạy đọc - hiểu văn bản các tác phẩm văn học, giúp học sinh chiếm
lĩnh tốt hơn các văn bản tác phẩm đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các loại câu hỏi được vận
dụng trong các tiết dạy học phần đọc - hiểu văn bản tác phẩm văn học trong nhà
trường phổ thông.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các văn bản tác phẩm văn học trong
chương trình THPT, bao gồm các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học
hiện đại, cả chương trình lớp 10, lớp 11 và lớp 12.
4. Phương phám nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi thường sử dụng chủ yếu các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê - phân loại;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp thực nghiệm;
- Phương pháp nêu ví dụ;
- Phương pháp diễn giải; …
- Phương pháp so sánh.
Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng kết hợp một số phương pháp khác.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Hoạt động dạy học nói chung và dạy học tác phẩm văn học nói riêng
không đơn thuần chỉ là sự truyền thụ kiến thức một chiều từ người dạy đến với
người học, mà đó là một hoạt động mang tính tương tác, đối thoại. Trong hoạt
động đó, người dạy đóng vai trò là người định hướng, dẫn dắt để người học chủ
động khám phá và lĩnh hội tri thức. Điều 5, Luật giáo dục Việt Nam nêu rõ:

"Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học khả năng tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên". Trong việc dạy học tác phẩm
văn học, muốn làm được điều đó thì người giáo viên cần tạo ra những đối thoại,
những trao đổi, thảo luận mang tính dân chủ mà chìa khoá của nó chính là việc
xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp.
Hệ thống câu hỏi trong giờ dạy học tác phẩm văn học (đọc - hiểu văn bản
văn học) là sự hiện thực hoá "kịch bản" của mỗi một tiết học, vừa thể hiện năng
lực chuyên môn vừa thể hiện phương pháp dạy học của người thầy. Hệ thống
câu hỏi mà giáo viên chuẩn bị sẽ tác động trực tiếp, đánh thức tư duy và khơi
3


gợi hứng thú của học sinh đối với môn học nói chung và đối với mỗi bài học về
tác phẩm cụ thể nói riêng, nó giúp học sinh từng bước, từng mức độ từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, chiếm lĩnh văn bản tác phẩm, giúp học sinh mở
rộng những nhận thức về cuộc sống, về con người và về chính bản thân mình.
Trong việc thiết kế giáo án đối với mỗi bài dạy về tác phẩm văn học, việc
xây dựng một khung nội dung kiến thức chuẩn là vô cùng quan trọng, song để
người học lĩnh hội được những nội dung đó thì cần có một hệ thống câu hỏi
khoa học và chính xác. Trên thực tế, để có một hệ thống câu hỏi có thể phát huy
được sự chủ động, sáng tạo của người học không phải là điều dễ dàng, nhiều khi
còn khó khăn hơn cả việc xây dựng khung nội dung kiến thức.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng trong việc xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi của người dạy
Hiện nay, trong xu hướng hiện đại hoá phương pháp dạy học thì việc dạy
học môn Ngữ văn nói chung và việc đặt câu hỏi trong các giờ dạy đọc - hiểu văn
bản tác phẩm văn học nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên việc
xây dựng hệ thông câu hỏi cũng như việc vận dụng chúng trong các bài dạy vẫn
tồn tại những hiểu hiện hạn chế cần phải khác phục.

Thứ nhất: sự phụ thuộc của một bộ phận giáo viên vào hệ thống câu hỏi
của SGK học sinh hoặc các sách thiết kế giáo án mẫu.
Thứ hai: sự thiếu đầu tư nghiên cứu hệ thống câu hỏi dẫn đến tình trạng
"hỏi cho có hỏi" mà không thực sự chú trọng đến việc những câu hỏi đó có phù
hợp với nội dung bài học và đối tượng người học hay không.
Thứ ba: sự đơn điệu trong cách thức đặt câu hỏi dẫn đến sự nhàm chán
đối với người học.
Thứ tư: khoảng cách giữa đời sống văn hoá xã hội với các tác phẩm văn
học trong nhà trường cũng là một khó khăn cho cả người dạy trong việc đặt câu
hỏi và người học trong việc lĩnh hội và giải quyết câu hỏi.
2.2. Thực trạng trong việc tiếp thu và trả lời câu hỏi của giáo viên ở người học
Xuất phát từ thực trạng xây dựng và phân loại cũng như việc nêu câu hỏi
của giáo viên mà dẫn đến một số hiện tượng phổ biến trong việc tiếp thu và trả
lời câu hỏi ở học sinh như sau:
Thứ nhất: học sinh dựa vào các loại sách tham khảo để trả lời mà bản thân
không hiểu bản chất của câu trả lời ấy.

4


Thứ hai: học sinh dựa vào phần giới thiệu về tác giả - tác phẩm hoặc văn
bản tác phẩm để trả lời theo kiểu liệt kê những chi tiết có liên quan đến nội dung
câu hỏi mà không hiểu những chi tiết đó có ý nghĩa như thế nào.
Thứ ba: học sinh tỏ ra thờ ơ hoặc bất lực trước các câu hỏi của giáo viên.
Thứ tư: học sinh trả lời theo sự suy diễn hoặc trả lời tùy tiện cho xong việc.
Thứ năm: có một số ít học sinh chịu khó suy nghĩ để tìm ra phương án trả
lời. Tuy nhiên, một bộ phận trong số này lại "lười" trình bày ý kiến của mình do
thói quen tiếp thu kiến thức một chiều đã được hình thành từ trước.
Thực trạng đó yêu cầu mỗi người giáo viên phải suy nghĩ, cân nhắc và lựa
chọn kĩ càng hệ thống câu hỏi được vận dung trong mỗi bài dạy tác phẩm văn học.

