Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiết 114, bài ôn tập tiếng việt, chương trình ngữ văn 11, ban cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.55 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH
TÌM HIỂU TIẾT 114, BÀI “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT”,
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11, BAN CƠ BẢN
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC,
CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH

Người thực hiện:
Ngô Văn Hoà
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn

1
THANH HOÁ NĂM 2016


MỤC LỤC
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.


8.

NỘI DUNG
Mục lục …………………………………………………………………..
Lí do chọn đề tài………………………………………………………
Mục đích nghiên cứu………………………………………………...
Đối tượng nghiên cứu……………………………………………….
Phương
pháp
nghiên
cứu…………………………………………...

sở

luận
của
sáng
kiến…………………………………………
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến…….…….
Các sáng kiến và giải pháp cụ thể đã áp dụng……….

TRANG
1
2
2
2
3
3
4
4


…….

9.

Bước thứ nhất của sáng kiến ……………………………….

5

……..

10. Bước thứ hai của sáng kiến ………………………………….

5

…….

11. Bước thứ ba của sáng kiến………………………………………...
12. Hiệu quả của sáng kiến ……………………………………..

11
11

………

13. Kết luận và kiến nghị……………………………………….……….
14. Tài
liệu
tham
khảo…………………………………………………….


12
14

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
- Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy
tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng
tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách
phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học
đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang
tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học
được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để
đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối
"truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện
kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đổi mới phương pháp dạy học
không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết
trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu
quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Việc phối hợp đa dạng các phương pháp
và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan
trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.
- Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học là hình thành và
phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm
thông tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của
tư duy. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được
nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên”.

- Tôi luôn nghĩ rằng, việc hướng dẫn học sinh ôn tập một tiết học Tiếng
Việt đòi hỏi nhiều kỹ năng và công sức, cần có sự kết hợp của nhiều phương
pháp, phương tiện. Trong đó, điều cốt yếu là phải đảm bảo được việc vừa ôn tập
được kiến thức về lí thuyết, vừa rèn luyện được kĩ năng, vừa liên hệ, mở rộng để
học sinh có thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong hoạt động giao tiếp
ngoài nhà trường.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài Một số kinh nghiệm hướng dẫn học
sinh tìm hiểu tiết 114, bài Ôn tập Tiếng Việt, chương trình Ngữ văn 11, Ban
cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh để trao đổi cùng
đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu để đưa ra được những sáng kiến mới trong cách giảng dạy tiết
114, bài Ôn tập Tiếng Việt lớp 11, chương trình cơ bản, từ đó giúp học sinh có
sự hứng thú trong học tập và phát huy năng lực tự học, tính chủ động sáng tạo
trong quá trình tiếp cận tri thức.
3


3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài, tôi chỉ trình bày một số kinh nghiệm ở một tiết dạy
cụ thể, đó là tiết 114, bài Ôn tập Tiếng Việt lớp 11, chương trình cơ bản và áp
dụng cho một đối tượng cụ thể là học sinh trường THPT Thọ Xuân 5 - Thọ
Xuân.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tự nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tôi chủ động tìm
hiểu các tài liệu chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học, các quan điểm đổi
mới phương pháp dạy học, các phương pháp phát huy năng lực tự học, sáng tạo
của học sinh, các phương pháp dạy học Tiếng Việt.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Để có cơ sở
cho việc áp dụng phương pháp và kinh nghiệm này, tôi đã tổ chức điều tra, khảo

sát, thu thập thông tin về thực tế dạy học liên quan đến đề tài của mình ở một số
trường trên địa bàn huyện và tất cả các lớp cùng khối trong nhà trường.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Qua việc khảo sát, thu thập thông
tin, tôi đã tín hành xử lí số liệu, thống kê đối chiếu kết quả trước và sau khi áp
dụng đề tài để rút kinh nghiệm và khẳng định tính thực tiễn và hiệu quả của đề
tài.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện
tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học
theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng này.
- Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức
dạy học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có
những hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp,
học ở ngoài lớp... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để
đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
nâng cao hứng thú cho người học. Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy
học môn học tối thiểu đã qui định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm
nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích
cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
4



- Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những
yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho
sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định
hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính
hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình
thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học.
Cùng với dòng chảy toàn cầu hoá đối với kinh tế là toàn cầu hoá đối với khoa
học, công nghệ, thông tin, văn hoá và tất nhiên trong đó có ngôn ngữ. Bởi, với
tư cách vừa là công cụ giao tiếp vừa là một phần của văn hoá, ngôn ngữ là một
hiện tượng xã hội đặc biệt, có chức năng phản ánh mọi đổi thay của xã hội như
“chiếc hàn thử biểu”, đồng thời có chức năng tác động vào xã hội, góp phần làm
thay đổi xã hội như một xung lực . Do vậy, dạy học Tiếng Việt và phát huy năng
lực sử dụng tiếng Việt hiệu quả trong giao tiếp ở mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội hướng tới việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh không chỉ tạo
ra được tính thực tiễn cao của việc dạy – học Tiếng Việt trong nhà trường, mà
chính là một “lối thoát” quan trọng, khắc phục tính “hàn lâm” của nội dung dạy
học môn Tiếng Việt.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Về phía người dạy: Trên thực tế khảo sát tại một số trường THPT trên địa
bàn huyện và các lớp cùng khối trong nhà trường, tôi nhận thấy, giáo viên thực
hiện tiết dạy theo một số phương pháp sau đây: Hoặc là hướng dẫn học sinh làm
các bài tập theo định hướng trong sách giáo khoa, hoặc củng cố khái quát phần lí
thuyết và học sinh tự củng cố kĩ năng từ bài tập sách giáo khoa. Có trường hợp
chỉ củng cố bài học nằm trong đề cương ôn tập học kì, các nội dung khác thường
yêu cầu học sinh tự ôn tập mà không có sự hướng dẫn của giáo viên.
- Đối với học sinh: Vì đây là một bài ôn tập, lại ở thời điểm cuối của năm
học nên thường xảy ra các trường hợp: Hoặc là thụ động ôn tập theo hướng dẫn
của giáo viên trên lớp, hoặc chỉ quan tâm đến ôn tập lí thuyết các bài học Tiếng

Việt đã học trong chương trình mà không quan tâm đến việc rèn luyện các kĩ
năng cần thiết của bài học, hoặc thực hiện các bài tập trong sách giáo khoa mà
không quan tâm đến việc đã được học gì về lí thuyết Tiếng Việt. Số lượng học
sinh chủ động tự học, tự ôn tập, rèn luyện kĩ năng là không nhiều.
- Về phương pháp: Xuất phát từ thực tế dạy và học như trên, dẫn đến
phương pháp áp dụng cho bài học cũng không thực sự phong phú và hiệu quả,
chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, cũng như chưa phát
huy khả năng tự học trên nguyên tắc tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
- Từ thực trạng này, tôi đã nghiên cứu, kết hợp phương pháp, sử dụng
phương tiện phù hợp để phát huy hiệu quả bài Ôn tập phần Tiếng Việt, hướng tới
phát huy năng lực tự học, sự chủ động, sáng tạo của học sinh. Tôi đã chú trọng
cả việc ôn tập lí thuyết, cả rèn luyện kĩ năng, nhấn mạnh những liên hệ thực tế,
mở rộng vấn đề để giúp học sinh phát huy năng lực, chủ động giải quyết các tình
huống trong hoạt động giao tiếp. Do vậy, tôi mạnh dạn trao đổi cùng đồng
nghiệp: Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiết 114, bài Ôn tập
5


Tiếng Việt, chương trình Ngữ văn 11, Ban cơ bản nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh
3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp cụ thể đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
Trước khi tiến hành tiết dạy, giáo viên cần dặn dò kĩ lưỡng học sinh về
việc chủ động tìm hiểu bài học, trong đó, yêu cầu học sinh phải kể tên được các
bài học về Tiếng Việt trong chương trình, tự ôn tập lại các nội dung về lí thuyết,
tìm hiểu trước các bài tập trong sách giáo khoa. Bản thân giáo viên sẽ chủ động
soạn giáo án, sử dụng phương tiện dạy học để bài học sinh động, trực quan. Sau
đó, tổ chức bài học theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh
theo các bước sau đây:
3.1. Bước thứ nhất: Xác định nội dung ôn tập trong tiết 114.

