Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

bài tập học ky LUẬT CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.12 KB, 21 trang )

MỞ BÀI
Tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu của tư bản trong kinh
tế thị trường. Vì những lý do khác nhau trong nền kinh tế như cạnh tranh gay
gắt, nhu cầu áp dụng công nghệ mới, nhu cầu về vốn và sức mạnh tài chính... mà
khả năng của từng doanh nghiệp riêng rẽ không thể đáp ứng được mà vấn đề tập
trung kinh tế luôn diễn ra trên thương trường. Mục tiêu cụ thể của các hình thức
khác nhau của tập trung kinh tế suy cho cùng là tạo ra những doanh nghiệp lớn
trên cơ sở tập trung sức mạnh của nhiều doanh nghiệp sẵn có trên thương
trường. Số lượng của các đối thủ cạnh tranh sẽ giảm đi và vì thế, mức độ “hoàn
hảo” cũng giảm sút. Để làm rõ hơn về tập trung kinh tế, em xin được chọn đề
tài: “Các hình thức tập trung kinh tế theo qui định pháp luật cạnh tranh Việt
Nam” làm bài tập học kỳ môn Luật cạnh tranh của mình.

NỘI DUNG
I)
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tập trung kinh tế:
1. Khái niệm và được điểm của tập trung kinh tế:
a. Khái niệm tập trung kinh tế:

Trong khoa học kinh tế và trong khoa học pháp lý, khái niệm TTKT ở
Việt Nam được bình luận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, có ba cách tiếp
cận cơ bản:
Với tư cách là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của cấu
trúc thị trường, TTKT trên thị trường được hiểu là quá trình mà số lượng các
doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trê thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi
sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh
nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất. Cách nhìn nhận này đã làm rõ
nguyên nhân và ảnh hưởng của TTKT đối với cấu trúc thị trường cạnh tranh.
1



Với tính chất là hành vi của các doanh nghiệp, TTKT (còn gọi là tập trung
tư bản) được hiểu là sự gia tăng tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại hoặc một tư
bản này thu hút một tư bản khác. Khái niệm này không đưa ra các biểu hiện cụ
thể của TTKT, nhưng lại cho thấy bản chất và phương thức của hiện tượng.
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm mang tính khái quát để định
nghĩa hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hình thức tập trung kinh tế.
Theo điều 16,17 Luật Cạnh tranh 2004 thì tập trung kinh tế là hành vi của doanh
nghiệp bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh
nghiệp; kiên doanh giữa các doanh nghiệp và các hành vi của Tập trung kinh tế
khác theo qui định của pháp luật.
b. Đặc điểm tập trung kinh tế.

Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi tập trung kinh tế doanh nghiệp dưới
giác độ của pháp luật trong hạn chế cạnh tranh chỉ có các doanh nghiệp mới có
thể là các chủ thể của tập trung kinh tế.
Thứ hai, hành vi tập trung kinh tế được thực hiện dưới những hình thức
nhất định: tập trung kinh tế có thể được tiến hành thông qua những con đường
như sáp nhập, hợp nhất, mua cổ phần, liên doanh ...
Thứ ba, hậu quả của tập trung kinh tế dẫn đến hình thành các doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh, thay đổi cấu trúc trên thị trường và tương
quan cạnh tranh trên thị trường.
2. Vai trò và ảnh hưởng của tập trung kinh tế:
a. Tác động tích cực.

Tập trung kinh tế là động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Tập trung kinh tế góp phần làm tăng
sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua việc
hình thành những công ty lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước
2



và quốc tế. Với sự ra đời của các tập đoàn kinh tế lớn, tập trung kinh tế đã tạo
điều kiện thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật vì các công ty lớn mạnh được hình
thành sẽ đủ sức đầu tư, nghiên cứu đổi mới công nghệ và triển khai ứng dụng
chúng trong sản xuất kinh doanh, một việc mà các công ty nhỏ khó có thể thực
hiện được. Không ai có thể phủ nhận được những vai trò quan trọng của tập
trung kinh tế đến cạnh tranh trên thị trường. Nó có tác động tích cực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên ở Việt Nam số lượng các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số chính vì vậy đất nước ta rất cần các doanh
nghiệp lớn được hình thành trong quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Bên cạnh
đó cùng với quá trình mở cửa thị trường thông qua việc ký kết và gia nhập các
hiệp định thương mại song phương và đa phương đã và sẽ xuất triển những công
ty đa quốc gia hoạt động ở Việt Nam. Với sức mạnh kinh tế của mình, những
công ty này có khả năng tạo lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và trong
bối cảnh đó, một bộ phận doanh nghiệp nội địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế
đang bị loại bỏ dần khỏi đời sống kinh tế. Để khắc phục những hạn chế trên thì
tập trung kinh tế là một cách rất đơn giản và hiệu quả dễ thực hiện. Bằng việc
hợp nhất sát nhập mua lại liên doanh giữa các doanh nghiệp, các nguồn vốn kĩ
thuật công nghiệp được tập trung vào một số doanh nghiệp nhất định. Từ đó các
công ty lớn, các tập đoàn kinh tế được hình thành, có đủ sức cạnh tranh với các
doanh nghiệp nước ngoài và vươn ra thị trường thế giới.
Trong nền kinh tế đẩy mạnh quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để
phát triển tạo những ngành kinh tế mũi nhọn. Tập trung kinh tế thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất vì tập trung kinh tế dẫn đến sự phát triển sâu rộng
của phân công lao động xã hội, đến quy mô sản xuất và kinh doanh. Sau khi
thực hiên tập trung kinh tế, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng quy mô
sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại, đào tạo nhân lực. Người lao động Việt
Nam được huấn luyện bài bản có trình độ tay nghề cao sẽ trở thành nguồn lực
chính của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3