3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề
3.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi
Đây là khâu phải chuẩn bị kĩ lưỡng trong giáo án và có thể xem là phần
"biên kịch" cho kịch bản của mỗi tiết, mỗi bài dạy. Tuỳ thuộc vào từng bài dạy
khác nhau mà việc xây dựng hệ thống câu hỏi cũng khác nhau. Tuy nhiên, trong
tính phổ quát của việc dạy học văn và việc thiết kế giáo án thì việc xây dựng hệ
thống câu hỏi cho mỗi tiết dạy về tác phẩm văn học thường phải qua các bước sau:
Bước thứ nhất: Đọc và nghiên cứu văn bản tác phẩm.
Đây là bước chuẩn bị nội dung cho bài dạy để từ nội dung mà xây dựng câu
hỏi. Muốn dẫn dắt học sinh khám phá văn bản tác phẩm thì trước hết người thầy phải
là người khám phá và chiếm lĩnh một cách toàn diện và sâu sắc về nó. Nếu không
chiếm lĩnh được tác phẩm, không xác định được những nội dung trọng tâm, cơ bản
của tác phẩm thì không thể xây dựng được hệ thống câu hỏi cần thiết.
Ví dụ: khi dạy truyện ngắn Chí Phèo, yêu cầu người dạy phải chiếm lĩnh và
nắm vững chắc các nội dung như: đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng
Tám trong sáng tác của Nam Cao, đặc điểm ngòi bút và quan niệm nghệ thuật của
nhà văn; chủ đề của tác phẩm; đặc sắc của cốt truyện; hình tượng nhân vật trung
tâm; tình huống truyện; những bi kịch về số phận và phẩm chất của nhân vật; dụng
ý nghệ thuật trong mỗi chi tiết tiêu biểu v.v...
Bước thứ hai: Nghiên cứu mục đích và yêu cầu của bài học.
Tác phẩm văn học bao giờ cũng chứa đựng nhiều nội dung, nhất là những
tác phẩm có giá trị được tuyển chọn vào chương trình THPT. Dạy học tác phẩm
văn học không phải là dạy về tất cả những nội dung mà tác phẩm ấy có. Mỗi bài
dạy về tác phẩm văn học đều có những yêu cầu và mục đích cần đạt, vì vậy nên
5


người giáo viên phải nghiên cứu kĩ lưỡng những yêu cầu và mục đích đó để có
những câu hỏi đúng, trúng và phù hợp.
Ví dụ: Khi dạy Chí Phèo, người thầy không thể đem tất cả những điều

mình biết về tác phẩm để dạy cho học sinh, mà phải bám sát vào mục đích và yêu
cầu chủ yếu của bài học là giúp học sinh phân tích được các nhân vật, đặc biệt là
nhân vật Chí Phèo, để qua đó thấy được giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo
sâu sắc, mới mẻ của nhà văn; đồng thời từ việc phân tích đó để nắm được một số
nét nghệ thuật đặc sắc của ngòi bút Nam Cao thể hiện trong tác phẩm. Xác định
đúng mục đích, yêu cầu của bài học sẽ định hướng đúng cho giáo viên trong việc
xây dựng hệ thống câu hỏi đi vào trọng tâm của vấn đề.
Bước thứ ba: Xây dựng bố cục cho bài dạy.
Mỗi bài dạy về tác phẩm văn học được thực hiện trong một quá trình, có thể là
một, hai hoặc ba tiết học. Trong mỗi bài, mỗi tiết lại có những mục, những phần nội
dung kiến thức được phân chia theo một bố cục nhất định, vừa đảm bảo tính khoa học,
hệ thống, vừa đảm bảo tính văn chương. Việc xây dựng một bố cục hợp lí cho các
phần, các mục trong một bài dạy là rất quan trọng, từ đó mà giáo viên xây dựng được
những câu hỏi tương ứng để "mã hoá" những nội dung kiến thức đó.
Bố cục của một bài dạy về tác phẩm văn học thông thường gòm có 4 phần
chính là Tiểu dẫn giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm; Đọc hiểu văn bản để khai
thác, khám phá các tầng ý nghĩa, các phương diện nội dung và những đặc sắc nghệ
thuật của tác phẩm; phần khái quát - ghi nhớ những kiến thức trọng tâm và phần
định hướng ôn tập để củng cố và mở rộng kiến thức. Trong những phần đó thì nội
dung và hình thức của các câu hỏi phải khác nhau, riêng phần đọc - hiểu văn bản thì
hình thức câu hỏi lại càng phong phú.
Bước thứ tư: Xây dựng và lựa chọn hệ thống câu hỏi
Đây là bước hoàn tất của việc xây dựng hệ thống câu hỏi cho một bài dạy
học về tác phẩm văn học. Về bản chất thì đó là sự "mã hoá" những nội dung kiến
thức cần đạt để định hướng cho học sinh giải mã và chiếm lĩnh. Có rất nhiều
cách đặt câu hỏi, cũng có rất nhiều loại câu hỏi, vấn đề là đặt câu hỏi như thế
nào và lựa chọn loại nào cho phù hợp.
Theo kinh nghiệm của tôi, cách tốt nhất để đặt câu hỏi là nội dung nào thì câu
hỏi đó và nội dung đến đâu thì câu hỏi đến đó. Mặt khác, cần đặt ra nhiều câu hỏi với
những mức độ và hình thức khác nhau cho việc giải quyết một nội dung theo kiểu

một câu hỏi chính và những câu hỏi bổ sung: một câu hỏi tình huống có vấn đề hoặc
6


