Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Thí nghiệm thực hành vô cơ 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.58 KB, 36 trang )

Mở đầu
1. Thuốc thử hoá học và cách sử dụng.
Việc hoàn thành bất kì một thực hành hoá học nào cũng không thể tránh
khỏi việc sử dụng các thuốc thuốc thử hoá hoá học, vì vậy khi sử dụng các thuốc
thử, yêu cầu người làm thí nghiệm cần hiểu biết và tuân theo nghiêm ngặt những
qui tắc nhất định.
Thuốc thử hoá học là tên gọi chung cho các hoá chất ở dạng chất rắn, chất
lỏng, hoặc chất khí có độ tinh khiết khác nhau, được dùng trong các thí nghiệm
với mục đích khác nhau.
Dựa vào hàm lượng tạp chất cho phép, người ta chia các thuốc thử ra làm
nhiều loại: loại kỹ thuật, loại sạch, tinh khiết phân tích, tinh khiết hoá học. Loại
tinh thiết kỹ thuật có hàm lượng tạp chất nhiều nhất; chứa ít nhất là loại tinh
khiết hoá học. Các loại thuốc thử trên có thể điều chế trong nhà máy, hoặc trong
điều kiện phòng thí nghiệm.
Ngoài ra để phục vụ những yêu cầu và mục đích đặc biệt, người ta còn
điều chế các loại thuốc thử hoá học có mức độ tinh khiêt hoá học cao hơn, hàm
lượng tạp chất còn ít hơn so với loại tinh khiết hoá học, ví dụ loại tinh khiết đặc
biệt, tinh khiết cao cấp, tinh khiết quang phổ…
Các loại thuốc thử đều được bảo quản trong những dụng cụ thích hợp, các
chất rắn được đựng trong lọ thuỷ tinh hoặc túi poli etilen; các chất lỏng đựng
trong lọ thuỷ tinh hoặc trong ampun.
Biện pháp sử dụng, bảo quản và chuyên chở các hoá chất, trước hết tuỳ
thuộc vào tính chất của chúng. Những chất lỏng dễ bay hơi và độc, cũng như
dung dịch trong nước của chúng đều được đựng trong các chai lọ có nút nhám,
kín; các chất rắn dễ chảy rữa đựng trong bao kín. Những loại thuốc thử như axit
flohiđric, các dung dịch kiềm không được giữ lâu trong các dung dịch trong các
dụng cụ thuỷ tinh, phải để trong bao làm bằng vật liệu riêng, tốt nhất chai bằng
poli etilen hoặc dụng chế từ một loại vật liệu trơ khác.
Các thuốc thử đựng trong bao bì ( chai, lọ túi) … đều có gián nhãn.
Không bao giờ dùng các hoá chất trong các dụng cụ không có nhãn ghi tên hoá
chất.