Như vậy, tập trung kinh tế không những có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
nhiều mặt của nền kinh tế nói chung mà còn tăng cường, tích tụ, năng cao khả
năng cạnh tranh tối đa hoá lợi nhuận của các công ty nói riêng.
b. Tác động tiêu cực.

Tập trung kinh tế có thể dẫn tới hậu quả như hình thành các công ty độc
quyền gia tăng vị trí thống lĩnh trên thị trường làm hạn chế cạnh tranh gây tổn
hại đến lợi ích người tiêu dùng. Các công ty đa quốc gia đã tiến hành các vụ tập
trung kinh tế thông qua việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp hoặc thực
hiện các hành vi dưới dạng liên doanh nhưng sau đó chấp nhận lỗ hàng năm trời
để làm cạn kiệt khả năng tài chính của doanh nghiệp Việt Nam, sau đó mua lại
phần đóng góp, chiếm lĩnh thị trường và tiếp tục loại bỏ các doanh nghiệp đối
thủ ra khỏi thị trường.
Tập trung kinh tế có xu hướng phân hóa các doanh nghiệp. Những doanh
nghiệp có ưu thế sẽ giành chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh uy tín được
nâng cao lợi nhuận kinh tế thu được ở mức cao hơn. Còn các doanh nghiệp
không đủ năng lực cạnh tranh sẽ gặp nhiều khó khăn đi vào bế tắc có nguy cơ
dẫn đến phá sản. Đây cũng là nguy cơ dẫn đến hiện tượng độc quyền loại bỏ đối
thủ cạnh tranh một cách vĩnh viễn. Lúc này họ dùng sức mạnh độc quyền của
mình tự do tăng giá bán, giảm giá mua hoặc áp đặt các điều kiện ràng buộc bất
hợp lý trong doanh nghiệp như ép mua, ép bán, mua kèm, bán kèm những sản
phẩm dịch vụ không cần thiết để thu lợi nhuận siêu ngạch với ảnh hưởng đến lợi
ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Độc quyền làm cho nền kinh tế rơi vào
trạng thái ngừng trệ tương đối, mặt nào đó đã làm yếu đi các lực lượng thị
trường và làm cho các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường vận động sai lệch,
càng trở nền kinh tế phát triển.
Người lao động có thể bị mất việc làm cho hợp nhất sáp nhập doanh
nghiệp dẫn đến lao động dôi dư hoặc do doanh nghiệp của họ bị thất thế trong

4


quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn và đi đến phá sản. Người lao động
Việt Nam bị thất nghiệp hàng loạt tạo ra một gánh nặng lớn cho xã hội, cho nhà
nước, tạo ra sức ép đối với các chính sách kinh tế và xã hội của quốc gia.
II)
Tập trung kinh tế theo qui định của pháp luật Việt Nam.
1. Các hình thức tập trung kinh tế.

Theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, các hình thức tập trung kinh tế
bao gồm:
-

Sáp nhập doanh nghiệp: theo khoản 1 điều 17 luật cạnh tranh năm 2004
thì: “Sáp nhập doanh nghiệp là việc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh
nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp
nhập”. Như vậy sau khi xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh, doanh
nghiệp bị sáp nhập không còn tồn tại, còn doanh nghiệp nhận sáp nhập
được hưởng toàn bộ tài sản cũng như quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp

của doanh nghiệp bị sáp nhập.
- Hợp nhất doanh nghiệp: theo Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh 2004 thì:
“Hợp nhất doanh nghiệp làm việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình đi hình
thành một doanh nghiệp mới đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị hợp nhất”. Như vậy, sau khi đăng ký kinh doanh các doanh
nghiệp bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại, doanh nghiệp hợp nhất được
hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ

chưa thanh toán hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp bị hợp nhất.
- Mua lại doanh nghiệp: Khoản 3 Điều 17 Luật cạnh tranh định nghĩa:
“Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một
phần tài sản, cổ phần hóa doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối
hoạt động một hoặc toàn bộ ngành nghề của nghiệp doanh nghiệp bị mua
5


lại”. Như vậy, mua lại doanh nghiệp gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ
và mua lại một phần doanh nghiệp. Mua lại toàn bộ doanh nghiệp thì bản
chất chính là hình thức sáp nhập doanh nghiệp bởi vì mua lại toàn bộ
doanh nghiệp người bán trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như tài
sản của doanh nghiệp được hưởng các quyền, nghĩa vụ và tính hợp pháp
của doanh nghiệp đó. Chỉ có một điểm khác biệt giữa hai hình thức này
đó là việc doanh nghiệp bị mua lại có chấm dứt tồn tại hay không. Tùy
thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp mua, nếu doanh nghiệp bị
mua chấm dứt tồn tại thì đó chính là sáp nhập còn nếu nó tiếp tục hoạt
động như một chủ thể kinh doanh độc lập thì sẽ trở thành công ty con
trong một tập đoàn kinh tế.
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp: Khoản 4 điều 17 Luật cạnh tranh
2004 qui định: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hay nhiều
doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình để hình thành nên doanh nghiệp mới”. Tại Việt Nam
liên doanh thường được hiểu là liên doanh với người nước ngoài vì hình
thức này được quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy
nhiên, thuật ngữ liên doanh cũng xuất hiện ở một số văn bản pháp luật
khác như Luật Doanh nghiệp... nhưng không có định nghĩa cụ thể. Luật
cạnh tranh đã đưa ra khái niệm về liên doanh nhưng không nói đến quốc
tịch của các bên liên doanh do đó có thể hiểu rằng việc liên doanh có thể

tiến hành giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau hoặc giữa một hoặc
nhiều doanh nghiệp Việt Nam với 1 hoặc nhiều doanh nghiệp nước ngoài
miễn là có mục đích thành lập doanh nghiệp mới.
- Các hành vi tập trung kinh tế khác: Đây là cách xây dựng pháp luật phổ
biến của Việt Nam khi sử dụng phương pháp liệt kê nhưng vẫn dự phòng
một điều khoản mở cho phép bổ sung khi cần thiết.
2. Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế:

6


a. Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo với cơ quan pháp lý

cạnh tranh trước khi thực hiện.
Việt Nam áp dụng kiểm soát tập trung kinh tế theo hình thức tiền kiểm và
yêu cầu trong trường hợp các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị
phần kết hợp từ 30 % đến 50% trên thị trường liên quan thì phải thông báo với
cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi thực hiện hành vi tập trung kinh tế. Trường
hợp này thì áp dụng thủ tục kiểm soát bởi vì khi một doanh nghiệp có thị phần
từ 30 % thị trường liên quan sẽ bị coi là có vị trí thống lĩnh và cần được kiểm
soát.
Như vậy, nếu tập trung kinh tế thuộc diện phải thông báo thì thủ tục xem
xét tập trung kinh tế bao gồm các bước:
-

Bước 1: Thông báo Tập trung kinh tế: các doanh nghiệp kinh tế có thị
phần kết hợp từ 30 % đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp
pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh
tranh Trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Trường hợp thị phần kết hợp
của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30 % trên thị

trường liên quan hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập
trung kinh tế vẫn thuộc loại vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật thì

không phải thông báo.
- Bước 2: Thụ lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế. Trong thời hạn 7 ngày
làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ thông báo việc tiếp nhận hồ sơ, cơ
quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho
doanh nghiệp nộp hồ sơ về tính hợp lệ đầy đủ của hồ sơ; trường hợp hồ sơ
chưa đầy đủ cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm chỉ rõ những nội
dung cần bổ sung.
- Bước 3: Trả lời thông báo về hồ sơ tập trung kinh tế. Trong thời gian 45
ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ thông báo tập trung kinh tế, cơ
quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho doanh
7


nghiệp nộp hồ sơ. Văn bản trả lời của cơ quan quản lý cạnh tranh phải xác
định tập trung kinh tế thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm;
+ Tập trung kinh tế bị cấm theo qui định tại điều 18 Luật cạnh tranh; lý do cần
phải được nêu rõ trong văn bản trả lời.
Trường hợp tập trung kinh tế có nhiều tình tiết phức tạp thời hạn trả lời
qui định có thể được thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn nhưng
không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày phải thông báo bằng văn bản cho
doanh nghiệp nộp hồ sơ chậm nhất là ba ngày làm việc trước ngày hết hạn trả lời
thông báo, nêu rõ lý do của việc gia hạn.
-