một câu hỏi suy luận, câu hỏi so sánh, đánh giá hay vận dụng, cần phải có thêm
những câu hỏi tái hiện, gợi mở để học sinh từng bước, từng phần chiếm lĩch tri thức.
Ví dụ: Với nội dung ý nghĩa việc Huấn Cao đồng ý cho chữ viên quan ngục
(truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân), giáo viên có thể đặt ra câu hỏi
chính như sau: Việc đồng ý cho chữ viên quản ngục đã thể hiện được điều gì về nhân
cách của Huấn Cao?
Và để HS có thể trả lời được câu hỏi đó thì cần có những câu hỏi dẫn dắt, gợi
ý như: Bình thường thì trong việc viết chữ và cho chữ, Huấn Cao là người như thế
nào? Quan hệ giưa hai người là mối quan hệ gì? Tại sao Huấn Cao lại đồng ý viết
chữ? Thái độ của Huấn Cao trước đó đối với viên quản ngục ra sao? v.v..
Bước thứ năm: Kiểm tra hệ thống câu hỏi.
Kiểm tra là khâu cuối cùng để hoàn thiện hệ thống câu hỏi cho một bài
dạy học nói chung và dạy học văn bản tác phẩm văn học nói riêng. Đây là công
việc cần thiến để giáo viên kiểm định tính khả dụng, sự phù hợp của từng câu
hỏi, tránh sự trùng lặp, sự nhàm chán của các câu hỏi khi đưa ra cho học sinh,
đồng thời có sự điều chỉnh, bổ sung cần thiết. Không phải mọi câu hỏi được xây
dựng đều có thể sử dụng trong một tiết dạy, cũng không phải áp dụng giống hệt
nhau một hệ thống câu hỏi trong một bài dạy cho tất cả các lớp, các đối tượng
học sinh. Vì vậy, kiểm tra hệ thống câu hỏi còn là sự chuẩn bị những câu hỏi dự
phòng và tính linh hoạt trong vận dụng vào thực tiễn giờ dạy.
3.2. Phân loại hệ thống câu hỏi
Đây là việc làm quan trọng khi xây dựng hệ thống câu hỏi. Phải phân loại
câu hỏi dựa trên yêu cầu về việc khám phá tác phẩm của học sinh cũng như
dụng ý sử dụng của giáo viên. Mục đích của việc phân loại là để hỏi đúng, hỏi
trúng nội dung và đối tượng người học. Đã có nhiều cách phân loại câu hỏi của
các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm đối với việc dạy học tác phẩm văn học.

Cách phân loại thứ nhất: Nhà giáo Đỗ Ngọc Thống chia hệ thống câu hỏi
trong dạy học văn thành 4 loại với các nhóm khác nhau:
Loại thứ nhất: câu hỏi về thể loại.
Loại thứ hai: câu hỏi hướng vào các yếu tố ngoài văn bản tác phẩm. Loại này
có 2 nhóm chính là: câu hỏi về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và câu hỏi về tác giả.
Loại thứ ba: Câu hỏi về vai trò người tiếp nhận.
Loại thứ tư: Câu hỏi hướng vào các yếu tố văn bản tác phẩm. Loại này có
3 nhóm chính là: nhóm câu hỏi đọc lướt; nhóm câu hỏi cảm nhận ngôn từ; nhóm
câu hỏi đọc hiểu. Trong mỗi nhóm lại có những kiểu câu hỏi khác nhau.
7


Cách phân loại thứ hai: Nhà giáo Nguyễn Viết Chữ lại chia câu hỏi thành
9 loại theo một sơ đồ với các cấp độ nhận thức từ thấp đến cao:
Cảm xúc
Vật
chất

Hình
thức

1

2

Hình dung,
tưởng tượng
Tái
Tái
hiện

tạo
3

4

Hiểu
Nội dung
Ghi nhớ (kể lại truyện Phân
hoặc thuộc thơ)
tích
5
6

Quan
điểm
7

Hình thức
Chi
Cấu
tiết
trúc
8
9

Từ việc vận dụng sự phân loại của các nhà giáo tiền bối, kết hợp với kinh
nghịêm bản thân trong quá trình dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy tác
phẩm văn học nói riêng trong hơn 10 năm qua, chúng tôi phân loại hệ thống câu
hỏi thành 2 loại chính như sau:
3.2.1. Loại câu hỏi đóng

Câu hỏi đóng là những câu hỏi thường chỉ yêu cầu học sinh đưa ra một
phương án trả lời hoặc trả lời dựa trên những thông tin có sẵn trong văn bản.
Nếu chia nhỏ ra thì loại câu hỏi này thường có những dạng như sau:
- Câu hỏi tái hiện (hình ảnh, chi tiết, sự việc, nhân vật trong tác phẩm): là
loại câu hỏi mà học sinh dựa vào văn bản tác phẩm để tái hiện lại những chi tiết
nghệ thuật đáng chú ý. Ưu điểm của loại câu hỏi này là giúp học sinh nhanh
chóng nắm bắt được các chi tiết giàu ý nghĩa của tác phẩm. Hạn chế của nó là
học sinh mới chỉ thấy được cái bên ngoài mà chưa hẳn đã hiểu được bản chất
của những chi tiết được tái hiện.
Ví dụ: Những chi tiết nào là cốt lõi lịch sử và những chi tiết nào là yếu tố
hoang đường mà nhân dân đã sáng tạo nên? (dạy truyện An Dương Vương và Mị
Châu - Trọng Thuỷ); hoặc: Trong khổ thơ đầu, Tố Hữu đã sử dụng những từ ngữ
và hình ảnh nào đáng chú ý? Những hình ảnh đó được tác giả sử dụng với thủ
pháp nghệ thuật gì? (dạy bài thơ Từ ấy của Tố Hữu); hoặc: tìm những chi tiết thể
hiện sự tha hóa của Chí Phèo? (dạy truyện Chí Phèo của Nam Cao) v.v..
- Câu hỏi tóm lược thông tin (thông tin về tác giả, tác phẩm, đặc điểm thể
loại…): là loại câu hỏi mà học sinh dựa trên những hiểu biết từ tài liệu cung cấp
(chủ yếu từ SGK) để trả lời. Ưu điểm của loại câu hỏi này là HS có thể nhanh
chóng nắm được những thông tin cơ bản về tác giả và tác phẩm; hạn chế của nó
là HS không cần phải tư duy nhiều mà chỉ cần dựa vào tài liệu có sẵn để trả lời.
Ví dụ: Sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh gồm những sáng tác ở những
thể loại chủ yếu nào? (dạy về tác giả Hồ Chí Minh); hoặc: Phong cách nghệ
8


