Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.62 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT TRIỆU THỊ TRINH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

XÂY DỰNG CHUYÊN ĐỀ TRONG DẠY
ÔN LUYỆN VĂN BẢN VĂN HỌC Ở TRƯỜNG
THPT THEO LOẠI THỂ
**************************

Người thực hiện : Mai Xuân Huấn
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc môn : Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2016


MỤC LỤC

Trang

1. MỞ ĐẦU

1

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

2.1. Cơ sở lí luận…………………………………………………………………. 3
2.1.1 Xây dựng một chuyên đề dạy học phải tuân theo những yêu cầu, quy trình và


cấu trúc riêng ………………………………………………………………………3
2.1.1.1. Yêu cầu của việc xây dựng chuyên đề…………………………………… 3
2.1.1.2. Quy trình xây dựng chuyên đề…………………………………………… 3
2.1.1.3. Cấu trúc một chuyên đề dạy học ………………………………………… 4
2.1.2. Hệ thống các văn bản văn học được đưa vào chương trình, sách giáo khoa
thuận lợi cho việc xây dựng các chuyên đề dạy học ………………………………6
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ……………… ..6
2.3. Các giải pháp………………………………………………………………….7
2.3.1. Hình thành các chuyên đề cụ thể cho các khối lớp…………………………7
2.3.2. Vận dụng xây dựng tiến trình thực hiện một chuyên đề cụ thể……………..8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ………………………………………...19
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ……………………………………………………...21
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong chương trình trung học phổ thông (THPT) số lượng các văn bản văn
học được đưa vào phần đọc hiểu chiếm một thời lượng lớn nhất so với phần tiếng
Việt và làm văn, các văn bản gồm nhiều bộ phận, giai đoạn văn học, nhiều thể loại
khác nhau. Làm thế nào để học sinh nắm vững được giá trị của văn bản, có được
cái nhìn hệ thống về các thể loại cùng giai đoạn lịch sử mà tác phẩm hình thành, từ
đó biết vận dụng để giải quyết các đề nghị luận văn học cụ thể có hiệu quả là trăn
trở hàng ngày của mỗi giáo viên bộ môn.
Chương trình hiện hành được thiết kế tích hợp các phân môn, các văn bản
được đưa vào giảng dạy được sắp xếp theo quá trình lịch sử văn học vì vậy học
sinh đọc hiểu văn bản chưa thấy được đặc trưng của thể loại để vận dụng đọc hiểu
các văn bản. Với những học sinh năng lực hạn chế về bộ môn hầu như học văn bản
nào biết văn bản đó, thậm chí không nắm được trọng tâm kiến thức về văn bản, từ
đó việc vận dụng để giải quyết các đề nghị luận văn học rất lúng túng.

Dạy học theo chuyên đề theo tài liệu hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo
đã được ứng dụng ở nhiều bộ môn và thu được nhiều kinh nghiệm tốt có thể ứng
dụng rộng rãi hơn. Trong dạy học bộ môn Ngữ văn, dạy học theo chuyên đề là một
trong những phương hướng khắc phục hạn chế của chương trình hiện hành. Nhiều
giáo viên cũng đã áp dụng cách thức này, đặc biệt ở phần dạy học các văn bản văn
học. Tuy nhiên đó vẫn là những kinh nghiệm riêng của từng giáo viên mà chưa có
được sự ứng dụng rộng rãi, các tài liệu bộ môn về dạy học theo chuyên đề còn
thiếu. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi tìm được cuốn Chuyên đề ôn tập
và luyện thi Ngữ văn 12 của tác giả Khuất Thế Khoa (NXB Hà Nội, 2009), nhưng
tác giả vẫn biên soạn theo giai đoạn văn học, việc biên soạn chuyên đề kết hợp giai
đoạn và loại thể vẫn chưa được chú ý.
Chọn đề tài Xây dựng chuyên đề trong dạy ôn luyện văn bản văn học ở
trường THPT theo loại thể chúng tôi vận dụng cách dạy học theo chuyên đề để
xây dựng các chuyên đề ôn luyện các văn bản văn học qua cả ba khối lớp 10, 11,
12. Qua đó có một cái nhìn hệ thống về các thể loại chủ yếu trong các giai đoạn
văn học được đưa vào giảng dạy trong chương trình THPT. Trong khuôn khổ một
đề tài Sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi nêu ra các chuyên đề sẽ thực hiện ở từng


khối lớp và trình bày trên những nét lớn quá trình thực hiện nội dung 1 (Ôn luyện
về các văn bản truyện ngắn) của chuyên đề Ôn luyện về các văn bản truyện Văn
học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu xây dựng các chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng dạy học các
thể loại văn bản văn học trong chương trình THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu hệ thống các văn bản văn học được đưa vào giảng dạy trong
chương trình THPT (theo thể loại, theo giai đoạn) để xây dựng các chuyên đề
nhằm giúp người học nắm vững giá trị của văn bản, biết ứng dụng để đọc hiểu các
dạng văn bản cùng thể loại, biết vận dụng để giải quyết các dạng đề nghị luận văn

học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, phương
pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, phương pháp thống kê…


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Xây dựng một chuyên đề dạy học phải tuân theo những yêu cầu, quy
trình và cấu trúc riêng.
2.1.1.1.Yêu cầu của việc xây dựng chuyên đề.
Theo tài liệu hướng dẫn dạy học theo chuyên đề của Bộ giáo dục và đào tạo,
một chuyên đề được xây dựng phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Dạy học theo chuyên đề khác với việc dạy theo bài học thông thường
nhưng vẫn phải đảm bảo các chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ của chương trình và
sách giáo khoa hiện hành, được nâng lên một mức độ nhất định cao hơn. Tuy vậy
cần chú ý đến tính vừa sức của chuyên đề: cân đối giữa khối lượng và mức độ kiến
thức trong chuyên đề.
- Vấn đề được học tập trong chuyên đề phải là một vấn đề cơ bản của
chương trình, sách giáo khoa THPT, có mối quan hệ mật thiết với nhau, có những
điểm tương đồng về nội dung kiến thức, khi hình thành chuyên đề thì tạo nên một
chuỗi các vấn đề học tập cần giải quyết. Khi giải quyết được nhiệm vụ học tập đó
sẽ tạo thành một nội dung hoàn chỉnh, toàn diện cả chiều dọc lẫn chiều ngang của
chuyên đề.
- Nội dung của các chuyên đề giúp học sinh có những hiểu biết về những
kiến thức cơ bản của chương trình, sách giáo khoa mà học sinh THPT cần đạt
được. Từ những kiến thức đó để học sinh có thể tổng kết, hệ thống hoá kiến thức,
củng cố, thực hành và tự nghiên cứu, đào sâu kiến thức đã học.
- Nội dung chuyên đề cần đảm bảo tính toàn diện, có tính hệ thống.
- Các chuyên đề cho học sinh trường THPT rất chú trọng đến việc rèn luyện