- Đầu tiên: Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày tên các bài học về Tiếng
Việt ở lớp 11. Học sinh tìm hiểu và trình bày trước lớp.
- Giáo viên kết luận về các bài học về Tiếng Việt ở chương trình lớp 11
gồm có:
1. Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.
2. Ngữ cảnh.
3. Nghĩa của câu.
4. Đặc điểm loại hình tiếng Việt.
5. Phong cách ngôn ngữ báo chí.
6. Phong cách ngôn ngữ chính luận.
7. Thực hành nghĩa của từ trong sử dụng
8. Thực hành một số kiểu câu trong văn bản.
9. Thực hành thành ngữ, điển cố.
10. Thực hành lựa chọn các bộ phận trong câu.
Tuy nhiên, trong mười bài học trên, có bài là tự học có hướng dẫn, có
những bài chỉ thực hành mà không học lại lí thuyết, bởi phần lí thuyết đã được
học ở lớp 10 và THCS. Do vậy, trong thời lượng 2 tiết ôn tập của phần Tiếng
Việt 11, đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn được đơn vị kiến thức nào là mới, là
trọng tâm để ôn tập, phần còn lại sẽ hướng dẫn học sinh tự rèn luyện.
- Giáo viên xác định nội dung ôn tập trọng tâm trong 2 tiết 114 và 115 của
lớp 11 gồm có các bài sau:
1. Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.
2. Ngữ cảnh.
3. Nghĩa của câu.
4. Đặc điểm loại hình tiếng Việt.
5. Phong cách ngôn ngữ báo chí.
6. Phong cách ngôn ngữ chính luận.
- Kết luận và nhấn mạnh nội dung ôn tập của tiết 114 là các bài học
sau:
1. Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.

2. Ngữ cảnh.
3. Nghĩa của câu.
6


3.2. Bước thứ hai: Tổ chức ôn tập cụ thể.
3.2.1. Bài thứ nhất: Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
3.2.1.1. Củng cố kiến thức
- Giáo viên củng cố kiến thức lí thuyết bằng phương pháp nêu vấn đề, yêu
cầu học sinh trình bày những hiểu biết của mình về bài học “Từ ngôn ngữ
chung đến lời nói cá nhân”.
- Học sinh làm việc và trả lời câu hỏi.
- Giáo viên kết luận:
+ Ngôn ngữ chung: Là tài sản chung của xã hội, là ngôn ngữ giao tiếp
chung của một cộng đồng. Ngôn ngữ chung có các yếu tố chung cho mọi cá
nhân trong cộng đồng như: âm, tiếng, từ, cụm từ cố định,… Ngôn ngữ chung có
những quy tắc và phương thức chung cho mọi cá nhân
+ Lời nói cá nhân: Là sản phẩm riêng của cá nhân. Khi giao tiếp, cá nhân
thường huy động ngôn ngữ chung để tạo ra lời nói. Trong lời nói cá nhân có
nhiều yếu tố riêng của cá nhân như giọng nói, vốn từ, sáng tạo từ, … tạo ra
phong cách cá nhân. Cá nhân có thể tạo yếu tố mới theo quy tắc và phương thức
chung, góp phần làm cho ngôn ngữ chung phát triển
+ Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân: Ngôn ngữ chung
là cơ sở để sản sinh lời nói cá nhân. Lời nói cá nhân là thực tế sinh động và hiện
thức hóa yếu tố chung của ngôn ngữ
3.2.1.2. Rèn luyện kĩ năng.
- Giáo viên lựa chọn ví dụ:
Thương vợ (Tú Xương)
Quanh năm buôn bán ở mon sông
Nuôi đủ năm con với một chồng,