thuật thơ Tố Hữu có những đặc điểm như thế nào? (dạy về tác giả Tố Hữu);
hoặc: Truỵên ngắn "Chí Phèo" có những nhan đề nào? (dạy về truyện ngắn Chí
Phèo của Nam Cao) v.v..
- Câu hỏi lựa chọn đúng/ sai; có/ không: là loại câu hỏi mà học sinh chỉ
cần đưa ra một lựa chọn để trả lời. Ưu điểm của loại câu hỏi này là giúp người

thầy có thể giải quyết nhanh vấn đề từ những đối thoại ngắn và nhanh gọn với
học sinh. Hạn chế của nó là nhiều khi học sinh đưa ra những đáp án mang tính
chất cảm tính (thậm chí là trả lời theo kiểu "đoán mò"), không hiểu được bản
chất của vấn đề.
Ví dụ: Việc Liên ngồi đợi tàu hằng đêm có phải là để cố bán thêm một vài
món hàng hay không? (dạy truỵên Hai đứa trẻ của Thạch Lam); hoặc: Việc Huấn
Cao viết chữ cho viên quản ngục có phải là sự trả ơn về những hậu đãi mà ông đã
được nhận hay không ? (dạy truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân) v.v..
Nhìn chung, đây là loại câu hỏi thường được sử dụng khi giáo viên cần học
sinh nắm những kiến thức ở mức độ đơn giản hoặc khám phá phần nổi của văn bản
tác phẩm. Trong dạy học hiện đại, với tinh thần đổi mới phương pháp, những dạng
câu hỏi này thường được hạn chế sử dụng hoặc chỉ sử dụng với tính chất những câu
hỏi lướt để dẫn dắt vào vấn đề và làm tiền đề cho việc sử dụng những loại câu hỏi
mở hướng vào việc kích thích tư duy và khả năng suy luận của học sinh.
3.2.2. Loại câu hỏi mở
Câu hỏi mở là những câu hỏi có nhiều phương án trả lời, cho phép học sinh
đưa ra những ý kiến, những quan điểm cá nhân khác nhau, thậm chí là những ý
kiến trái chiều về một vấn đề nào đó. Trong thực tế sử dụng, chúng ta thường
gặp những dạng câu hỏi mở như sau:
- Câu hỏi giải thích: là loại câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích để tìm ra
cách hiểu với những ý nghĩa hợp lí về một vấn đề.
Ví dụ: Vì sao có thể nói rằng bát cháo hành của thị Nở đã đến với Chí Phèo
rất đúng lúc? (dạy truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao) v.v..
- Câu hỏi phân tích: là loại câu hỏi yêu cầu và định hướng học sinh phân
tích tìm ra các phương diện ý nghĩa có thể có của một vấn đề, một chi tiết, một
hình ảnh nào đó trong tác phẩm văn học.
Ví dụ: Sự lặp lại từ "nắng" trong câu thơ "Nhìn nắng hàng cau nắng mới
lên" thể hiện được điều gì trong dụng ý miêu tả của nhà thơ? (dạy bài thơ Đây
thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử); hoặc: Mị đã sống cảnh làm dâu trong nhà thống lí
Pá tra như thế nào? (dạy về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài) v.v..

9


- Câu hỏi so sánh - liên hệ: là loại câu hỏi yêu cầu học sinh phải biết so
sánh, đối chiếu đối tượng này với đối tượng khác khi học các tác phẩm văn học.
Ví dụ: Có điểm gì tương đồng và khác biệt giữa nhân vật Tràng từ sau khi
có vợ với nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở? (dạy truyện ngắn Vợ nhặt
của Kim Lân, liên hệ với Chí Phèo của Nam Cao); hoặc: Giữa việc Mị phải lấy
A Sử vì món nợ truyền đời của cha mẹ với việc Kiều phải bán mình chuộc cha
có điểm tương đồng nào về vấn đề thân phận người phụ nữ nói riêng và vấn đề
thân phận con người nói chung trong văn học? (dạy truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài, liên hệ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du) v.v..
- Câu hỏi suy luận/ câu hỏi nêu vấn đề: là câu hỏi đặt học sinh vào tình
huống có vấn đề, buộc học sinh phải suy luận bằng cả vốn kiến thức đã có và cả
những kinh nghiệm sống, những hiểu biết xã hội để tìm ra đáp án.
Ví dụ: Sau khi trở lại kiếp người và trở về hoàng cung, Tấm có nhất thiết
cứ phải giết chết mẹ con nhà Cám hay không? Tấm giết mẹ con Cám như thế,
phải chăng Tấm cũng là một người tàn nhẫn và độc ác? (dạy truyện cổ tích Tấm
Cám); hoặc: Huấn Cao viết chữ tặng viên quản ngục trước ngày ra pháp trường
là để trả nợ miệng những ngày được hậu đãi, hay muốn mượn giấy mực của
quản ngục để phô diễn lần cuối cùng cái tài viết chữ của mình hay còn vì một lí
do nào khác? (dạy truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân v.v..
- Câu hỏi bình luận, đánh giá: là loại câu hỏi yêu cầu học sinh vừa thể hiện
được kiến thức, sự hiểu biết về vấn đề, vừa thể hiện được thái độ, sự đánh giá
của bản thân về vấn đề đó.
Ví dụ: Em đánh giá như thế nào về những quan điểm nghệ thuật của Nam
Cao? (dạy về tác giả Nam Cao); hoặc: Em có quan điểm như thế nào về thái độ
và cách ứng xử của người đàn bà hàng chài khi bị chồng đánh và trong câu
chuyện với thẩm phám Đẩu? (dạy truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu) v.v..