kĩ năng cho học sinh.
2.1.1.2. Quy trình xây dựng chuyên đề
- Căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa và những ứng dụng
phương pháp dạy học trong thực tiễn, người dạy xác định các nội dung kiến thức
liên quan với nhau, có những điểm tương đồng được thể hiện ở một số bài/ tiết


hiện hành, từ đó xây dựng thành một vấn đề chung để tạo thành một chuyên đề dạy
học. Mỗi chuyên để có thời lượng ít nhất là 2 tiết.
- Xác định chuẩn kiến thức và kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành
và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học
tích cực, từ đó xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh
theo chuyên đề đã xât dựng.
- Xây dựng nội dung chuyên đề : Giáo viên lựa chọn các nội dung của
chuyên đề từ các bài/ tiết trong sách giáo khoa và tham khảo các tài liệu khác để
xây dựng nội dung chuyên đề.
Vấn đề cần giải quyết trong chuyên đề có thể là một trong các loại sau: Vấn
đề tìm kiếm, xây dựng kiến thức mới; vấn đề kiểm nghiệm, ứng dụng kiến thức;
vấn đề tìm kiếm, xây dựng, kiểm nghiệm và ứng dụng kiến thức mới.
Tùy nội dung kiến thức; điều kiện thực tế của địa phương, nhà trường; năng
lực của giáo viên và học sinh, có thể xác định một trong các mức độ sau:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện
cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả
làm việc của học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn
đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần.
Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát
hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết, giải pháp và lựa chọn
giải pháp. Học sinh thực hiện giải pháp để giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh

cùng đánh giá.
Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề cần giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự
đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
2.1.1.3. Cấu trúc một chuyên đề dạy học.
Tên chuyên đề : …
I. Nội dung của chuyên đề và thời lượng thực hiện.
1. Nội dung 1: ….(thời lượng)
2. Nội dung 2: ….(thời lượng)
3. Nội dung 3: ….(thời lượng)
……


II. Chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ và những phẩm chất, năng lực của học
sinh có thể hình thành và phát triển trong dạy học chuyên đề.
1. Nội dung 1:….
a. Chuẩn kiến thức
b. Kĩ năng
c. Thái độ
d. Những phẩm chất và năng lực của học sinh có thể hình thành và phát
triển trong dạy học chuyên đề
e. Các phương pháp dạy học
2. Nội dung 2:….
a. Chuẩn kiến thức
b. Kĩ năng
c. Thái độ
d. Những phẩm chất và năng lực của học sinh có thể hình thành và
phát triển trong dạy học chuyên đề
e. Các phương pháp dạy học
Ghi chú: Nếu chuyên đề có một nội dung thì phần chuẩn kiến thức, kĩ năng,

thái độ và những phẩm chất, năng lực của học sinh có thể hình thành và phát triển
trong dạy học chuyên đề chỉ cần trình bày một lần.
Các câu hỏi/bài tập tương ứng với mỗi loại/mức độ yêu cầu được mô tả dùng
trong quá trình tổ chức hoạt động học của học sinh gồm : nhận biết, thông hiểu,
vận dụng, vận dụng cao.
III. Tiến trình dạy học chuyên đề được thiết kế thành các hoạt động thể hiện
tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học tích cực được lựa chọn.
1. Nội dung 1: Tên nội dung ( Thời lượng)
Hoạt động 1. ( Thời lượng)
Hoạt động 2. ( Thời lượng)
Hoạt động 3. ( Thời lượng)
……….
2. Nội dung 2: Tên nội dung ( Thời lượng)
Hoạt động 1. ( Thời lượng)
Hoạt động 2. ( Thời lượng)
Hoạt động 3. ( Thời lượng)
……….
2.1.2. Hệ thống các văn bản văn học được đưa vào chương trình, sách giáo
khoa thuận lợi cho việc xây dựng các chuyên đề dạy học.


Qua thực tiễn giảng dạy bộ môn ở các khối lớp chúng tôi nhận thấy hệ thống
các văn bản văn học được đưa vào chương trình rất thuận lợi cho việc xây dựng
các chuyên đề dạy học theo loại thể:
- Chương trình lớp 10:
+ Bộ phận văn học dân gian tập trung vào các loại thể: sử thi, truyền thuyết, cổ
tích, truyện cười, ca dao.
+ Bộ phận văn học viết trung đại tập trung vào các loại thể: thơ Đường luật, phú
cáo, truyện thơ.
- Chương trình lớp 11:

+ Bộ phận văn học viết trung đại: phần nhiều các văn bản thơ thất ngôn bát cú
Đường luật.
+ Văn học hiện đại (giai đoạn từ đầu thế kỉ XX – 1945): chủ yếu các văn bản
truyện ngắn, thơ tự do.
- Chương trình lớp 12: Văn học giai đoạn từ 1945 – hết thế kỉ XX, tập trung ở hai
thể loại: thơ, truyện ngắn.
Chương trình cho thấy, các loại hình trữ tình, tự sự có nhiều văn bản cùng
loại thể, việc xây dựng các chuyên đề ôn luyện sẽ giúp học sinh có cái nhìn toàn
diện về các văn bản cùng loại thể, giúp cho việc học tập có trọng tâm và chiều sâu.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Phần đọc hiểu các văn bản văn học chiếm một thời lượng khá lớn trong
chương trình, các văn bản gồm cả phần văn học dân gian, văn học trung đại, văn
học hiện đại. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy gìơ đọc hiểu trên lớp với thời gian
được quy định giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo phân phối chương
trình, trong các giờ ôn luyện, giáo viên chủ yếu hướng dẫn học sinh luyện đề nghị
luận văn học về các văn bản đã học. Tuy nhiên kết quả chưa được như mong muốn
xuất phát từ các lí do:
- Việc luyện đề được thực hiện cho từng văn bản, tuy nhiên các mức độ vận dụng
câu hỏi tái hiện, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao chưa được quan tâm


đúng mức. Có giáo viên cung cấp câu hỏi vận dụng cao cho học sinh ngay làm cho
học sinh rất lúng túng, mơ hồ về đề bài.
- Có giáo viên chưa quan tâm đến việc củng cố kiến thức cơ bản về tác giả, tác
phẩm cho học sinh. Nhiều học sinh vì vậy khó khăn trong việc vận dụng kiến thức
để giải quyết các đề bài cụ thể, đặc biệt là các dạng đề so sánh, tổng hợp.
- Hầu hết các giáo viên ít quan tâm đến việc cung cấp những kiến thức đặc trưng
về loại thể cho học sinh, các em chưa có được cái nhìn bao quát về các văn bản
cùng loại thể.
2.3. Các giải pháp