Khi cần dùng thuốc thử nào đó đựng trong bao bì với một lượng lớn, cần
lấy riêng ra từng lượng cần thiết vào một bao con khác, để tránh vô tình làm bẩn
cả lượng hoá chất trong bao.
Tuỳ theo yêu cầu của thí nghiệm mà sử các loại thuốc thử khác nhau; nói
cách khác, mức độ tinh khiết của thuốc thử tuỳ thuộc vào yêu cầu và đặc điẻm
của ý đồ sử dụng, của mục đích tiến hành thí nghiệm . Nói chung, với những
công việc bình thường trong phòng thí nghiệm, chỉ nên dùng loại thuốc thử tinh
khiết hoặc tinh khiết phân tích.
Tuy nhiên, không ai lại dùng axit Sunfuric và kali đicromat tinh khiết hoá
học để chế hỗn hợp sunfocromit làm dung dịch oxi hoá để rửa dụng cụ trong
phòng thí nghiệm, mà chỉ cần chế hoá hỗn hợp đó bằng thuốc thử tinh khiết kĩ
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
1
thuật, cũng đủ đảm bảo nhiệm vụ của hỗn hợp sunfocromic. Cũng hoàn toàn
không cần thiết phải sử dụng những thuốc thử đắt tiền, quý hiếm, có độ tinh
khiết cao để chế tạo ra các khí và thực tế các khí đều đã được đảm bảo độ
nguyên chất cần thiết, nếu có các tạp chất khác thì dùng biện pháp rẻ tiền, thuận
lợi để tinh chế sản phẩm khí trước khi dùng.
Sử dụng bất kì hoá chất nào cũng phải chú ý giữ độ tinh khiết của nó. Đối
với các hoá chất rắn phải dùng bát sứ hoặc thìa sứ sạch và khô để lấy, không
dùng bát hoặc thìa kim loại. Nếu không may làm đổ hoặc rơi vãi trên bàn thì
không nên lấy lại, tránh làm bẩn và hỏng hoá chất.
Khi cân các hoá chất rắn, cần đựng vào cốc sạch, khô, đựng vào chén sứ
hoặc mặt kính đồng hồ. Hữu hạn lắm có thể dùng giấy sạch đựng hoá chất để
cân, nhưng chú ý rằng giấy có thể có tính chất khử và đối với những chất oxi
hoá mạnh, như kali pemanganat, kali clorat. bạc nitrat... khi tiếp xúc với giấy sẽ
bị phân huỷ và đôi khi gây nổ.
Với những chất dễ hút ẩm và không bền trong không khí, lúc cân phải dùng lọ
rộng miệng và có nút nhám với lượng lớn hoặc lọ cân với lượng nhỏ.
Cần đặc biệt chú ý khi sử dụng các hoá chất có hoạt tính cao như photpho

trắng, natri kim loại và các kim loại kiềm khác, các peoxit kim loại kiềm, các
muối clorat, axit cloric...
Khi sử dụng các chất oxi hoá mạnh như kali pemanganat, kali clorat, peoxit
kim loại kiềm với cacbon, lưu huỳnh, photpho và một số chất hữu cơ cần chú ý
rằng các hỗn hợp đó đều dễ gây nổ rất nguy hiểm.
Với các dung dịch đậm đặc, kiềm rắn mặc dù không gây nổ nhưng là chất
hoạt tính cao nên dễ ăn mòn các chất khác, do đó khi dùng phải thận trọng.
Không nên dùng pipet để hút các dung dịch đó bằng miệng. Muốn hút phải lắp
vào đầu pipet một quả bóp cao su, hoặc dùng pipet có bầu bảo hiểm.
Đại đa số các dung môi dùng trong phòng thí nghiệm đều là chất dễ cháy,
trong đó có nhiều dung môi là chất độc như cacbon đisunfua, benzen...Khi tiếp
xúc với chúng, nhất thiết phải có biện pháp bảo vệ, không làm việc với các chất
đó bên cạnh bếp điện, bếp dầu, đèn cồn...
Khi thực hiện các phản ứng nổ cần có biện pháp bảo vệ.
2. phản ứng giữa các chất lỏng với chất rắn.
Nhiều phản ứng xảy ra trong dung dịch gắn liền với việc hình thành sản
phẩm rắn ít tan, hoặc hoà tan các chất ban đầu tạo ra sản phẩm tan. Vì vậy việc
tiến hành phản ứng giữa các chất rắn và lỏng không tránh khỏi động tác hoà tan,
kết tủa hoặc tách chất rắn ra khỏi dung dịch.
Sự hoà tan
Quá trình hoà tan một chất rắn trong một chất lỏng có thể diễn ra theo hai cơ
chế khác nhau. Thứ nhất là quá trình phá huỷ mạng lưới của tinh thể chất rắn và
chuyển nó sang trạng thái ion hay trạng thái phân tử. Trong trường hợp đó
không xảy ra phản ứng tạo thành chất mới, nếu làm bay hơi dung dịch sẽ thu
được chất đã hoà tan. Thứ hai là việc hoà tan một chất vào dung dịch, kèm theo
phản ứng hoá học xảy ra giữa chất tan và dung môi hoặc với chất trong dung
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
2
dịch, kết quả tạo ra chất mới, do đó không thể cho bay hơi dung dịch để thu lại
chất tan ban đầu.