- Câu hỏi vận dụng: là loại câu hỏi yêu cầu học sinh nêu lên được ý nghĩa
của việc học một tác phẩm văn học đối với bản thân, hướng hiệu quả và tác
dụng của việc học văn vào cuộc sống.
Ví dụ: Từ thái độ sống và quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu thể hiện trong
bài thơ Vội vàng, em suy nghĩ như thế nào về cuộc sống và rút ra được bài học gì
cho bản thân? (dạy bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu); hoặc: Từ những nhận thức
của Nguyễn Khoa Điềm về Đất nước, em có suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm
10


đối với đất nước của bản thân và của thanh niên thế hệ ngày nay? (dạy bài thơ
Đất nước, trích trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) v.v..
Bảng phân loại hệ thống câu hỏi
Hệ thống phân loại
Hình
thức
Nội
dung
Mức
độ

Loại câu hỏi đóng
Tóm lược Tái
thông tin hiện
1

Lựa chọn Giải Phâ
(đúng/sai; thích n
có/không)
tích

2
3
4
5
Nhận biết
Thông hiểu

Loại câu hỏi mở
So
Suy
sánh/
luận
liên hệ
6
7
Vận dụng thấp

Bình luận, Vận
đánh giá
dụng
8

9
Vận dụng cao

3.3. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong thực tế dạy học
3.3.1. Cách thức vận dụng
Trong việc dạy học văn bản văn học, ở mỗi bài, mỗi tác phẩm, mỗi thể
loại khác nhau, chúng ta phải vận dụng những phương pháp dạy học và những
thao tác kĩ thuật khác nhau, vì thế mà việc vận dụng hệ thống câu hỏi phải linh

hoạt. Trong mỗi tiết, mỗi bài, mỗi phần kiến thức đều cần có những câu hỏi phù
hợp và chính xác, nghĩa là phải "hỏi đúng", "hỏi trúng" và có sự định hướng rõ
ràng. Nếu hỏi không chính xác và không rõ ràng thì học sinh sẽ không hiểu thầy/
cô đang hỏi cái gì để mà suy nghĩ, trả lời.
Ví dụ: Khi dạy về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có những nội dung về tác
giả, có những nội dung về xuất xứ bài thơ, nội dung về bố cục, cảm xúc, hình tượng
cũng như những chi tiết nghệ thuật trong việc thể hiện cảm xúc và hình tượng v.v..
Giáo viên phải biết lựa chọn nội dung và hình thức câu hỏi phù hợp. Chẳng hạn: khi
cần giúp học sinh nắm được những kiến thức chung về tác giả, tác phẩm thì chỉ cần
nêu những câu hỏi mang tính gợi mở và tái hiện, nhưng khi cần giúp học sinh cảm
nhận và nắm được cảm xúc và hình tượng thơ thì cần một hệ thống câu hỏi đa dạng,
nhiều hình thức và nhiều mức độ khác nhau, tuỳ vào nội dung cụ thể.
Mặt khác, mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng thuộc một thể loại, là sản phẩm
của một tác giả (ở đây bao gồm cả những tác giả dân gian) được sáng tác trong
những gian đoạn, những điều kiện lịch sử nhất định. Những yêu tố về đặc trưng thể
loại của tác phẩm, những yếu tố văn học sử đó có sự chi phối nhất định đến cách đặt
câu hỏi trong mỗi bài dạy mà giáo viên cần phải quan tâm. Không thể có cách thức
đặt câu hỏi giống nhau giữa những tác phẩm có sự khác nhau về đặc trưng thể loại và
có khoảng cách thời gian, không gian văn hoá, không gian nghệ thuật xa nhau.
11


Ví dụ: Cũng là dạy tác phẩm truyện (thể loại tự sự) nhưng không thể dạy
truyện cổ tích giống truyện ngắn hiện đại, vì thế khi dạy Chí Phèo hay Vợ nhặt thì
cách xây dựng và đặt câu hỏi phải khác khi dạy về Tấm Cám hay Truyện An Dương
Vương và Mị Châu Trọng Thuỷ. Cũng như thế, khi dạy các tác phẩm ca dao (trữ tình
dân gian) thì không thể xây dựng hệ thống câu hỏi như khi dạy các bài thơ trung đại
hoặc thơ hiện đại trong "Thơ mới" và thơ ca kháng chiến.
Nói tóm lại, xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi trong dạy học là công
việc của mọi giáo viên và ở mọi môn học. Tuy nhiên, hệ thống câu hỏi ở môn Ngữ