2.3.1. Hình thành các chuyên đề cụ thể cho các khối lớp.
Từ thực trạng trên, chúng tôi nhận thấy việc ôn luyện về các văn bản văn
học theo chuyên đề là cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu chương trình và sách giáo
khoa từng khối lớp, chúng tôi tổng hợp và hình thành các chuyên đề cụ thể sau:
*Khối 10:
- Chuyên đề ôn luyện về một số thể loại văn học dân gian
+ Nội dung 1: Văn bản tự sự dân gian (sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười)
+ Nội dung 2: Văn bản trữ tình dân gian (ca dao)
- Chuyên đề ôn luyện về một số thể loại văn học trung đại
+ Nội dung 1: Thơ Đường luật
+ Nội dung 2: Các thể loại khác của văn học trung đại (phú, cáo, truyện truyền kì,
ngâm khúc)
- Chuyên đề truyện thơ: Truyện Kiều của Nguyễn Du
* Khối 11:
- Chuyên đề ôn luyện về các văn bản truyện văn học Việt Nam giai đoạn 1930 1945.
+ Nội dung 1: Văn bản truyện ngắn


+ Nội dung 2: Đoạn trích tiểu thuyết
- Chuyên đề ôn luyện về các văn bản thơ ca văn học Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945.
+ Nội dung 1: Thơ mới
+ Nội dung 2: Thơ ca cách mạng
*Khối 12:
- Chuyên đề ôn luyện về các văn bản thơ ca văn học Việt Nam giai đoạn từ 1945
đến hết thế kỉ XX.
+ Nội dung 1: Thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp
+ Nội dung 2: Thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Mĩ
+ Nội dung 3: Thơ ca thời kì đổi mới (những năm 80)
- Chuyên đề ôn luyện về các tác phẩm truyện văn học Việt Nam giai đoạn từ 1945

đến hết thế kỉ XX.
+ Nội dung 1: Truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975
+ Nội dung 2: Truyện sau 1975
- Chuyên đề ôn luyện về các tác phẩm tuỳ bút, bút kí.
2.3.2. Vận dụng xây dựng tiến trình thực hiện một chuyên đề cụ thể.
Trong dung lượng quy định của một bản sáng kiến kinh nghiệm chúng tôi
trình bày tiến trình thực hiện một nội dung của một chuyên đề cụ thể trên những
nét lớn, mong các đồng nghiệp tham khảo và đóng góp ý kiến để xây dựng các
chuyên đề khác hoàn thiện hơn.
I. Tên chuyên đề: Ôn luyện về các văn bản truyện văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945 (Ngữ văn 11 – tập 1)
* Nội dung 1: Văn bản truyện ngắn (Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù, Chí Phèo)
II. Chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ và những phẩm chất, năng lực của học
sinh có thể hình thành và phát triển trong dạy học chuyên đề.


- Chuẩn kiến thức : Giúp học sinh nắm vững những đơn vị kiến thức trọng tâm của
các văn bản truyện về cả phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Kĩ năng : Củng cố thêm về kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng khái quát vấn đề; rèn luyện
kĩ năng làm bài nghị luận văn học về văn bản truyện.
- Thái độ : Trân trọng những sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn giai đoạn trước
1945, đồng cảm hơn với những thân phận bất hạnh, cảm phục hơn với nhân cách
cao đẹp của con người.
- Những phẩm chất và năng lực của học sinh có thể hình thành và phát triển trong
dạy học chuyên đề : Yêu thích, có hứng thú với thể loại truyện ngắn, có thói quen
tìm đọc thể loại trong các sách báo ngoài chương trình; biết thưởng thức tài nghệ
của các nhà văn trong sáng tác thể loại truyện ngắn…
- Các phương pháp dạy học:
+ Vận dụng các phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, thuyết trình, thảo luận nhóm.
+ Vận dụng mức 2 trong dạy học theo chuyên đề: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để

học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề
với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
III. Tiến trình thực hiện chuyên đề.
HOẠT ĐỘNG I : ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BẢN TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI VÀ
TRUYỆN NGẮN GIAI ĐOẠN 1930 – 1945.
Giáo viên vận dụng các câu hỏi gợi mở cho học sinh thảo luận và thuyết
trình về đặc điểm của văn bản truyện, đặc điểm riêng nổi bật của thể loại truyện
ngắn hiện đại và truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945. Đây là bước cần thiết giúp học
sinh có cái nhìn khái quát về đặc trưng thể loại, định hình những nét riêng của thể
loại từ đó biết vận dụng để tiếp nhận, củng cố kiến thức của từng văn bản cụ thể.
* Đặc điểm văn bản truyện ngắn hiện đại:
- Truyện ngắn hiện đại phát triển theo nhiều hướng khác nhau, tuỳ theo cách sử
dụng các yếu tố cốt truyện, nhân vật, trần thuật và kết cấu của truyện. Có truyện
ngắn, cốt truyện dựa vào các sự kiện độc đáo, bất ngờ; có truyện ngắn, tâm lí
hướng vào “hành động bên trong”, chú ý đến diễn biến tâm trạng hơn là sự kiện
(thường gọi là “phi cốt truyện”); có truyện ngắn kể sự kiện hoang tưởng, hư ảo; có
truyện ngắn kể các sự kiện “đời thường”.
- Về dung lượng, truyện ngắn thường có dung lượng nhỏ. Nhà văn chỉ cắt lấy một
lát, chọn lấy một khoảnh khắc đời sống để xây dựng nên tác phẩm của mình.


- Về kết cấu, truyện ngắn hiện đại thường không kể theo trật tự tự nhiên của sự
kiện mà bắt đầu ở giữa hay đoạn cuối, sử dụng lối hồi thuật, hồi tưởng, vận dụng
các hình thức ghép nối tạo hiệu quả đối sánh.
- Truyện ngắn hiện đại còn có xu hướng tổng hợp, đan xen, xâm nhập về mặt loại
hình giữa các thể loại (truyện ngắn với kịch, với tiểu thuyết hoặc với thơ). Sự đan
xen, xâm nhập như thế tạo nên các dạng truyện khác nhau : truyện ngắn giàu tính
kịch (truyện ngắn Nguyễn Công Hoan), truyện ngắn giàu tính trữ tình (truyện ngắn
Thạch Lam), truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết (Chí Phèo của Nam Cao)…
* Truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945:

Đây là thể loại tạo nên thành tựu phong phú và vững chắc của văn xuôi Việt
Nam giai đoạn từ đầu thế kỉ XX – 1945 với hàng loạt phong cách độc đáo đẩy thể
loại đạt đến trình độ nghệ thuật cao, một số tác phẩm được đánh giá “không đến
nỗi xa cách với những thành tựu truyện ngắn xuất sắc trên thế giới”.
Các văn bản truyện ngắn được đưa vào chương trình là các văn bản thuộc
các khuynh hướng văn học lãng mạn (Chữ người tử tù) và văn học hiện thực phê
phán (Chí Phèo), riêng Hai đứa trẻ lại giao thoa giữa lãng mạn và hiện thực.
- Truyện ngắn lãng mạn có những đặc trưng nổi bật:
+ Giàu cảm xúc và trí tưởng tượng.
+ Thường hướng tới cái khác thường, phi thường, lý tưởng.
+ Sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản.
- Truyện ngắn hiện thực có những đặc trưng nổi bật:
+ Phản ánh chân thực bản chất và quy luật khách quan của đời sống xã hội.
+ Sáng tạo những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình: nhân vật có cá
tính sắc nét, có cội nguồn trong đời sống thực tế nhưng lại có sức khái quát cao, có
ý nghĩa xã hội phong phú, sâu sắc.
HOẠT ĐỘNG II : CỦNG CỐ KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ CÁC VĂN BẢN
TRUYỆN NGẮN.