Bước 4: Thực hiện thủ tục tập trung kinh tế tại cơ quan đăng ký kinh
doanh. Đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế

thuộc diện phải thông báo chỉ được làm thủ tục tập trung kinh tế tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp sau khi được cơ quan quản lý cạnh tranh trả lời bằng văn bản về
việc tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm .

b. Các trường hợp bị cấm:

Điều 18 Luật cạnh tranh quy định: cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường
liên quan, trừ trường hợp quy định tại điều 19 của luật cạnh tranh 2004 hoặc
trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật. Luật cạnh tranh quy định
các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm nhầm tạo khung pháp lý cho các doanh
nghiệp thực hiện hành vi tập trung kinh tế một cách hợp pháp, tạo cơ sở pháp lý
cho cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi tập trung kinh tế trái pháp luật và là
cơ sở cho việc xử lý các vụ việc tập trung kinh tế theo qui định của pháp luật.
8


Theo điều 18 thì không phải tất cả các trường tập trung kinh tế đều bị cấm
mà chỉ cấm khi thị trường kết hợp các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế
chiếm trên 50% thị trường liên quan. Quy định này là hoàn toàn hợp lý. Mục
đích của quy định này là nhầm ngăn cản việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên
doanh dẫn đến hậu quả pháp lý là tạo ra một doanh nghiệp có khả năng không
chế thị trường. Bởi lẽ khi nắm trên 50% thị phần doanh nghiệp có đủ khả năng
hành động, thao túng thị trường mà không cần quan tâm đến đối thủ, dễ dàng
lạm dụng vị trí thống lĩnh để gây hạn chế cạnh tranh cho các doanh nghiệp khác
cùng ngành nghề. Việc ngăn cản hình thành doanh nghiệp khống chế thị trường
sẽ giúp duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh có lợi cho người tiêu dùng mà
vẫn không cản trở việc hình thành các công ty lớn có khả năng cạnh tranh trên

thị trường trong nước và quốc tế. Ở Việt Nam hiện nay chỉ có một số ít tổng
công ty chiếm thị phần trên 50% như điện lực, dầu khí, xăng dầu, hàng không,
đường sắt và đây là độc quyền tự nhiên do lịch sử để lại. Ngay cả tổng công ty
thép hiện nay cũng chỉ mới chiếm 20 % Thị phần sản xuất phôi thép và gần 30
% Thị phần sản phẩm thép tại Việt Nam. Do vậy theo luật cạnh tranh thì tổng
công ty thép vẫn có quyền tập trung kinh tế để mạnh hơn nữa.
Có hai trường hợp ngoại lệ theo điều 18 là trường hợp theo điều 19 luật
cạnh tranh và trường hợp sau khi tham gia tập trung kinh tế vẫn thuộc trường
hợp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 90 % trong tổng số 80.000 doanh nghiệp thì nhu
cầu liên kết với nhau để tăng cường sức mạnh cạnh tranh là cần thiết và tất yếu.
Pháp luật không cấm tập trung kinh tế trong trường hợp này là phù hợp với điều
kiện kinh tế của Việt Nam.
c. Trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm.

Các trường hợp tập trung kinh tế được miễn trừ ở Việt Nam được ghi
nhận tại điều 19 luật cạnh tranh. Điều luật này quy định các trường hợp tập trung
9


kinh tế có thể được xem xét miễn trừ với mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình chuyển động kinh tế, tạo thuận lợi cho việc hình thành
những tập đoàn kinh tế mạnh, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế
nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đó là các trường
hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định tại điều 18 nhưng có thể được xem
xét miễn trừ khi:
-

Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải
thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản, Bộ trưởng Bộ thương mại xem xét

quyết định việc miễn trừ bằng văn bản với trường hợp này, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội giải thích quy định trên như sau: doanh nghiệp đang trong
nguy cơ giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp khó
khăn về tài chính hoặc mất khả năng thanh toán chứ hoàn toàn không
đồng nghĩa với việc doanh nghiệp dừng hoạt động và không có nghĩa là
xã hội không có nhu cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp vẫn có hệ thống phân phối và uy tín của sản phẩm và đặc biệt là
vẫn có thị phần trên thị trường do sự trung thành của khách hàng với sản
phẩm của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp đang trong nguy cơ bị giải thể là doanh nghiệp thuộc

trường hợp giải thể theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ của doanh
nghiệp nhưng chưa tiến hành thủ tục giải thể hoặc đang tiến hành thủ tục giải thể
nhưng chưa có quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật. Theo Luật phá sản, doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản là
doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ
nợ có yêu cầu.
-