văn, mà đặc biệt là trong dạy đọc - hiểu văn bản tác phẩm văn học thì thực sự là rất
phức tạp. Sự phức tạp đó xuất phát từ chính bản thân của môn học, do sự phong phú
về loại hình tác phẩm cũng như sự phong phú về các lớp nội dung ý nghĩa và hình
thức nghệ thuật của nó. Để định hướng cho học sinh hiểu các lớp ý nghĩa, các chi tiết
nghệ thuật của một văn bản tác phẩm văn học là cả một con đường vừa dài vừa lắm
lối, đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tâm huyết, phải có sự đầu tư nghiêm túc vào
và công phu thì mới có thể có được hệ thống câu hỏi tốt và phù hợ nhất. Những cách
đặt câu hỏi hời hợt, qua loa, hình thức, chiếu lệ đều không thể mang lại hiệu quả như
mong muốn, thậm chí có thể phản tác dụng, làm cho học sinh mất đi hứng thú và
tình yêu đối với việc học văn nói riêng và với các tác phẩm văn học nói chung. Kinh
nghiệm cho thấy, nếu thầy cô giáo mà chuẩn bị và vận dụng tốt hệ thống câu hỏi thì
bài dạy đã thành công một nửa.
3.3.2. Hệ thống câu hỏi minh họa trong một bài học cụ thể
Thay cho việc trình bày giáo án thể nghiệm hoàn chỉnh, chúng tôi xin được
trình bày ở đây một phần hệ thống câu hỏi được vận dụng trong bài dạy đọc - hiểu về
văn bản tác phẩm truyện ngắn "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao: hệ thống câu hỏi
định hướng phân tích nhân vật Chí Phèo.
Nội dung đọc - hiểu
a)Tìm hiểu Xuất
nhân vật trên thân của
phương diện nhân vật:
phẩm chất

Hệ thống câu hỏi
1. Chí Phèo có xuất thân như
thế nào?
2. Dựa vào những chi tiết nào
để có thể nói rằng Chí Phèo có
xuất thân là người nông dân?
3. Xuất thân là người nông dân,

Chí Phèo đã mang trong mình
phẩm chất như thế nào? Vì sao
có thể khẳng định được điều đó?
Qúa 4. Trong lời kể của nhà văn thì
trình
Chí Phèo đã có quá trình trưởng
trưởng
thành như thế nào?
thành của 5. Việc được những người nông

Phân loại
Mức độ
Câu hỏi lựa Nhận biết
chọn
Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi giải Thông hiểu
thích
Câu hỏi tóm Nhận biết
lược thông
tin
Câu hỏi phân Thông hiểu

12


nhân vật

dân nghèo khổ nuôi dưỡng có ý
nghĩa gì đối với việc hình thành

phẩm chất của Chí Phèo?
6. Khi đã trưởng thành, cuộc
sống của Chí Phèo như thế nào?
7. Khi làm canh điền trong nhà Bá
Kiến thì Chí Phèo thể hiện bản
chất của mình qua những chi tiết
nào? Chi tiết nào đáng chú ý nhất?
8. Những chi tiết về mối quan
hệ với vợ ba của Bá Kiến nói
lên điều gì về phẩm chất của
Chí Phèo?
9. Chí Phèo đã từng có ước mơ
như thế nào?
10. Ước mơ đó nói lên điều gì
về phẩm chất người nông dân
trong Chí?
11. Tất cả những điều đó cho
thấy Chí Phèo vốn là người có
phẩm chất như thế nào?
12. Phẩm chất của Chí Phèo có
điểm gì tương đồng với những
nhân vật là người nông dân
trong văn học mà em đã biết?
Với phẩm chất vốn có của mình
thì theo em, Chí Phèo xứng
đáng có cuộc sống như thế nào?
Qúa 13. Sự kiện nào đã xảy đến và
trình tha có ý nghĩa làm thay đổi cuộc
hóa
của đời Chí Phèo?

nhân vật:
14. Việc đi ở tù có tác động như
thế nào đối với sự phẩm chất
của Chí Phèo?
15. Tại sao có thể nói: việc bị
đẩy vào nhà tù là sự khởi đầu
của một quá trình tha hóa nhân
tính ở Chí Phèo?
16. Những biểu hiện nào cho
thấy sự tha hóa của Chí Phèo
sau khi đi ở tù về làng?
- Về ngoại hình?
- Về ngôn ngữ?
- Về hành động?..
17. Những chi tiết về ngoại
hình gây ấn tượng gì về nhân
vật Chí Phèo?
18. Trong những tiếng chửi của
Chí Phèo, em thấy có điều gì
đặc biệt?
19. Trong những cơn say, Chí
Phèo thường chửi những đối

tích
Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi suy Vận
luận

thấp

dụng

Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi suy Vận dụng
luận
thấp
Câu hỏi suy Vận
luận
thấp

dụng

Câu hỏi so Vận
sánh
thấp

dụng

Câu hỏi vận Vận
dụng
cao

dụng

Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi phân Vận

tích
thấp

dụng

Câu hỏi giải Thông hiểu
thích
Câu hỏi tóm Nhận biết
lược thông
tin

Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi tái Nhận biết
hiện

13


b) Tìm hiểu
nhân vật trên
phương diện
số phận

- Một số
phận
bị
chối bỏ và

bị xô đẩy

Qúa
trình hồi
sinh nhân

tượng nào? Trình tự của tiếng
chửi là như thế nào?
20. Trình tự của những tiếng
chửi ấy có ý nghĩa gì?
21. Tiếng chửi nói lên điều gì
về nhân tính của Chí?
22. Sau khi đi tù về làng, việc làm
quen thuộc của Chí Phèo là gì?
23. Những việc làm của Chí Phèo
đã mang đến điều gì trong cuộc
sống của người làng Vũ Đại?
24. Tất cả những biểu hiện ấy
cho thấy Chí Phèo đã trở thành
một người như thế nào?
25. Em đánh giá như thế nào về
quá trình tha hóa về nhân tính
của nhân vật?
26. Theo em, đâu là nguyên
nhân sâu xa dẫn đến sự tha hóa
của Chí? Từ nguyên nhân ấy, ta
thấy ý nghĩa xã hội của sự tha
hóa ấy là gì?
1. Chí Phèo được sinh ra như
thế nào? Điều đó nói lên điều gì