Tốc độ hoà tan một chất rắn phụ thuộc vào độ lớn của tinh thể chất tan.
Tinh thể càng nhỏ sự hoà tan càng dễ, càng nhanh. Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn
đến tốc độ hoà tan của nhiều chất rắn, mà phần lớn tốc độ hoà tan tăng khi nhiệt
độ tăng.
Tuy nhiên, khả năng hoà tan một chất trong dung môi nhất định nào đó, sẽ
bị hạn chế bởi trạng thái bão hoà ở nhiệt độ cho trước, lúc đó, nếu quá trình hoà
tan không kèm theo tương tác hoá học, nồng độ của chất tan trong dung dịch bão
hoà được xác định bằng độ tan của chất tan trong dung môi.
Khi hoà tan muối vào nước cần chú ý đến quá trình thuỷ phân, quá trình này
đôi lúc có thể xảy không thuận nghịch và dẫn đến sự tạo thành sản phẩm khó
tan. Thường gặp là trường hợp hoà tan các muối của một số cation đa hoá trị, tạo
thành các bazơ khó tan do thuỷ phân. Để tránh hiện tượng thuỷ phân, tuỳ thuộc
vào bản chất của muối hoà tan. Cần phải rót axit hoặc bazơ trước khi hoà tan
muối như vậy quá trình hoà tan sẽ tiến hành ngay trong môi trường axit hay
kiềm. Cũng cần lưu ý rằng quá trình thuỷ phân sẽ xảy ra mạnh trong dung dịch
loãng và đun nóng. Muốn pha chế dung dịch loãng trong suốt của các muối chứa
ion đa hoá trị, ví dụ dung dịch muối sắt (III), khi hoà tan cần một lượng axit vừa
đủ.
Do kết quả của phản ứng thuỷ phân hoàn toàn, nên một số muối sunfua sẽ bị
thuỷ phân thành hiđrxit kim loại tương ứng, hiện tượng tương tự có thể xảy ra
khi hoà tan một số muối cacbonic trong nước nóng.
Chuyển các chất khó tan sang trạng thái hoà tan
Trong trường hợp dung dịch tạo thành chất khó tan, cần dùng phương pháp
hoà tan hoá học. Quá trình hoà tan có thể tiến hành bằng phương pháp trao đổi
hoặc phản ứng oxi hoá-khử.
Việc hoà tan các muối khó tan của các axit yếu, có thể thực hiện bằng phản
ứng phân li trao đổi với các dung dịch của axit mạnh. Khi chọn axit để thực hiện
phản ứng hoà tan đó, cần lưu ý đến bản chất của cation trong muối hoà tan. Ví
dụ muốn hoà tan muối cacbonat của kim loại kiềm thổ thì không nên dùng axit
sunfuric vì kết quả lại tạo ra muối sunfat không tan. Tốt nhất là dùng axit

clohiđric vì các muối clorua dễ tan không ngăn cản phản ứng hoà tan. Tuy nhiên
muốn chuyển các anion của muối khó tan hoặc muối trung tính không tan vào
dung dịch để thành muối axit tan, lại phải dùng axit sunfuric. Ví dụ để điều chế
muối photphat tan từ photphat tự nhiên, phải chế hoá bằng axit sunfuric.
Với các chất khó tan mà trong thành phần chứa các nguyên tố có khả năng oxi
hoá, phải dùng phương pháp oxi hóa – khử để hoà tan chúng.
Sự tạo thành và tách kết tủa
Việc tạo thành kết tuả cũng như tách kết tủa khỏi dung dịch có ý nghĩa quan
trọng đối với thực hành hoá học. Kết quả được tạo ra do kết quả của phản ứng
trao đổi, do hiện tượng bão hoà của dung dịch cũng như xảy ra phản ứng oxi hoá
- khử dẫn đến việc tạo thành chất khó tan.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
3
Khi kết tủa các hiđroxit lưỡng tính bằng các bazơ kiềm, cũng như các muối
kim loại mà ion của chúng có khả năng tạo phức chất với ion của chất làm kết
tủa, thì cần chú ý đến khả năng hoà tan của kết tủa trong lượng dư của chất làm
kết tủa. Ví dụ nhôm hiđroxit và một số hiđroxit của kim loại khác hoà tan được
trong kiềm dư tạo ra muối của axit tương ứng, kết tủa bạc iotua có thể tan trong
kali iotua dư tạo ra ion phức [AgI
2
]
-
. Như vậy muốn thu được các kết tủa đó cần
chú ý đến trật tự thêm bớt lượng dung dịch. Ví dụ muốn làm kết tủa nhôm
hiđroxit hoặc bạc iotua, phải đổ dung dịch kiềm hoặc kali iotua vào dung dịch
muối nhôm hoặc muối bạc dư tương ứng. Nếu làm ngược lại, kết quả tạo ra bị
tan trong kiềm dư hoặc kali iotua dư.
Có thể kết tủa các sunfua không tan trong các axit loãng bằng các sunfua tan
như natri sunfua, amoni sunfua, hoặc trực tiếp với hiđro sunfua. Nhưng nếu
sunfua hoà tan được trong axit loãng thì chỉ điều chế chúng bằng các dung dịch