Thủ tướng chính phủ xem xét quyết định việc miễn trừ bằng văn bản với
trường hợp tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kĩ thuật, công nghệ.
10


Trong hai trường hợp miễn trừ việc tập trung kinh tế mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội lớn hơn bất lợi của nó đối với kinh tế. Trường hợp miễn trừ thứ
nhất được áp dụng khi có cơ sở để khẳng định rằng tập trung kinh tế là nhầm
cứu vãn một chủ thể kinh doanh đang trên bờ vực giải thể hoặc phá sản, giữ
được công ăn việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp. Trong trường

hợp miễn trừ thứ hai nếu tập trung kinh tế vượt quá 50 % Thị phần nhưng nhằm
mục đích tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh quốc tế hoặc để phát trien xuất khẩu
thì vẫn được phép thực hiện vì lợi ích kinh tế của nó rõ ràng rất lớn có thể đền
bù cho những hậu quả xấu nó gây ra cho cạnh tranh.
III)

Thực tiễn thực hiện tập trung kinh tế ở Việt Nam và một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật canh tranh về tập trung

kinh tế.
1. Thực tiễn thực hiện tập trung kinh tế ở Việt Nam.
a. Thực trạng tập trung kinh tế.
Kể từ tháng 1 năm 2007 Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Sự kiện
quan trọng này đem lại cho Việt Nam cả những lợi ích cũng như những thách
thức và nghĩa vụ phải thực thi theo cam kết gia nhập. Để đạt được mục tiêu trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020, Chính phủ đã thực thi hàng loạt các
chính sách phát triển kinh tế như tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng, tăng cường
đầu tư vào nguồn nhân lực, cải cách hành chính, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển doanh nghiệp dân doanh, kiềm
chế lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay
sự gia tăng hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia tại các quốc gia đang phát
triển và nhiều tiềm năng như Việt Nam là một xu thế tất yếu, mặt khác tiến trình
tự do hóa thương mại, đầu tư được đẩy nhanh như là hệ quả tất yếu của quá trình
hội nhập kinh tế sẽ là giảm đáng kể các giào cản gia nhập thị trường. Bối cảnh
khách quan này sẽ là một yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình tập trung kinh tế ở
11


Việt Nam xét dưới góc độ tiếp cận và gia nhập thị trường của các nhà đầu tư

nước ngoài. Mặt khác với thực trạng một nền kinh tế mà trên 90 % là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tiềm năng kinh tế hạn chế, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh kém,
công nghệ lạc hậu hơn thế giới từ một đến hai thế hệ, trình độ quản lý kém và
khả năng tự đổi mới cơ cấu lại doanh nghiệp thấp... trong khi áp lực mở cửa nền
kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh một cách công bằng với
các đối thủ quốc tế mạnh hơn vì nhiều phương diện cạnh tranh không cân sức
trên một “sân chơi” nên áp lực buộc các doanh nghiệp phải thực hiện tập trung
kinh tế để tăng quy mô kinh doanh, tận dụng những lợi thế của nhau và cơ cấu
địa vị lại vị trí trên thị trường. Đây là một điều kiện khách quan dẫn đến việc sáp
nhập, mua lại, thôn tính các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường có thể là
trong cùng thị trường liên quan hoặc có thị trường liên quan khác nhau đơn giản
là vì lý do tài chính.
Theo số liệu, doanh thu của các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường
Việt Nam 20 nhóm ngành có mức độ tập trung kinh tế cao nhất đều có CR3 ( tức
tổng thị phần của 3 doanh nghiệp lớn nhất) trên 50%. Một số nhóm ngành đáng
chú ý trong số đó là: ngành xử lý ô nhiễm và quản lý chất thải đặc biệt (100%),
khai thác dầu thô và khí tự nhiên (99,97%), viễn thông (85,96%), vận tải hàng
không (76,25%), sản xuất sản phẩm thuốc lá ( 57,74%). Có thể thấy chỉ số này
đã phản ánh khả rõ ràng thực trạng các ngành công nghiệp của Việt Nam và
cũng thể hiện được đặc điểm của một nước có nền kinh tế chuyển đổi.
Theo Pricewarterhouse Coopers, hãng cung cấp dịch vụ tư vấn mua bán,
sáp nhập doanh nghiệp hành đầu thế giới, số vụ M&A ở Việt Nam có tốc độ tăng
nhanh nhất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong năm 2007, hoạt
động tập trung kinh tế đã gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển liên tục và cải
tiến mạnh mẽ vì khuôn khổ pháp lý trả hết giận các nhà đầu tư Việt Nam nhu
cầu tái cơ cấu của nội tại các doanh nghiệp sự gia tăng nhanh của thị trường
chứng khoán. Tổng giá trị của 113 vụ được công bố trong năm đã tạo kỷ lục là
12