về thân phận Chí Phèo?
2. Tuổi thơ của Chí Phèo đã trải
qua những năm tháng ra sao?
3. Từ khi sinh ra cho đến quá
trình lớn lên, Chí Phèo có được
cuộc đời đón nhận như những
đứa trẻ bình thường không?
4. Tại sao khi đang làm canh
điền trong nhà bá Kiến, Chí
Phèo lại bị bắt đi ở tù?
5. Việc đi ở tù đã làm thay đổi
cuộc đời của Chí ra sao?
6. Chí Phèo đã bị xô đẩy ra
khỏi cuộc sống của người nông
dân như thế nào?
7. Kể từ sau khi đi ở tù về, Chí
Phèo đã sống như thế nào giữa
làng Vũ Đại?
8. Phản ứng của người dân làng
Vũ Đại như thế nào khi Chí
Phèo chửi?
9. Thái độ và phản ứng của
người dân làng Vũ Đại với
tiếng chửi của Chí Phèo cho
thấy điều gì
10. Nhân vật nào có ảnh hưởng
quan trọng nhất đến sựu hồi
sinh nhân tính của Chí Phéo?

Câu hỏi phân

tích
Câu hỏi suy
luận
Câu hỏi tái
hiện
Câu hỏi phân
tích

Thông hiểu
Vận dụng
thấp
Nhận biết
Thông hiểu

Câu hỏi suy Vận
luận
thấp

dụng

Câu hỏi bình Vận
luận
cao

dụng

Câu hỏi suy Vận
luận và vận cao
dung


dụng

Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi suy Vận dụng
luận
thấp
Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi phân Vận
tích
thấp

dụng

Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi suy Vận
luận
thấp

dụng


14


tính và bi
kịch bị cự
tuyệt làm
người:

- Cái kết
của bi kịch

11. Thị Nở đã đem đến cho Chí
Phèo điều gì?
12. Em cảm nhận được những
gì từ bát cháo hành của Thị Nở?
13. Chí Phèo đã có những thay
đổi như thế nào về tâm trạng và
suy nghĩ sau khi gặp Thị Nở?
14. Những thay đổi về tâm
trạng và nhận thức của Chí
Phèo nói lên điều gì về nhân
tính của nhân vật?
15. Em đánh giá như thế nào về
vai trò của Thị Nở trong sự hồi
sinh tâm hồn của Chí?
16. Cuộc gặp gỡ giữa Thị Nở
và Chí Phèo có phải là một câu
chuyện tình yêu?
17. Sau khi gặp Thị Nở, Chí

Phèo mong muốn điều gì?
18. Tại sao bà cô thị Nở lại
không đồng ý cho Thị Nở lấy
Chí Phèo? Câu nói của nhân vật
bà cô có ý nghĩa như thế nào?
19. Việc Chí Phèo bị Thị Nở từ
chối cùng với câu nói của người
bà cô đã cho thấy Chí Phèo đã
roi vào tình cảnh như thế nào?
20. Dụng ý của Nam Cao là gì
khi miêu tả Thị Nở và sự từ
chối của Thị Nở trong sự khát
khao của Chí Phèo?
21. Tại sao Chí Phèo lại xách
dao đến nhà Bá Kiến?
22. Những câu nói của Bá Kiến
với Chí Phèo có ý nghĩa như
thế nào?
23. Những câu trả lời của Chí
Phèo với Bá Kiến nói lên điều gì?
24. Tại sao Chí Phèo phải tự kết
liễu đời mình?
25. Cái chết của Chí Phèo thể
hiện ý nghĩa gì?
26. Em hiểu và đánh giá như
thế nào về chi tiết kết thúc tác
phẩm? (v.v..)

Câu hỏi phân Thông hiểu
tích

Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi suy Thông hiểu?
luận
Câu hỏi bình Vận
luận
cao

dụng

Câu hỏi bình Vận
luận
cao

dụng

Câu hỏi tái Nhận biết
hiện
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi suy Vận
luận
thấp

dụng


Câu hỏi giải Thông hiểu
thích
Câu hỏi phân Thông hiểu
tích
Câu hỏi suy
luận
Câu hỏi giải
thích
Câu hỏi suy
luận
Câu hỏi bình
luận

Vận dụng
thấp
Thông hiểu
Vận
thấp
Vận
cao

dụng
dụng

Trên đây chỉ là hệ thống câu hỏi được áp dụng khi định hướng học sinh
đọc - hiểu một phân mục, một phần nội dung trong việc dạy đọc - hiểu văn bản
tác phẩm Chí Phèo. Trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm và trong
15



phạm vi của một phần minh họa, chúng tôi không thể trình bày tất cả những hệ
thống câu hỏi trong việc dạy đọc - hiểu các văn bản tác phẩm văn học trong
chương trình. Với cách xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi ấy, học sinh sẽ
có hứng thú hơn và dễ dàng tiếp cận, khai thác các lớp nội dung ý nghĩa của tác
phẩm hơn, góp phần năng cao hiêu quả của việc dạy học đọc - hiểu tác phẩm
văn học trong nhà trường.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
4.1. Hiệu quả vận dụng của bản thân
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi việc đổi mới phương pháp dạy
học được đẩy mạnh như một yêu cầu tất yếu, chúng tôi đã thay đổi tư duy và
nhận thức về hệ thống câu hỏi trong dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy đoc
- hiểu văn bản tác phẩm văn học nói riêng. Trong mỗi bài dạy, chúng tôi đều đầu
tư xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi, vận dụng linh hoạt đối với từng đối
tượng và với những mục tiêu bài học cụ thể. Kết quả là học sinh tỏ ra hứng thú
hơn hẳn trong các tiết học văn và hiệu quả của việc học đọc - hiểu văn bản tác
phẩm văn học và vận dụng kiến thức tác phẩm và các bài làm văn với các dạng
đề khác nhau được nâng lên rõ rệt.
Dưới đây là bảng số liệu kết quả học tập môn Ngữ văn của 3 năm học gần
nhất ở các lớp mà chúng tôi giảng dạy (chỉ tính các lớp trong các năm học đã
trải qua đầy đủ các kỳ thi):
BẢNG SỐ LIỆU KẾT QUẢ VẬN DỤNG QUA MỘT SỐ NĂM HỌC
Năm học 2012 - 2013
Lớp