Giáo viên nêu các câu hỏi tái hiện, gợi mở, nêu vấn đề giúp học sinh củng cố
những đơn vị kiến thức cơ bản, trọng tâm về các văn bản. Đây là bước giúp học
sinh hiểu thấu đáo về giá trị nội dung – nghệ thuật của văn bản, nét độc đáo về
phong cách sáng tác của tác giả, là cơ sở để học sinh xác định đúng trọng tâm của
đề bài nghị luận về văn bản. Giáo viên có thể nêu các câu hỏi như: Anh/chị hãy nêu
những nét riêng độc đáo về phong cách nghệ thuật của nhà văn ?; Sau khi được đọc
hiểu về văn bản anh/ chị hãy hệ thống những vấn đề chính, hãy xác định những
trọng tâm kiến thức về các phương diện nội dung và nghệ thuật của văn bản ?
Dưới đây là trọng tâm kiến thức mà học sinh cần phải được củng cố trong ôn
luyện về các văn bản truyện trước khi thực hành luyện tập các dạng đề nghị luận

văn học cụ thể.
* Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
- Về tác giả:
+ Con người đôn hậu, có quan niệm về văn chương lành mạnh, tiến bộ.
+ Có biệt tài về truyện ngắn: truyện không có cốt truyện, tập trung ở cảm xúc
mong manh, mơ hồ của nhân vật; viết nhiều về những con người nhỏ bé, bất
hạnh…
- Về tác phẩm:
+ Bức tranh đời sống phố huyện lúc chiều tối.
+ Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên (qua ba cảnh: lúc chiều tối, phố huyện về
đêm, khi đợi xem chuyến tàu đi qua).
+ Gía trị hiện thực và nhân đạo.
+ Thành công về nghệ thuật : truyện ngắn giàu chất thơ.
* Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
- Về tác giả:
+ Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
+ Phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác.


- Về tác phẩm:
+ Hình tượng nhân vật Huấn Cao (vẻ đẹp tài năng, thiên lương, khí phách).
+ Hình tượng nhân vật quản ngục (qua những ứng xử với Huấn Cao).
+ Cảnh cho chữ - cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
+ Ý nghĩa tư tưởng và thành công về nghệ thuật (truyện ngắn giàu kịch tính).
* Chí Phèo (Nam Cao)
- Về tác giả:
+ Đề cao giá trị nhân đạo của tác phẩm văn học, coi đó là yêu cầu tất yếu của một
tác phẩm hay, có giá trị.
+ Có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người;
đặc biệt sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình

tâm lí phức tạp…
- Về tác phẩm:
+ Hình tượng nhân vật Chí Phèo (đi sâu vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người).
+ Các nhân vật có ảnh hưởng đến cuộc đời Chí Phèo: Bá Kiến, Thị Nở.
+ Gía trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.
+ Ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật của cách kết thúc tác phẩm.
+ Những thành công về nghệ thuật của tác phẩm: là truyện ngắn giàu kịch tính với
nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể chuyện độc đáo.
HOẠT ĐỘNG III : CÁC DẠNG ĐỀ LUYỆN TẬP
Giáo viên sử dụng các dạng câu hỏi vận dụng, vận dụng cao để thiết kế các
dạng đề cho học sinh luyện tập. Các đề cho học sinh luyện tập phải theo mức độ từ
đơn giản đến phức tạp. Giáo viên tuỳ theo các đơn vị kiến thức trọng tâm của văn
bản mà thiết kế các đề bài theo các mức độ như trên, từ đó khơi gợi hứng thú tìm
tòi, tiếp nhận và vận dụng của học sinh.


Sau khi cung cấp các dạng đề, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận phân
tích đề, lập dàn ý đại cương hoặc chi tiết cho từng đề bài. Dưới đây là một số các
dạng đề được chúng tôi thực hiện trong quá trình thực hiện chuyên đề.
* Hai đứa trẻ
Đề 1: Phân tích bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện
ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam.
Đề 2 : Phân tích diễn biến tâm trạng (hoặc vẻ đẹp tâm hồn) nhân vật Liên trong
truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Đề 3 : Phân tích ý nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Đề 4 : Nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Thạch Lam thể hiện qua truyện Hai
đứa trẻ.
* Chữ người tử tù
Đề 1 : Phân tích vẻ đẹp hoàn mĩ của hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Đề 2 : Phân tích tính cách của nhân vật viên quản ngục.

Đề 3 : Phân tích tình huống truyện trong truyện Chữ người tử tù
* Chí Phèo
Đề 1 : Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo buổi sáng sau khi gặp thị
Nở.
Đề 2 : Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo.
Đề 3 : Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Chí Phèo.
* Một số đề tổng hợp, so sánh
Đề 1 : Tương quan ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) và
Hai đứa trẻ (Thạch Lam).
Đề 2 : Suy nghĩ về giá trị nhân đạo trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và Chí Phèo
(Nam Cao)


Đề 3 : Trong bài Khoảnh khắc truyện ngắn nhà văn Bùi Hiển nhận định: “Khoảnh
khắc, đúng vậy, phải là cái “khoảnh khắc cốt yếu”, khi nhân vật đặt trong một
hoàn cảnh nhất định, tất phải bộc lộ tính cách chủ yếu của mình, cái tính cách chi
phối cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử, đường đi nước bước và số phận của đời
mình” (Sách giáo khoa Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1; Nhà xuất bản Giáo dục, 2008)
Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói trên và phân tích cái “khoảnh khắc” trong
tuyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Trong hoạt động này, giáo viên cũng có thể tổ chức cho học sinh ôn luyện
các văn bản theo hướng rèn luyện các dạng đề nghị luận về văn bản truyện (dựa
trên những đặc trưng nổi bật của thể loại):
* Dạng đề phân tích, cảm nhận về nhân vật: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn nhân vật
Liên, phân tích bi kịch của nhân vật Chí Phèo, phân tích vẻ đẹp hoàn mĩ của hình
tượng nhân vật Huấn Cao.
* Dạng đề phân tích một khía cạnh nội dung đặc sắc của văn bản : Phân tích giá trị
nhân đạo trong truyện Hai đứa trẻ; phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong
truyện Chí Phèo; phân tích quan niệm của Nguyễn Tuân về cái Đẹp trong truyện
Chữ người tử tù…