Lặn lội thân có khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông,
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công,
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Nêu câu hỏi: Hãy chỉ ra một số yếu tố thuộc ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân
ở bài thơ trên ?
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Phần ngôn ngữ chung: Các từ trong bài thơ đều thuộc ngôn ngữ chung;
các quy tắc đặt câu, ngữ pháp đều thuộc quy tắc của ngôn ngữ chung.
+ Phần cá nhân: Sự vận dụng sáng tạo của Tú Xương: “Lặn lội thân cò”,
“Eo sèo mặt nước” lấy từ ngôn ngữ chung, nhưng đã đảo trật tự từ; “Năm nắng
mười mưa” (vận dụng thành ngữ),...
=> Tất cả: thể hiện sự chịu thương, chịu khó, tần tảo đảm đang của bà Tú.
- Giáo viên lựa chọn ví dụ thứ 2:
7


Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
(trích Tự tình II, Hồ Xuân Hương)
Nêu câu hỏi: Hãy chỉ ra các yếu tố thuộc ngôn ngữ chung và lời nói cá
nhân ở ví dụ trên ?
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Ngôn ngữ chung: Các từ trong hai câu thơ đều thuộc ngôn ngữ chung;

các quy tắc về đặt câu, ngữ pháp cũng thuộc quy tắc của ngôn ngữ chung
+ Phần cá nhân: Sự sáng tạo trong sắp xếp từ ngữ tạo nên giá trị tạo hình
và sức gợi:
Đảo trật tự từ:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Chứ không phải là:
Từng đám rêu xiên ngang mặt đất
và:
Đâm toạc chân mây, đá máy hòn
chứ không phải là
Mấy hòn đá đâm toạc chân mây
Giá trị cơ bản của việc đảo trật tự từ: Nhấn mạnh hành động mạnh mẽ,
quyết liệt của những vật nhỏ bé vô tri, qua đó, gửi gắm nhiều tâm tư của người
làm thơ.
3.2.1.3. Liên hệ, mở rộng:
- Việc tuân thủ các qui tắc chung của ngôn ngữ là điều căn bản để sử dụng
và vận dụng có hiệu quả ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Việc sáng tạo từ
ngữ trên nguyên tắc chung là yếu tố quan trọng giúp cho ngôn ngữ chung phong
phú và tạo được phong cách cá nhân.
- Quá trình sử dụng Tiếng Việt luôn đòi hỏi mỗi người phải sáng tạo từ
ngữ để diễn đạt được phong phú, chính xác và biểu cảm lời nói cá nhân nhưng
phải đảm bảo giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
3.2.2. Bài thứ 2: Ngữ cảnh.
3.2.2.1. Củng cố kiến thức.
- Giáo viên củng cố kiến thức bằng câu hỏi trắc nghiệm sau:
Hãy chọn đáp án về lời giải thích đúng nhất khái niệm ngữ cảnh
1. Ngữ cảnh là những câu văn đi trước và những câu văn đi sau một câu
văn nào đó.
2. Ngữ cảnh là hoàn cảnh khách quan được nói đến trong câu.
3. Ngữ cảnh là hoàn cảnh ngôn ngữ vào một thời điểm nhất định.

4. Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ và
tạo lập lời nói, đồng thời làm căn cứ để lĩnh hội được nội dung, ý nghĩa của lời
nói.
- Học sinh sẽ căn cứ vào những kiến thức đã được tìm hiểu để lựa chọn
đáp án đúng cho câu hỏi và trình bày trước lớp.
- Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích, đưa ra lập luận giải thích lí do
không lựa chọn đáp án khác và kết luận:
+ Đáp án đúng là đáp án D. Các đáp án còn lại là các yếu tố của Ngữ cảnh
chứ không phải toàn bộ ngữ cảnh
8


+ Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ, làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ, tạo
lập lời nói, đồng thời làm căn cứ để lĩnh hội lời nói. Các nhân tố của ngữ cảnh là
nhân vật giao tiếp, bối cảnh ngoài ngôn ngữ (bối cảnh rộng và hẹp, hiện thực
được đề cập) và văn cảnh
+ Ngữ cảnh có vai trò quan trọng trong cả tạo lập và lĩnh hội lời nói.
3.2.2.2. Rèn luyện kĩ năng.
- Giáo viên nêu ví dụ 1:
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác
trong bối cảnh nào? Chỉ ra một số chi tiết cho thấy sự chi phối của bối cảnh
sáng tác đối với nội dung và hình thức câu văn?
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Bối cảnh sáng tác: Tác phẩm được sáng tác trong bối cảnh trận tập kích
của các nghĩa sĩ Cần Giuộc vào đồn Pháp đêm 14-12-1861. Trận đánh đó nhiều
nghĩa sĩ đã hy sinh. Nhưng các nghĩa sĩ cũng đã giết được tên quan hai Pháp và
một số lính thuộc địa
+ Những yếu tố trên (chỗ được gạch chân) của ngữ cảnh đã chi phối một

số chi tiết trong tác phẩm (chỗ gạch chân) như: Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao
phay, cũng chém rớt đầu quan hai no và Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm
sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ
- Giáo viên nêu ví dụ 2:
Trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến có câu:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Chữ cần trong hai câu thơ trên được hiểu như thế nào? Yếu tố nào của bài
thơ giúp
người đọc hiểu nghĩa của chữ cần trong câu thơ ?
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Chữ cần được hiểu là cần câu.
+ Yếu tố giúp người đọc hiểu như vậy là: Ở trong bài thơ, trước khi xuất
hiện hình ảnh Tựa gối buông cần đã có các từ ngữ, hình ảnh ao thu, thuyền câu.
Sau đó là từ ngữ: cá, đớp động, chân bèo.
=> Các yếu tố góp phần hiểu chữ cần được gọi là văn cảnh - một yếu tố
của Ngữ cảnh, giúp người đọc, người nghe lĩnh hội được lời nói
- Giáo viên nêu ví dụ 3:
Trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, có câu mở đầu là:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Em hiểu câu thơ này như thế nào? Căn cứ vào yếu tố nào để hiểu câu thơ ?
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
9


+ Về hình thức: Đây là một câu hỏi tu từ

+ Về sắc thái biểu cảm: Câu thơ như là lời mời mọc, lại như là lời trách cứ
và cũng như là lời tự vấn.
+ Căn cứ để hiểu ý nghĩa và sắc thái của câu thơ là: Hoàn cảnh ra đời của
bài thơ, mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một cô gái xứ Huế và lời
thăm hỏi, động viên của người con gái ấy đối với Hàn Mặc Tử khi nhà thơ đang
lâm bệnh nặng. Dựa trên căn cứ này thì câu thơ là sự giao thoa của tất cả sắc thái
trên. Khiến câu thơ trở nên đa sắc thái và bộc lộ tâm trạng có phần day dứt của
thi nhân.
=> Ngữ cảnh có vai trò quan trọng trong việc tạo lập và lĩnh hội lời nói.
- Giáo viên nêu ví dụ 4:
Bài thơ Tràng giang của Huy cận có hai câu:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nêu câu hỏi: Hãy xác định các nhân vật giao tiếp (người nói, người nghe)
của hai câu thơ này ? Hiện thực được nhắc tới của hai câu thơ đó là gì ?
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Nhân vật giao tiếp là: Người nói (viết) là tác giả và người nghe (đọc) là
độc giả.
+ Hiện thực được nói đến là: Nỗi nhớ quê, nhớ nhà trào dâng vơi đầy như
con nước trong lòng thi nhân.
=> Ngữ cảnh bao gồm nhân vật giao tiếp, bối cảnh, hiện thực được nhắc
tới và văn cảnh
3.2.2.3. Liên hệ, mở rộng.
- Trong quá trình tiếp nhận và lĩnh hội các văn bản văn học, việc nắm
vững ngữ cảnh của văn bản sẽ góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu nội
dung, tư tưởng tình cảm mà tác giả gửi gắm, cũng như hiểu được một số hình
ảnh, câu chữ trong văn bản, như Tràng Giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của
Hàn Mặc Tử, ở chương trình 12 như Tây tiến của Quang Dũng, Tiếng hát con