1,753 tỷ USD, so với con số chỉ 38 vụ với giá trị 299 triệu USD được đưa tin
trong năm 2006 và tăng gấp nhiều lần so với năm 2005. Trên ¾ tổng giá trị giao
dịch ( khoảng 1,350 tỷ USD) thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính. Tuy nhiên đến
nửa đầu năm 2008 cả số lượng và giá trị các giao dịch được công bố đều giảm.
Sở dĩ có hiện tượng này là do thứ nhất giai đoạn đầu năm thường là thời gian các
giao dịch mua bán và sáp nhập tương đối trầm lắng; Thứ hai một xu diễn biến
không thuận lợi nên kinh tế làm cho nhiều giao dịch bị tạm dừng hoặc không
công bố rộng rãi năm 2010 Việt Nam có 34 mươi lăm vụ gấp chín lần so với
năm 2006 với tổng giá trị gần 1,8 tỷ USD gấp 17 lần năm 2006
Bên cạnh những lợi ích từ M&A như hợp lý hóa tổ chức sản xuất kinh
doanh nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô và phạm vi nhanh chóng tiếp cận thị
trường mới, nâng cao hiệu quả đầu tư cho sáng tạo... con đường tăng trưởng
ngoại sinh này của doanh nghiệp có thể tiềm ẩn những vấn đề về cạnh tranh như
sự hình thành nên các doanh nghiệp có sức mạnh chi phối thị trường, triệt tiêu
đối thủ cạnh tranh hoặc khả năng hình thành nên các thỏa thuận gây hạn chế
cạnh tranh do hiệu ứng phối hợp khi số lượng “người chơi” trên thị trường giảm
bớt.
• Một số vấn đề phát sinh liên quan tới thể chế giám sát, kiểm soát Tập

trung kinh tế tại Việt Nam:
Đa số các vụ tập trung kinh tế có quy mô đáng kể đều do các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện, do vậy khó tránh khỏi xu hướng tập
trung kinh tế chỉ tập trung vào một vài lĩnh vực nào đó và nhầm cho phép một số
ít công ty chi phối thị trường tác động tới môi trường cạnh tranh và hạn chế sự
phát triển trong một số ngành lĩnh vực bị chi phối đó. Để kiểm soát xu hướng
này trong tương lai với cách tiếp cận là phát hiện và có biện pháp ngăn ngừa các
hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của những doanh nghiệp có khả năng chi
phối thị trường sau khi thực hiện tập trung kinh tế việc xử lý và điều tiết các
13



giao dịch tập trung kinh tế thuộc đối tượng phải kiểm soát sẽ được xem xét trên
cơ sở đánh giá tác động tổng thể của tập trung kinh tế đối với lợi ích của xã hội
và có sự phân tích cân bằng giữa các tác động tích cực và tiêu cực. Thể chế
giám sát hiện nay chưa thực hiện được những vấn đề sẽ phát sinh trên thực tế
như đã nêu.
Thực tế cho thấy mặc dù số lượng các vụ giao dịch là rất lớn và cũng có
khả năng nhiều giao dịch có quy mô lớn nhưng số lượng các giao dịch có thông
báo đến cục quản lý cạnh tranh theo quy định của luật cạnh tranh còn khá khiêm
tốn. Một phần vì quy mô các doanh nghiệp hiện nay còn nhỏ đến mức độ kết
hợp thị phần còn nhỏ (dưới 30 %), nhưng quan trọng là việc xác định thị phần
kết hợp trên thị trường liên quan là một vấn đề kỹ thuật khó, gây lúng túng cho
các doanh nghiệp.
Cần thống nhất một khái niệm và cách hiểu đúng về kiểm soát tập trung
kinh tế. Đây là khái niệm được đưa ra dưới góc độ của luật cạnh tranh và là một
chức năng của cục quản lý cạnh tranh vì vậy kiểm soát tập trung kinh tế không
có nghĩa là kiểm tra tất cả các hoạt động mua lại và sáp nhập trên thị trường mà
chỉ kiểm soát những hoạt động thuộc đối tượng điều chỉnh của luật cạnh tranh,
những giao dịch mà có khả năng hình thành vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
dẫn tới nguy cơ lạm dụng vị trí này và gây tổn hại tới môi trường cạnh tranh. Do
đó việc xây dựng cơ sở dữ liệu về bức tranh tổng quát mua lại và sáp nhập trên
thị trường cũng hết sức quan trọng để phục vụ cho việc phát triển và giám sát
các hoạt động tập trung kinh tế thuộc đối tượng kiểm soát luôn thuận lợi và có
tính khả thi cao.
b. Tố tụng cạnh tranh đối với vụ việc tập trung kinh tế.

Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính. Cơ
quan tiến hành tố tụng cạnh tranh gồm cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng

14



cạnh tranh. Tuy nhiên LCT Việt Nam đã tách hai chức năng điều tra và xử lý vụ
việc tập trung cho hai cơ quan này:
- Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ thụ lý, điều tra các vụ việc liên quan đến cạnh
tranh và kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, đó là Cục quản lý cạnh tranh
thuộc Bộ Công thương (trước là Bộ Thương mại) đã được thành lập theo Nghị
định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh.
- Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập có chức
năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Cụ thể theo quy định tại Nghị định số
05/2006/NĐ-CP của Chính phủ về thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh, thì Hội đồng cạnh tranh
có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với vụ việc cạnh tranh liên
quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, trong đó có TTKT.

-

Trình tự tố tụng cạnh tranh (vụ việc về TTKT) ở Việt Nam như sau:
Bước 1: Khiếu nại về vụ việc cạnh tranh.
Bước 2: Thụ lý hồ sơ khiếu nại.
Bước 3: Điều tra vụ việc cạnh tranh: Điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh
được tiến hành theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh

tranh.
- Bước 4: Mở phiên điều trần.
c. Xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế.

Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, hành vi vi phạm quy định về TTKT
được đề cập cụ thể tại LCT và Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ

ngày 30/9/2005 quy định về xử lý pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh bao gồm
các hành vi sau:
-

Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm (Điều 25)
Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm (Điều 26)
Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm (Điều 27)
Hành vi liên doanh doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm (Điều 28)
15


-

Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế (Điều 29)

Các hình thức và mức độ xử lý vi phạm pháp luật về TTKT được quy đinh
từ Điều 25 đến Điều 29 Nghị định 120/2005/NĐ-CP, bao gồm: phạt tiền; buộc
thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã hợp nhất, sáp nhập; bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hoặc bị buộc bán tài sản đã mua,…
Thủ tục xử lý vi phạm pháp luật về TTKT phải tuân theo trình tự thủ tục
trong tố tụng cạnh tranh quy định tại Chương V Luật cạnh tranh Việt Nam năm
2004 và chương II Nghị định số 116/2006/NĐ-CP.
Việc thực hiện quyết định xử lý vi phạm pháp luật về TTKT được quy
định tại mục 3 Chương II Nghị định số 120/2005/NĐ-CP, theo đó thời hạn thực
hiện quyết định xử lý vi phạm là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, nếu
hết thời hạn nêu trên mà các tổ chức, cá nhân bị xử lỷ không tự nguyện thi hành
thì sẽ bị cưỡng chế.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thông pháp luật cạnh tranh về

tập trung kinh tế.

- Về xác định thì trường liên quan:
Xác định thị trường liên quan là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất đối
với các cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc kiểm soát tập trung kinh tế. Tất cả
các đánh giá về tập trung kinh tế và tác động của nó đến cạnh tranh đều phải dựa
vào việc xác định thị trường liên quan.
Luật cạnh tranh Việt Nam cũng đưa ra các tiêu chí để xác định thị trường
liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan
tuy nhiên hiện nay xác định thị trường liên quan là một công việc rất khó khăn
đối với các cơ quan quản lý cạnh tranh. Qua tham khảo kinh nghiệm của các
nước, các nhà làm luật và các cơ quan trách nhiệm thực thi pháp luật cần lưu ý
một số vấn đề sau:
16


Thứ nhất, không chỉ nhận dạng thị trường qua việc xác định thị trường
liên quan về không gian và đối tượng mà còn phải cân nhắc đến thời điểm xác
định thị trường liên quan, là cơ sở thực tế của việc áp dụng pháp luật về chống
hạn chế cạnh tranh là nhận dạng hình thái của thị trường... Để nhận dạng được
thị trường dưới tác động của các hành vi hạn chế cạnh tranh cần phải xác định
được thị trường thông qua ba dấu hiệu: đối tượng của thị trường, giới hạn không
gian của thị trường và giới hạn thời gian của thị trường. Phạm vi của thị trường
liên quan và thị phần của từng doanh nghiệp trên thị trường luôn biến đổi không
ngừng, do vậy tại thời điểm hành vi tập trung kinh tế được thực hiện thì phạm vi
thị trường liên quan có thể mở rộng hoặc hẹp hơn với thời điểm tiến hành điều
tra sau đó. Nên xem xét thị trường tại thời điểm các bên thực hiện hành vi tập
trung kinh tế, nó sẽ tính toán được chính xác thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế; Từ đó đảm bảo kiểm soát được các hành vi
tập trung kinh tế mà vẫn không can thiệp thái quá vào quyền tự do liên kết kinh
doanh của các doanh nghiệp khác bằng các lệnh cấm thực hiện tập trung kinh tế
không công bằng và ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh doanh của doanh