Sĩ số

12 A8
12 A5
10 B8


40
37
43

Xếp loại học lực môn
Học
Điểm trung
Điểm
Ghi chú
Ngữ văn trong năm học sinh giỏi bình thi tốt
TB thi
Yếu Trbình Khá Giỏi cấp tỉnh nghiệp THPT đại học
0
1
25
14
4
7.76
7.56
Lớp khối C
0
16
21
0
6.28
Lớp TN
0
7
20
16

Lớp khối C

Năm học 2013 - 2014
Lớp

Sĩ số

11 B8
10 A6
10 A1

43
45
44

Xếp loại học lực môn
Học
Điểm trung
Điểm
Ngữ văn trong năm học sinh giỏi bình thi tốt
TB thi
Yếu Trbình Khá Giỏi
nghiệp THPT đại học
0
2
24
17
0
5
25

15
0
11
27
6

Ghi chú

Lớp khối C
Lớp khối C
Lớp khối A

16


Năm học 2014 - 2015
Lớp

12 B8
12 B7
11 A6

Sĩ số

43
39
44

Xếp loại học lực môn
Ngữ văn trong năm học

Yếu Trbình Khá Giỏi
0
0
25
18
0
19
20
0
0
3
24
17

Học sinh
giỏi
4

Điểm trung bình thi Ghi chú
THPT quốc gia
7.88
6.33

Lớp khối C
Lớp TN
Lớp khối C

4.2. Triển khai trước tổ bộ môn
Chúng tôi đã đưa đề tài này ra tổ để trao đổi, thảo luận và rút kinh
nghiệm. Đa số các đồng nghiệp trong tổ đã đánh giá cao và vận dụng có hiệu

quả, tạo được hứng thú cho học sinh và giúp các em hiểu sâu, nắm vững hơn về
kiến thức các văn bản tác phẩm văn học trong các giờ học đọc - hiểu. Và cho
đến nay, những kinh nghiệm của tôi đã được tổ thừa nhận là có tính thực tiễn và
tính khả thi. Hiện nay, chúng tôi đã vận dụng rộng rãi việc xây dựng và phân
loại hệ thống câu hỏi linh hoạt trong việc dạy học đọc hiểu văn bản các tác phẩm
văn học trong chương trình THPT, áp dụng trong phạm vi trường THPT Nguyễn
Xuân Nguyên một cách hiệu quả.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Hệ thống câu hỏi được trình bày ở trên chưa phải là tất cả, song đó là
những dạng, những loại chủ yếu và thường xuyên được sử dụng trong quá trình
dạy học. Việc vận dụng linh hoạt các câu hỏi sẽ tránh được sự đơn điệu và nhàm
chán trong cả hoạt động dạy và hoạt động học. Hiệu quả trong việc sử dụng câu
hỏi phụ thuộc vào mức độ hiểu biết, chiếm lĩnh văn bản tác phẩm của người dạy
và sự linh hoạt trong cách thức nêu câu hỏi và nghệ thuật tổ chức, dẫn dắt học
sinh tìm ra chân lí. Làm tốt được công việc đó thì phần việc còn lại trong mỗi tiết học
sẽ nhẹ nhàng và đơn giản hơn nhiều, và hiệu quả của việc dạy học văn cũng sẽ được
đảm bảo và nâng cao.
Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi không khẳng định đây là
cách xây dựng và phân loại hệ thống câu hỏi mang tính chuẩn mực, mà chỉ đơn
thuần là một kinh nghiệm của bản thân đã được vận dụng và kiểm chứng trong
thực tế dạy học. Chúng tôi rất mong nhận được và xin chân thành cảm ơn sự
đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để chúng ta cùng trao đổi, học hỏi để có
thể tích lũy được ngày càng nhiều những kinh nghiệm cần thiết trong việc dạy
đọc - hiểu văn bản tác phẩm văn học nói riêng và dạy học môn Ngữ văn trong
17


trường phổ thông nói chung, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng, cải
thiện tình trạng học văn của học sinh hiện nay.

Chúng tôi xin cam đoạn đây là những kinh nghiệm của bản thân, đề tài
nghiên cứu không sao chép bất kì một đề tài sáng kiến kinh nghiệm của một tác
giả nào khác.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Người thực hiện

Nguyễn Ngọc Dũng

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Sách giáo viên Văn học (Lớp 10, 11, 12,
Chương trình chỉnh lí hợp nhất), Nxb Giáo dục.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo viên Ngữ văn (Lớp 10, 11, 12,
Chương trình chuẩn), Nxb Giáo dục.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo khoa Ngữ văn (Lớp 10, 11, 12,
Chương trình chuẩn), Nxb Giáo dục.
4. Phạm Minh Diệu (2007), Thiết kế bài giảng Ngữ văn (Lớp 10,11, 12, Chương
trình chuẩn), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội)
5.Nguyễn Văn Đường (2009), Thiết kế bài giảng Ngữ văn (Lớp 10, 11, 12, Chương
trình chuẩn), Nxb Hà Nội.

19



×