* Dạng đề phân tích một khía cạnh nghệ thuật đặc sắc của văn bản : Phân tích tình
huống truyện trong truyện Chữ người tử tù; chất thơ trong truyện Hai đứa trẻ; nghệ
thuật điển hình hoá trong truyện Chí Phèo…
* Dạng đề phân tích, cảm nhận về một sự việc hoặc một chi tiết nghệ thuật đặc
sắc: Phân tích cảnh đợi tàu của chị em Liên An trong Hai đứa trẻ, phân tích cảnh
cho chữ trong Chữ người tử tù, phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau
cuộc gặp thị Nở; cảm nhận về chi tiết bát cháo hành của thị Nở dành cho Chí Phèo,
tương quan ánh sáng và bóng tối trong truyện Hai đứa trẻ…
HOẠT ĐỘNG IV : CUNG CẤP CHO HỌC SINH MỘT SỐ BÀI LÀM TỐT
Giáo viên cung cấp cho học sinh một số bài làm tốt, yêu cầu học sinh đọc kĩ
bài làm, chỉ ra ưu điểm, nhược điểm của bài làm, lấy bài làm làm mẫu để học về kĩ
năng làm văn (mở bài, kết bài, xây dựng đoạn văn, diễn đạt, trình bày dẫn
chứng…). Trên Internet có rất nhiều dạng bài viết, giáo viên nên thường xuyên tìm


kiếm, chọn lọc những bài phù hợp với đối tượng học sinh, hướng dẫn cho học sinh
tìm đọc hoặc in ấn chuyển đến học sinh. Dưới đây là một số bài làm chúng tôi cung
cấp trong quá trình thực hiện chuyên đề.
Bài làm 1: Cảm nhận về nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của
Thạch Lam.
Nguyễn Tuân viết: “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn
nhiều hơn là truyện dài”. Và truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những sáng tác
truyện ngắn của Thạch Lam, mặc dù truyện không có cốt truyện nhưng vẫn để lại
những dư vị sâu sắc trong lòng người đọc. Và đặc biệt, độc giả không thể nào quên
được nhân vật Liên, một cô gái dịu dàng, đảm đang, tâm hồn lúc nào cũng đầy
mộng mơ, mong ước về một tương lai tươi sáng cho phố huyện nghèo mặc dù hiện
tại vẫn còn tăm tối.
Trong tác phẩm, tác giả đã gửi điểm nhìn vào đôi mắt của Liên và An, đặc
biệt là nhân vật Liên để khắc họa bức tranh thiên nhiên và những con người nơi
phố huyện. Qua những cảm nhận của Liên về bức tranh chiều tối ta nhận thấy đây

là một cô gái có tâm hồn nhạy cảm và rất tinh tế. Cảnh chiều tàn được khắc họa với
rất nhiều hình ảnh và màu sắc: phương Tây đỏ rực như lửa cháy, những đám mây
ánh hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên
nền trời…Phép tu từ so sánh được dùng liên tiếp để cụ thể hóa rõ nét vẻ đẹp hùng
vĩ, tráng lệ của bầu trời chiều bùng lên trong khoảnh khắc trước khi tắt, diễn tả một
cách gợi cảm bóng chiều theo bước đi của thời gian chùm lên không gian, nó
nhuộm đỏ trời, nhuộm hồng những đám mấy và nhuộm đen dãy tre làng rồi sa
xuống mặt đất. Tất cả những miêu tả đó gợi một cảm giác buồn man mác, khiến
Liên giật mình hoảng hốt: “Chiều, chiều rồi”. Cùng với đó, là những âm thanh
quen thuộc: văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, muỗi đã bắt đầu
vo ve, tiếng trống thu không…Tác giả đã dùng nghệ thuật lấy động tả tĩnh kết hợp
với các từ láy để nhấn mạnh âm thanh của cuộc sống con người đang tắt dần để
nhường chỗ cho bản nhạc đồng quê. Ngoài âm thanh, còn có mùi vị đó là mùi âm
ẩm bốc lên của rác rưởi, mùi cát bụi, mùi riêng của đất của quê hương này. Tất cả
những điều này đã gieo vào tâm hồn Liên cái buồn của buổi chiều quê, thấm thía
vào tâm hồn ngây thơ của chị, chị thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của
ngày tàn. Chính sự giao hòa giữa tâm hồn Liên với thiên nhiên đã giúp nhà văn vẽ
nên một bức tranh đồng quê quen thuộc, gần gũi, bình dị, nghèo nàn mà vẫn thấm
đượm hồn quê.
Liên luôn khát khao một cuộc sống tốt đẹp và có ý nghĩa hơn. Điều này
được thể hiện qua cảnh đợi tàu của hai chị em Liên. Đêm nào, Liên cũng thao thức


đợi chuyến tàu đi qua như “mong đợi một cái gì tươi sáng” cho sự sống nghèo khổ
hằng ngày. Hình ảnh chuyến tàu đêm với ánh sáng của đèn ghi chiếu sáng cả
đường phố huyện khác hẳn với những khe sáng, hột sáng, chấm sáng của bác phở
Siêu, ngọn đèn của chị Tí…nơi phố huyện tối tăm. Âm thanh của đoàn tàu thật rộn
rã, đó là tiếng còi xe lửa vọng lại, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng hành khách ồn
ào khe khẽ…tất cả gợi sự sôi động, nhộn nhịp, tưng bừng khác hẳn tiếng côn trùng
hoang dã, tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ran và tiếng trống thu không của

chiều tàn. Đoàn tàu chuyển động một cách dồn dập và rầm rộ đi tới gợi sự nhanh
mạnh, khẩn trương, đầy sức sống khác hẳn với những chuyển động nơi phố huyện
như dáng ngồi yên bất động của chị em Liên, dáng dọn hàng uể oải của chị Tí,
dáng đi lảo đảo dần vào bóng tối của bà cụ Thi hơi điên, dáng lom khom đi lại của
lũ trẻ. Chuyến tàu đêm mang ánh sáng và sự nhộn nhịp tấp nập đến, vì vậy đêm
nào hai chị em Liên cũng đợi tàu cho dù có buồn ngủ díu cả mắt.
Khi chuyến tàu đi qua, “Liên lặng theo mơ tưởng” về một “Hà Nội xa xăm,
Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Đó là Hà Nội trong kí ức tuổi thơ của Liên
với những kỉ niệm sâu nặng mà bấy lâu nay Liên thiết tha muốn được sống lại
những ngày xưa hạnh phúc ấy dù chỉ trong khoảnh khắc theo dòng mơ tưởng về
Hà Nội. Sống ở phố huyện yên tĩnh, lặng lẽ này Liên cảm thấy rất buồn : “Đôi mắt
chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn
thơ ngây của chị”. Có lẽ vì vậy mà đêm nào Liên cũng đợi tàu ở Hà Nội như là một
thói quen khó dứt bỏ. Liên muốn hưởng một chút cái náo nức, vui vui mà đoàn tàu
như chở cả thế giới phồn hoa đô hội qua phố huyện nghèo – nơi mà Liên đang
sống. Liên khát khao ánh sáng và sự nhộn nhịp biết bao! Và chỉ có đợi tàu mới
giúp Liên thỏa mãn được khát khao đó. “Con tàu như đã đem một chút thế giới
khác đi qua”, thế giới của đô thành sôi động, sầm uất, vang dội đủ thứ âm thanh
của cuộc sống đời thường trong Liên. Chỉ cần như vậy thôi, Liên cũng đã thấy lòng
mình thanh thản, niềm vui nhẹ khẽ len vào lòng.
Nhưng rồi những cảm giác lắng lại trong tâm hồn Liên, “Liên thấy mình
sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu
sáng được một vùng đất nhỏ”, thế giới thực tại nơi phố huyện của Liên thật tĩnh
mịch và buồn tẻ, nó càng trở nên yên lặng hơn khi con tàu đi qua chấm dứt mọi
hoạt động của một ngày. Thế giới thực tại của Liên là một thế giới khác hẳn với thế
giới mà đoàn tàu đã chở qua phố huyện mỗi đêm, đó là một thế giới tràn đầy ánh
sáng, sang trọng và đông vui nhộn nhịp, không như phố huyện cứ tĩnh lặng, tăm tối
từ ngày này qua ngày khác. Nhìn theo đoàn tàu mang hơi thở của chốn Hà thành,
Liên thấy xao xuyến biết bao, ánh sáng ấy vụt qua đưa Liên về cõi “mơ tưởng”.
Liên nghĩ về quá khứ, tương lai và hiện tại. Quá khứ của Liên thật tươi đẹp nơi