nghiệp.
Thứ hai, cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh, tham khảo nhiều
phương pháp khác nhau khi xác định thị trường liên quan và những phương
pháp đó cần được quy định chi tiết trong pháp luật cạnh tranh, và đóng vai trò là
cơ sở pháp lý định hướng cho việc điều tra quá trình tập trung kinh tế của cơ
quan quản lý nhà nước về cạnh tranh.
Bổ sung thêm tiêu chí vốn để kiểm soát tập trung kinh tế theo hình thức
liên doanh.
Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ mới chú ý đến liên kết theo chiều ngang vì
chỉ quan tâm đến thị phần của doanh nghiệp xong chắc chắn không có cơ sở để
ngăn ngừa cấm đoán việc liên doanh giữa các doanh nghiệp vì liên doanh hình
17


thành một doanh nghiệp mới nên hoàn toàn chưa có thị phần. Mặt khác việc xác
định thị phần của các vụ tập trung kinh tế theo chiều dọc hoặc hỗn hợp cũng rất
khó xác định ngay cả Pháp cũng đã bỏ tiêu chí thị phần thay vào đó bằng tiêu
chí doanh thu để tính ngưỡng kiểm soát hành vi tập trung kinh tế.
-

Cần quy định cụ thể hơn trường hợp miễn trừ theo quy định tại khoản
2 điều 19 luật cạnh tranh 2004.

Khoản 2 Điều 19 luật cạnh tranh quy định cho phép miễn trừ đối với các
vụ tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ kĩ thuật, công nghệ... quy định này sẽ dẫn đến cách hiểu
không thống nhất bởi việc đánh giá dự án tập trung kinh tế còn góp phần phát
triển kinh tế - xã hội thì việc đánh giá tiêu chí đó sẽ phụ thuộc nhiều vào ý chí
chủ quan của cơ quan thực thi luật cạnh tranh và doanh nghiệp.
Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế cần được hoàn thiện và vận hành

theo những nguyên tắc sau: thứ nhất, pháp luật cần có những chuẩn mực hợp lý
để phân tích những trường hợp tập trung kinh tế gây tổn hại thực sự cho thị
trường cạnh tranh và những trường hợp có tác dụng tích cực cho nền kinh tế; thứ
hai, các thủ tục cần được thực hiện không bị lạm dụng để gây khó khăn cho
doanh nghiệp, Không được cản trở các chiến lược kế hoạch kinh doanh hợp
pháp của doanh nghiệp.
Cần thống nhất và làm rõ các khái niệm về những hành vi tập trung kinh
tế đặc biệt là quan niệm vì hành vi mua lại doanh nghiệp giữa các lĩnh vực pháp
luật có liên quan. Những quan điểm không đầy đủ trong pháp luật Đầu tư doanh
nghiệp cần được sửa đổi cho phù hợp với nội dung tương ứng trong Luật cạnh
tranh. Ngoài ra khả năng mở rộng khái niệm về tập trung kinh tế cũng cần được
nghiên cứu đối với những trường hợp liên kết thông qua việc quản lý mà không
là sở hữu vốn hay tổ chức lại.

18


Để kiểm soát tập trung kinh tế được chủ động và hiệu quả, cơ quan quản
lý cạnh tranh nên có những nghiên cứu và dự đoán trước những thị trường
những lĩnh vực kinh tế có nguy cơ xảy ra hiện tượng tập trung kinh tế, thậm chí
những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hành vi thâu tóm thị trường bằng
hình thức tập trung kinh tế.

KẾT LUẬN
Tập trung kinh tế hiện nay là vấn đề khá phổ biến ở tất cả các quốc gia
trên thế giới và cả Việt Nam nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế tạo ra các doanh
nghiệp mới có quy mô lớn hơn trước, vì vậy tập trung kinh tế có thể hình thành
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền. Khi ở vào vị trí này
doanh nghiệp có xu hướng lạm dụng vị trí của mình thực hiện các hành vi gây
ảnh hưởng xấu cho thị trường cho doanh nghiệp và cho người tiêu dùng do đó

các hành vi tập trung kinh tế cần phải được pháp luật kiểm soát.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. CAND Hà Nội,
2011.

19


2. Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm 2012, Cục quản lý cạnh tranh, Bộ
Công thương, 9-2012.
3. Các văn bản pháp luật
- Luật cạnh tranh năm 2004;
- Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
cạnh tranh;
- Nghị định số 120/2005/NĐ-CP quy định về xử lý pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh;
- Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh;
- Nghị định số 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ về thành lập và quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh;
- Nghị định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
Luật doanh nghiệp.

20


MỤC LỤC

21




×