tàu của Chế Lan Viên, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm,…
- Trong hoạt động giao tiếp, cần nắm vững ngữ cảnh phát sinh lời nói để
hiểu được những câu nói có ẩn ý của đối tượng giao tiếp.
- Trong giao tiếp, mỗi người cũng nên căn cứ vào ngữ cảnh cụ thể để lời
nói trở nên tế nhị, có hàm ý mà không ảnh hưởng đến quan hệ với người nghe và
góp phần làm phong phú vốn từ của bản thân.
3.2.3. Bài thứ 3: Nghĩa của câu
3.2.3.1. Củng cố kiến thức.
- Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày các thành phần nghĩa của câu và chỉ
ra cách nhận diện các thành phần nghĩa này ?
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
10


- Giáo viên kết luận vấn đề như sau: Hai thành nghĩa của câu gồm:
+ Nghĩa sự việc: Là sự việc mà câu đề cập đến. Sự việc có thể là hành
động, trạng thái, quá trình, tư thế, sự tồn tại, quan hệ. Nghĩa sự việc do các thành
phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, khởi ngữ, các thành phần phụ khác của câu
biểu hiện.
+ Nghĩa tình thái: Thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá, thái độ của người nói
đối với sự việc, thể hiện tình cảm, thái độ của người nói đối với người nghe.
Nghĩa tình thái có biểu hiện riêng nhờ các từ ngữ tình thái.
3.2.3.2. Rèn luyện kĩ năng.
- Giáo viên nêu ví dụ 1 và yêu cầu học sinh chỉ ra hai thành phần nghĩa
của câu trong ví dụ dưới đây:
Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!
(Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân)
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.

- Giáo viên kết luận vấn đề: Ví dụ này có 2 câu. Trong đó, câu thứ nhất:
+ Nghĩa sự việc tập trung ở ý: y văn võ đều có tài cả (nhắc tới một người
văn võ toàn tài).
+ Nghĩa tình thái: Thế ra là thái độ ngạc nhiên của người nói với sự việc
“y văn võ đều có tài cả”. Dạ bẩm: Là thái độ kính cẩn của người nói với người
nghe.
Câu thứ hai:
+ Nghĩa sự việc: Không có.
+ Nghĩa tình thái: là thái độ thán phục của người nói với đối tượng được
nhắc tới chà chà
=> Mỗi câu thường có 2 thành phần nghĩa. Tuy nhiên, với những câu chỉ
cấu tạo bằng các từ cảm thán thì chỉ có nghĩa tình thái mà không có nghĩa sự
việc.
- Giáo viên nêu ví dụ và vấn đề 2: Chỉ ra hai thành phần nghĩa của câu
trong ví dụ dưới đây:
Vườn ai mướt quá xanh như ngoc
(Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử)
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Nghĩa sự việc: Nói tới một mảnh vườn mượt mà, tốt tươi lung linh như
ngọc bích
+ Nghĩa tình thái: Bộc lộ sự trầm trồ ngạc nhiên của người nói (mướt quá)
đối với sự việc (mảnh vườn tốt tươi)
- Giáo viên nêu ví dụ và vấn đề 3: Chỉ ra hai thành phần nghĩa của câu
trong ví dụ dưới đây:
Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.
(Tinh thần thể dục, Nguyễn Công Hoan)
11



- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Nghĩa sự việc: Nói tới sự việc theo lệnh quan thì lần này đến lượt mày
rồi.
+ Nghĩa tình thái: Kệ mày: Là thái độ bực tức, hách dịch của người nói
với người nghe.
- Giáo viên nêu ví dụ và vấn đề 4: Chỉ ra hai thành phần nghĩa của câu
trong ví dụ dưới đây:
Em thắp đèn lên chị Liên nhé
(Hai đứa trẻ, Thạch Lam)
- Học sinh làm việc theo nhóm hoặc cá nhân để trả lời câu hỏi và trình bày
trước lớp.
- Giáo viên kết luận vấn đề:
+ Nghĩa sự việc: Nói tới sự việc người nói thắp đèn lên.
+ Nghĩa tình thái: Nhé: Thể hiện thái độ thân mật, gần gũi của người nói
với người nghe. Còn thái độ đối với sự việc là khách quan, trung hòa.
=> Kết luận: Nghĩa sự việc do các thành phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ,
khởi ngữ, các thành phần phu khác của câu biểu hiện. Nghĩa tình thái: Có biểu
hiện riêng nhờ các từ ngữ tình thái.
3.2.3.3. Liên hệ mở rộng.
- Việc tìm hiểu và phân tích tốt hai thành phần nghĩa của câu là yếu tố
then chốt trong việc cảm thụ, tiếp cận lời nói nói chung và văn bản văn học nói
chung. Bởi đó là một cách để “đào sâu” vào các tầng nghĩa của câu, tìm được tư
tưởng, ẩn ý mà người tạo lập gửi gắm trong câu.
- Cả ba bài học được tiến hành ôn tập trong một tiết là điều kiện rất tốt để
học sinh có cái nhìn tổng quan từ dễ đến khó trong việc tạo lập lời nói, lĩnh hội
lời nói, tạo câu, tạo văn bản và tìm hiểu các tầng nghĩa của câu. Qua đó, có ý
thức hơn trong việc rèn luyện kĩ năng, làm phong phú ngôn ngữ cá nhân, tạo lập

các văn bản sinh động, giàu cảm xúc mà vẫn giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt.
3.3. Bước thứ ba: Giáo viên củng cố, dặn dò học sinh cho tiết ôn tập tiếp theo,
tiết 115 với các bài học như đã trình bày ở bước một.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
4.1. Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục của nhà trường.
- Tôi đã thử nghiệm phương pháp và sáng kiến này ở một lớp 11 của
trường THPT Thọ Xuân 5 và một lớp khác được dạy theo phương pháp truyền
thống, kết quả thu được:
+ Ở lớp không áp dụng sáng kiến này, tôi tiến hành ôn tập bình thường
theo gợi ý từ sách giáo khoa. Kết quả, đa số học sinh đều thụ động, lúng túng
trong việc giải quyết các bài tập, nhất là các bài tập mở rộng, liên hệ.
12


+ Ở lớp tôi áp dụng phương pháp như đã trình bày trong sáng kiến kinh
nghiệm này. Kết quả cho thấy: Đa số nắm vững lí thuyết, biết vận dụng trong
rèn luyện kĩ năng. Các em hứng thú, sôi nổi, tích cực, chủ động tìm hiểu bài học,
chủ động làm việc, biết liên hệ, mở rộng. Đặc biệt, đa số các em biết từ bài học
để thể hiện sự cảm thụ, đánh giá nội dung, ý nghĩa của một câu thơ, một đoạn
văn xuôi trong và ngoài chương trình.
- Kết quả bài kiểm tra sau khi thử nghiệm hai phương pháp và thăm dò ý
kiến học sinh về bài học ở hai lớp:
Thăm dò về bài học
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Khó, Khó,
Lớp

khá,
yếu, Thích, Hiểu
TB
hiểu không
giỏi
kém dễ nhớ
bài
sơ sài
hiểu
11A1 (không áp dụng 6/36
22/36 8/36
6/36
14/36 11/36
5/36
SK)