chốn Hà thành nhộn nhịp, huyên náo. Nhưng tương lai của Liên thì mờ mịt lắm,


còn hiện tại thì bóng tối tràn đầy. Tuy vậy, nhưng trong Liên lúc nào cũng tồn tại
những ước mơ, hoài bão về một cuộc sống mới mà ở đó có đầy đủ ánh sáng và âm
thanh chứ không phải là một nơi tĩnh lặng, tù túng như phố huyện này. Thạch Lam
đã dẫn dắt câu chuyện đi theo mạch tâm trạng của nhân vật, ông đi sâu vào đời
sống nội tâm và đặc biệt trân trọng, nâng niu những ước mơ của họ như ước mơ
muốn thay đổi cuộc sống của Liên và An cùng những con người nơi phố huyện.
Cả truyện ngắn cứ nhẹ nhàng theo dòng tâm trạng của nhân vật Liên, để lại
trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên về hình ảnh của Liên cùng những
con người nhỏ bé nơi phố huyện với ước mơ thoát khỏi cuộc sống tù túng, chật hẹp
nơi phố huyện tiêu điều, tối tăm.
Bài làm 2 : Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn "Chữ người tử
tù" của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là một nhà văn xuất sắc trên văn đàn Việt Nam. Ông sáng tác
bằng nhiều thể loại, nhưng nổi tiếng hơn cả là tuỳ bút. Trước Cách mạng tháng
Tám, nhà văn được nhiều người ngưỡng mộ qua tác phẩm Vang bóng một thời.
Đây là tác phẩm tập hợp hơn một chục truyện ngắn viết về một thời vàng son đã
qua, nhưng nay vẫn còn "vang bóng". Ở đây, Nguyễn Tuân vừa thể hiện niềm trân
trọng vốn văn hóa cổ truyền dân tộc, vừa bộc lộ sự nuối tiếc cái thời xa xưa. Chữ
người tử tù là truyện ngắn nổi tiếng rút trong tập Vang bóng một thời. Trong truyện
ngắn này, Nguyễn Tuân đặc biệt thành công trong việc khắc hoạ hình tượng nhân
vật Huấn Cao.
Đọc tác phẩm Chữ người tử tù, nhiều người nhận xét, Nguyễn Tuân đã dựa vào
Cao Bá Quát - một nhà thơ, văn hay chữ tốt, có bản lĩnh kiên cường, lãnh tụ của
phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, vào giữa thế kỉ
XIX. Bằng tài năng kiệt xuất của mình Nguyễn Tuân đã từ nguyên mẫu nói trên
xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp kì vĩ, hiếm thấy.
Khác với phần nhiều những nhân vật chính trong Vang bóng một thời, Huấn

Cao là một con người hết sức có trách nhiệm trước thời cuộc. Ông vừa là người
văn võ song toàn, đồng thời vừa là người có "thiên lương" bền vững, trong sáng.
Lần đầu tiên người đọc được biết Huấn Cao qua cuộc nói chuyện giữa thầy thơ lại
và quản nguc; sau khi quản ngục "nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc
bộ đường" nói về sáu người tù án chém, trong số đó người "thủ xướng" là Huấn
Cao. Quản ngục đã từng nghe người ta đồn, Huấn Cao chính là người "ngoài cái
tài viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa vượt ngục", hay nói cách khác, đây chính là
người "văn võ đều có tài cả" như nhận xét của thầy thơ lại, trong đề lao. Đọc một
vài trang đầu của tác phẩm người đọc không khỏi hồi hộp chờ đợi được tiếp xúc
với một con người kì vĩ, tiếng tăm lẫy lừng... khiến cho cả quản ngục lẫn thầy thơ


lại - những nhân vật chủ chốt trong bộ máy đàn áp của nhà nước phong kiến, phải
bận tâm và kính nể.
Thế rồi, Nguyễn Tuân để cho nhân vật Huấn Cao xuất hiện lần đầu tiên
trước quản ngục và thầy thơ lại (lẫn cả người đọc) bằng hành động "dỗ cái gông
nặng bảy, tám tạ xuống thềm đá", "đánh thuỳnh một cái" và lãnh đạm không thèm
chấp, khi nghe lời dọa dẫm của tên lính áp giải. Trong phòng gian chờ ngày ra
pháp trường, Huấn Cao tuyệt nhiên không bận tâm đến cái chết, ông thản nhiên
nhận rượu thịt, do quản ngục cung cấp, và coi đó như là một việc làm trong cái
hứng của cuộc đời.
Huấn Cao đúng là người hiên ngang, bất khuất. Ông coi khinh những kẻ đại
diện cho giai cấp thống trị. Dưới mắt ông, chúng chỉ là một lũ "tiểu nhân thị oai",
ông không thèm chấp. Bằng việc dỗ cái gông, bằng việc thản nhiên uống rượu, ăn
thịt..., Nguyễn Tuân muốn khắc họa sâu đậm cách sống tự do có phần ngang tàng
của Huấn Cao. Trong tù, trong vòng quản thúc chặt chẽ của bộ máy đàn áp dã man,
đầy những sự tàn nhẫn, lừa lọc, nhưng Huấn Cao vẫn tự do. Kẻ thù có thể giam
cầm ông về thể xác, chứ không thể giam cầm được tinh thần của ông, thậm chí nó
không thể làm thay đổi nổi cách sống của ông. Có lần, quản ngục khép nép hỏi
Huấn Cao, sau nhiều ngày đều đặn dâng rượu và thực phẩm: "Ngài có cần gì thêm

nữa cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất". Ông đã trả lời quản ngục một cách khinh
bạc: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: là nhà người đừng đặt chân
vào đây".
Huấn Cao là một con người hết sức tự trọng, "không vì vàng ngọc hay quyền
thế mà ép mình vất câu đối bao giờ, tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu
cho chữ ". Theo ông, chỉ có thiên lương, tức là bản chất tốt đẹp của con người, và
tình yêu cái đẹp, cái cao thượng với tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" mới là đáng quý,
đáng trân trọng. Kiêu sa, cao ngạo là thế nhưng đến khi hiểu được tấm lòng "biệt
nhỡn liên tài" say mê cái đẹp của quản ngục, Huấn Cao đâu phải chỉ vui vẻ nhận
lời, mà còn chân thành thốt lên những lời thật cảm động, gián tiếp thừa nhận sự sơ
suất của mình: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có
biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy.
Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Thế rồi, sau khi cho chữ
xong, Huấn Cao còn vỗ về, khuyên bảo quản ngục. Người đọc có cảm tưởng như
đây là lời lẽ của người cha khuyên bảo con: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm
về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện
chơi chữ. ở đây (trong chốn lao tù) khó mà giữ được thiên lương cho lành vững và
rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Qua câu nói này, người đọc có
thể cảm nhận được chiều sâu trong tư tưởng của người "thủ xướng" - những kẻ
chống lại triều đình. Đúng là cái đẹp đẽ, cái cao thượng không thể cùng tồn tại với
cái xấu xa, thấp hèn. Đồng thời, mỗi một con người chúng ta chỉ có thể thưởng
thức được cái đẹp, nếu như còn giữ được bản chất trong sáng. Như vậy sức hấp dẫn


của nhân vật này trước hết là sức hấp dẫn của cái tâm cao thượng, của nội dung tư
tưởng sâu sắc.
Ngoài ra, Huấn Cao cũng như phần đông nhân vật trong Vang bóng một
thời đều hết sức tài hoa. Ông nổi tiếng bởi tài năng "viết chữ nhanh, rất đẹp". Chữ
Huấn Cao "đẹp lắm, vuông lắm", khiến cho quản ngục coi việc xin được chữ của
ông là "có một vật báu trên đời", là "mãn nguyện".

Hình tượng ông Huấn Cao thật sự trở thành kì vĩ, lộng lẫy trong cảnh tượng
ông cho chữ quản ngục. Đoạn văn tả cảnh cho chữ thường được nhiều độc giả cho
là đoạn văn hay nhất, kết tinh nghệ thuật của toàn tác phẩm.
Trong đoạn này, Nguyễn Tuân đã phát huy triệt để sức mạnh của một cây bút
lãng mạn để xây dựng một cảnh tượng siêu phàm "xưa nay chưa từng có", gây ấn
tượng mạnh mẽ, sâu sắc cho người đọc. Trong căn buồng nhà giam ẩm ướt, chật
chội, đầy những phân chuột, phân gián, tường chằng chịt mạng nhện - tức là hết
sức điển hình cho một buồng giam những người tù, đã diễn ra việc cho chữ. Chính
nơi đây, ông Huấn để lại cái đẹp, để lại bản di chúc cho đời. Việc cho chữ được
miêu tả một cách thiêng liêng. Ông Huấn Cao trở nên uy nghi, lẫm liệt; thành nhân
vật trung tâm của cảnh tượng "xưa nay hiếm". Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, chỉ
sáng mai thôi, người tử tù này sẽ phải giải vào kinh để chịu án tử hình. Nhưng đêm
nay, dưới ánh đuốc đỏ rực, Huấn Cao đang để tâm trí ung dung viết đại tự, nhằm
lưu lại báu vật cho quản ngục và thầy thơ lại. Lúc này, ông chính là một nghệ sĩ
đích thực được cung kính, ngưỡng mộ tuyệt đối. Huấn Cao ung dung, đường hoàng
còn thầy thơ lại "run rung bưng chậu mực", và quản ngục thì "khúm núm cất
những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ rồi chắp tay vái người tù, nói một câu mà
dòng nước mắt rỉ vào kẽ răng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái
lĩnh!".". Sau khi viết xong, ông Huấn cao "đỡ viên quản ngục đứng thẳng người
dậy" và đĩnh đạc khuyên bảo quản ngục nên thay chỗ ở để giữ thiên lương bền
vững.
Thì ra, ngay trong chốn lao tù này, kì lạ thay, không phải là quản ngục hay
thầy thơ lại (tức là những người đại diện cho giai cấp thống trị) làm chủ, mà lại là
Huấn Cao - kẻ tử thù của xã hội này. Tính khuynh hướng của tác phẩm như thế là
quá rõ. Đây chính là một cách phủ nhận xã hội thối nát đương thời, đây chính là sự
bày tỏ tấm lòng yêu nước của nhà văn Nguyễn Tuân.
Qua hình tượng Huấn Cao, đặc biệt là đoạn cho chữ, nhà văn muốn khẳng
định sự chiến thắng của tài hoa, của nhân cách đối với cái xấu xa, thấp hèn. Đoạn
cho chữ, một mặt làm nổi bật được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm, mặt khác làm
cho hình tượng nhân vật Huấn Cao trở thành phi thường, tạo ấn tượng mạnh mẽ

cho người đọc.
Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao còn được nhà văn khắc họa thông qua việc
xây dựng nhân vật quản ngục và thầy thơ lại. Sự nhẫn nhục của quản ngục, niềm
khao khát xin được chữ ông Huấn Cao, sự lo lắng mai mốt ông Huấn Cao sắp bị


giải đi hành hình, việc "tái nhợt người" khi biết ông Huấn Cao sắp bị giải về kinh,
thái độ cung kính nhận chữ và nỗi xúc động khi nghe lời người tử tù dạy bảo...
khiến cho quản ngục trở thành nhân vật khá sống động. Nhưng quan trọng hơn,
chúng đã cùng tôn vinh Huấn Cao, tô đậm thêm những phẩm chất tuyệt vời của
nhân vật này theo lối "vẽ mây nảy trăng", như cách nói của người xưa.
Thực ra Huấn Cao, quản ngục và thầy thơ lại đều là những nhân cách đẹp đẽ
phi thường. Trong nhà tù, ông Huấn đã tìm được những người tri âm, tri kỉ. Như
vậy, ngay trong chốn xấu xa, tội lỗi, cũng không ít người tốt đẹp. Cái đẹp, cái cao
thượng sẽ được giữ gìn, trân trọng, tuy nhất thời nó có thể bị vùi dập. Phải chăng
điều này cũng có thể rút ra qua hình tượng Huấn Cao, mà lâu nay hầu như chưa ai
nói đến.
****
Ghi chú: Trong quá trình thực hiện chuyên đề, hoạt động II, III, IV, V có thể
tiến hành kết hợp cho từng văn bản. Sau khi giúp học sinh củng cố kiến thức cơ
bản về tác giả, tác phẩm, giáo viên đưa ra các dạng đề, sau đó hướng dẫn học sinh
luyện tập xây dựng hướng giải đề và dàn ý mỗi đề cho từng văn bản. Cuối cùng
các em đọc các bài làm tốt, rút kinh nghiệm về kĩ năng làm văn và vận dụng viết
bài theo năng lực của mình (về nhà hoặc tổ chức trên lớp).
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
* Qua quá trình thực hiện các chuyên đề trong dạy ôn luyện cho các khối lớp
ở trường THPT Triệu Thị Trinh (Nông Cống) từ năm học 2010 – 2011 đến nay
chúng tôi nhận thấy học sinh có những biểu hiện sau đây trong học tập bộ môn:
- Học sinh có hứng thú, tập trung hơn cho môn học. Các em có ý thức chuẩn bị bài