11A2 (áp dụng SK) 11/35 21/35 3/35
9/35
21/35
3/35
2/35
- Đánh giá: Kết quả trên mặc dù chưa cao nhưng điều đó cho thấy các em
đã có sự hứng thú với phương pháp mới và hiệu quả của phương pháp, giáo viên
giải quyết được việc ôn tập kết hợp củng cố lí thuyết với rèn luyện kĩ năng và
mở rộng liên hệ, học sinh đã thực sự chủ động và tích cực tiếp cận bài học. Đa
phần các em học sinh khi được hướng dẫn tìm hiểu theo phương pháp này thực
sự thấy dễ nắm bài, vận dụng tốt trong việc tìm hiểu, cảm thụ một số nội dung
của tác phẩm văn học.
4.2. Đối với bản thân, đồng nghiệp nhà trường.
- Bản thân tôi nhận thấy mình đã đúc rút được một sáng kiến hữu ích, góp

phần tạo được sự hứng thú, sự chủ động trong việc học tập của học sinh trong
một tiết dạy cụ thể ở trường THPT Thọ Xuân 5.
- Với đồng nghiệp trong nhà trường, đã có một số đồng chí sử dụng cách
làm của tôi và tạo được sự hứng thú học tập, góp phần nâng cao hiệu quả học tập
của học sinh ở phần Tiếng Việt, đồng thời khích lệ đồng nghiệp tiếp tục tìm tòi,
nghiên cứu, áp dụng các phương pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng giảng
dạy bộ môn.
- Với nhà trường: Tôi vẫn đang tích cực áp dụng sáng kiến cho các lớp dạy
và sẽ tiếp tục rút kinh nghiệm cho những năm tiếp theo để hoàn thiện sáng kiến
và áp dụng phổ biến trong nhà trường. Tuy nhiên, hiệu quả ban đầu có thể thấy
được, sáng kiến của tôi đã giúp đồng nghiệp có thêm một phương pháp, một
cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài ôn tập này.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận: Đề tài này là kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tại trường THPT Thọ Xuân 5, đề tài là một
số kinh nghiệm nhỏ của cá nhân về một tiết dạy cụ thể, áp dụng cho một đối
tượng cụ thể là học sinh trường THPT Thọ Xuân 5 – Thọ Xuân, tôi nhận thấy
khi áp dụng đề tài, có nhiều chuyển biến tích cực về hiệu quả và chất lượng
giảng dạy và học tập của học sinh. Đề tài là một gợi ý thú vị, một phương pháp
13


hiệu quả cho đồng nghiệp trong việc thực hiện không chỉ một tiết ôn tập ở lớp
11, mà còn có thể áp dụng cho các bài học tương tự ở các khối lớp khác. Vì vậy,
tôi mạnh dạn trình bày cùng đồng nghiệp để được trao đổi, rút kinh nghiệm cho
việc đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học. Mong được đồng
nghiệp góp ý để được hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị: Trường THPT Thọ Xuân 5 lắp thêm hệ thống máy chiếu cho
toàn khối 11 để thực hiện tốt nhất sáng kiến kinh nghiệm này.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm
2016
Tôi xin cam đoan sáng kiến này là do
tôi tự viết, nếu sai, tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Tác giả

Ngô Văn Hòa

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Ngữ văn 11, tập I, II, NXB Giáo dục, 2008.
2. SGK Ngữ văn 11 Nâng cao, tập I, II, XBN Giáo dục, 2008.
3. SGV Ngữ văn 11, tập I, II, NXB Giáo dục, 2008.
4. Nghị quyết TƯ 8, khoá XI.
5. Dạy học Tiếng Việt trong nhà trường theo hướng phát triển năng lực. GS.TS.
Đỗ Việt Hùng, Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Phong cách học Tiếng Việt, NXB Đại học Sư Phạm, 1998.
7. Phương pháp dạy học Tiếng Việt, NXB Đại học Sư Phạm, 1998.
8. Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên về Đổi mới Phương pháp dạy học, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, 2003.
9. Tài liệu Bồi dưỡng CBQL và Giáo viên về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh theo định hướng năng lực, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2014.
10. Tài liệu tập huấn TTCM cấp THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2013.

15




×