tốt hơn, đặc biệt có ý thức đọc kĩ văn bản, biết soi chiếu văn bản với đặc trưng loại
thể, so sánh các văn bản cùng loại thể cùng giai đoạn với nhau để thấy được sáng
tạo độc đáo của mỗi nhà văn.
- Trong quá trình học tập chuyên đề, học sinh hứng thú trong việc nhận biết kiến
thức trọng tâm của văn bản khi thấy được đặc trưng thể loại và những độc đáo về
phong cách nghệ thuật của tác giả.
- Trong quá trình luyện tập, ứng dụng để giải quyết các dạng đề học sinh có độ tập
trung cho từng dạng đề từ đơn giản đến phức tạp; thấy được mối liên hệ của các


văn bản cùng loại thể, cùng giai đoạn để đào sâu suy nghĩ phát hiện những đóng
góp riêng của mỗi tác giả.
- Được đọc những bài làm hay học sinh có hứng thú hơn trong việc tìm đọc những
tài liệu tham khảo về văn bản, về nhà văn. Từ đó biết so sánh các bài viết để chọn
lọc những bài viết hay, nhiều sáng tạo để học tập, rèn luyện.
- Một số học sinh về nhà có ý thức tự giác chọn đề và tự luyện tập để viết bài văn
hoàn chỉnh, thường xuyên nhờ thầy đọc và góp ý; các em cũng có hứng thú tìm đọc
thêm các văn bản cùng thể loại của các tác giả.
Sau đây là bảng so sánh kết quả bài kiểm tra giữa lớp dạy theo chuyên đề và
lớp không dạy theo chuyên đề qua các khoá học:
Lớp



Kết quả bài kiểm tra nghị luận về văn bản

số

truyện giai đoạn 1930 – 1945
Điểm giỏi


Điểm khá

Điểm TB

Ghi chú

Điểm yếu,
kém

11 A3

40

3

7

27

3

dạy theo

(2009 – 2011)
11 A3

chuyên đề
43


8

11

23

1

(2013 – 2015)

Lớp dạy theo
chuyên đề

(2010 – 2012)
11 A3

Lớp không

41

10

17

14

0

Lớp dạy theo
chuyên đề


* Với bản thân, trong quá trình biên soạn và hướng dẫn học sinh học tập
theo các chuyên đề chúng tôi có sự tập trung, đào sâu hơn cho từng thể loại. Trong
cái nhìn so sánh về các văn bản cùng thể loại chúng tôi cảm nhận rõ hơn về giá trị
của từng văn bản và những sáng tạo riêng của mỗi nhà văn, đặc biệt có ý thức tìm
tòi sâu hơn về văn bản và thể loại để nâng cao chất lượng cho mỗi chuyên đề.


* Với đồng nghiệp và nhà trường : Trong quá trình dạy học theo các chuyên
đề chúng tôi có sự phối hợp với các đồng nghiệp để bổ sung thêm nguồn tài liệu,
tham khảo ý kiến để hoàn thiện một số chuyên đề. Qua đó nhận thấy các đồng
nghiệp cũng tích cực trong việc sưu tập tài liệu sâu về từng thể loại, từ đó nâng cao
chất lượng dạy ôn luyện trong điều kiện phải tự thiết kế nội dung ôn luyện bộ môn
cho học sinh. Với nhà trường, chúng tôi cũng đã đề xuất phương hướng xây dựng
các chuyên đề trong dạy ôn luyện bộ môn thực hiện với các lớp khối C. Các giáo
viên được phân công hoặc phối hợp với nhau xây dựng các chuyên đề và giảng dạy
một số buổi nhất định cho các lớp ngoài lớp mình phụ trách về chuyên đề mình đã
chuẩn bị chu đáo.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:


Thực hiện dạy học các chuyên đề theo loại thể giúp chúng tôi luôn có ý thức
tìm tòi, xây dựng kiến thức cho mỗi chuyên đề một cách cơ bản, cập nhật. Qúa
trình thực hiện một chuyên đề theo chúng tôi ngoài vận dụng những hướng dẫn của
Bộ, cần thể hiện rõ được các bước:
- Cung cấp và hướng dẫn học sinh nắm vững đặc trưng của từng loại thể trong từng
giai đoạn văn học.
- Hướng dẫn học sinh củng cố những đơn vị kiến thức trọng tâm nhất về tác giả,

tác phẩm. Đây là bước quan trọng vì học sinh có hiểu được thấu đáo những nét độc
đáo về tác giả, tác phẩm thì mới có thể vận dụng giải quyết các dạng đề có hiệu
quả, đúng và hay.
- Hình thành các dạng đề cụ thể cho mỗi văn bản với mức độ từ đơn giản đến phức
tạp. Giáo viên có thể sưu tầm, tập hợp các dạng đề trong các tài liệu tham khảo, đề
thi trong các kì thi quốc gia hoặc tự ra các đề và hướng dẫn học sinh luyện tập.
Đây là bước cần nhiều thời gian vì chủ yếu rèn luyện kĩ năng làm văn. Giáo viên
có thể căn cứ vào thời lượng được bố trí ôn luyện cho bộ môn để lựa chọn, tiến
hành phù hợp.
- Cung cấp cho học sinh một số bài làm tốt để các em tham khảo.
- Cho học sinh luyện tập chọn đề bài để viết thành bài văn hoàn chỉnh (về nhà hoặc
sắp xếp thời gian trên lớp).
Dạy học theo chuyên đề có thể áp dụng cho các phân môn tiếng Việt, làm
văn, qua đó có thể giúp học sinh nắm kiến thức có hệ thống, có chiều sâu hơn.
3.2. Kiến nghị:
Với những hiệu quả đạt được trong quá trình dạy học các chuyên đề chúng
tôi có một số kiến nghị sau:
- Với tổ bộ môn : Yêu cầu mỗi thành viên mỗi học kì phải xây dựng và dạy một đến
hai chuyên đề cho khối lớp mà mình phụ trách. Trong sinh hoạt tổ nhóm chuyên
môn phải thường xuyên thảo luận, xây dựng hoàn thiện hơn cho từng chuyên đề;
vận dụng phù hợp cho các phân môn tiếng Việt và Làm văn. Trong quá trình giảng
dạy các giáo viên trong tổ nhóm có thể dạy đổi cho nhau khi thực hiện các chuyên
đề mà mình đã được giao chuẩn bị.


×