sunfua tan, khi cho tác dụng với dung dịch hiđro sunfua, kết quả phản ứng trao
đổi sẽ tạo ra axit mạnh, cản trở sự hình thành kết tủa. Chẳng hạn sắt (III) sunfua
chỉ có thể kết tủa được bằng amoni sunfua. Hiện tượng tương tự như thế cũng
xảy ra khi kết tủa các muối của một số axit yếu khác.
Khi thực hiện phản ứng kết tủa các muối của các cation đa hoá trị, cần chú ý
đến khả năng thuỷ phân có thể xảy ra đồng thời, đặc biệt với các muối đa axit
khác, kiểu sunfua, cacbonat. Ví dụ khi cho muối natri cacbonat tác dung với
muối tan của kim loại kiềm thổ, tạo ra muối cacbonat không tan của kim loại
kiềm thổ. Trái lại khi cho tác dụng với muối magie tan, lại tạo ra muối cacbonat
bazơ magie không tan do magie bị thuỷ phân, vì vậy các muối trung hoà
cacbonat của berili, magie, kẽm chỉ tạo thành kết tủa khicó lượng dư lớn khí
cacbonđioxit để hạn chế quá trình thuỷ phân. Tương tự như thế, khi cho
cacbonat trung hoà tan như natri cacbonat tác dụng với dung dịch muối săt (II),
coban (II), niken (II) thì chỉ săt (II) tạo ra kết tủa cacbonat trung hoà, còn coban
(II), niken (II) lại tạo ra cacbonat bazơ. Kết tủa cacbonat trung hoà của hai kim
loại sau chỉ được hình thành khi cho cacbonat axit của kim loại kiềm tác dụng
lên dung dịch muối của chúng. Điều đó dễ thấy được khi chú ý rằng các muối
tan của coban, niken thuỷ phân mạnh. Những hiđrocacbonat làm giảm quá trình
thuỷ phân, nên kết tủa cacbonat trung hoà của coban và niken được tạo thành.
Cũng vậy, những muối cacbonat của kim loại hoá trị ba như nhôm, sắt, crôm
không thể tồn tại, vì các muối tan của chúng đều bị thuỷ phân rất mạnh, nên khi
muối cacbonat của kim loại kiềm hoặc amoni tiếp xúc với dung dịch muối của
kim loại đó, chỉ thu được hiđroxit của kim loại đó. Sunfua cảu những kim loại
đa hoá trị cũng không thể điều chế được trong dung dịch nước bởi chúng bị thuỷ
phân hoàn toàn.
Để hạn chế quá trình thuỷ phân cần chú ý đến trật tự rót các dung dịch vào
nhau khi cho phản ứng. Ví dụ, để kết tủa cacbonat không tan của những kim loại
đa hoá trị từ dung dịch cần phải rót dung dịch cacbonat kim loại kiềm vào dung
dịch muối cation định làm kết tủa, không làm ngược lại và không để dư chất làm
kết tủa.

Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
4
Dung dịch cacbonat kim loại kiềm luôn luôn có phản ứng bazơ, dung dịch
muối của cation đa hoá trị xó phản ứng axit, nếu rót dung dịch muối của cation
đa hoá trị vào dung dịch cacbonat kiềm sẽ tạo điều kiện cho quá trình thuỷ phân
xảy ra, nhưng nếu trật tự ngược lại, cacbonat kiềm không dư thì cacbonat của
các kim loại trên sẽ hình thành trong môi trường a xit, nghĩa là trong điều kiện
không cho cho phép xảy ra phản ứng thuỷ phân.
độ hoà tan của muối cũng có ảnh hưởng đến quá trình thuỷ phân, vì thế khi kết
tủa các muối dễ bị thuỷ phân cần tiến hành ở nhiệt độ thấp.
Rửa kết tủa
Thường dùng hai cách để rửa kết tủa: rửa gạn và rửa trên phiễu lọc.
Gạn là quá trình rửa bằng cách gạn chất lỏng ra khỏi kết tủa.Thực chất
của phương pháp là thêm chất lỏng định dùng để rửa vào kết tủa trong cốc, dùng
đũa thuỷ tinh khuấy trộn cẩn thận, rót toàn bộ chất lỏng và kết tủa lên phiễu lọc,
thêm lượng mới chất dùng để rửa và lặp lại động tác đó nhiều lần.
Rửa kết tủa trên phiễu lọc được tiến hành bằng cách thêm nước rửa cho
ngập kết tủa, sau khi nước chảy hết lại rửa kết tủa, sau khi nướa chảy hết lại tiếp
tục rửa nhiều lần. Để hạn chế độ hoà tan của kết tủa cần rửa với số lượng chất
lỏng ít nhất có thể được. Phải kiểm tra kết tủa đã sạch chưa bằng cách hứng lấy
vài giọt nước rửa vao ống nghiệm, rồi thử xem có còn tạp chất trong nước rửa
hay không.
Thường người ta dùng nước để rửa (nóng hoặc lạnh). Đôi khi dùng các
dùng các dung dịch axit, kiềm loãng, hoặc các dung môi hữu cơ. Việc chọn chất
lỏng để rửa tuỳ thuộc vào độ tan của kết tủa trong dung môi nào. Nếu độ tan của
kết tủa ít thay đổi với nhiệt độ thì dùng nước nóng để rửa; những chất dễ bị thuỷ
phân thì dùng nước đá hoặc dung môi hữu cơ.
Làm khô kết tủa
Phương pháp làm khô kết tủa phải dựa vào tính chất cảu kết tủa.
Với những chất không có khả năng tạo thành hiđrat hoặc có áp suất riêng phần

cao hơn áp suất hơi nước bão hoà trong khí quyển, có thể làm khô trong không
khí ở nhiệt độ phòng. Nếu áp suất hơi nước bão hoà cao hơn áp suất của hiđrat
thì kết tủa sẽ chảy rữa. Chẳng hạn như chất clorua của liti, canxi, magie, đồng
(II), nhôm, săt (III), các natri liti, magie, coban, niken.... dễ dàng bị chảy rữa
trong không khí. Ví dụ CaCl
2
.6H
2
O bị chảy rữa khi độ ẩm của không khí là
30,8%; K
2
CO
3
- 42,8%; NaCl 75,9%. Những chất dễ bị phản ứng bởi oxi hoặc
cacbon đioxit thì cũng không thể làm khô trong không khí. Phương pháp làm
khô trong không khí xảy ra tương đối lâu và không thể thu được sản phẩm khô
hoàn toàn. Vì vậy có thể làm khô trong các bình hút ẩm trên những chất làm
khô, nếu chất được làm khô giải phóng ra các khí như hiđro clorua, lưu huỳnh
đioxit... thì cần nối bình hút ẩm với máy hút.
Những chất không bị phân huỷ ở nhiệt độ cao thì phải làm khô trong các tủ sấy
ở nhiệt độ 100-105
0
C hoặc cao hơn, và cần điều chỉnh nhiệt độ từ từ đề phòng
làm hỏng sản phẩm. Trái lại những chất dễ bị phân huỷ có thể làm khô trong tủ
sấy có áp suất thấp và nhiệt độ thấp.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
5
Trong điều kiện không có thiết bị làm khô, kết tủa tinh thể có thể được làm
khô sơ bộ bằng cách ép tinh thể giữa hai lớp giấy bọc.
3. Phản ứng có chất khí tham gia

Đặc điểm của các phản ứng có chất khí tha gia được quy định ở tính chất của
chất khí, ví dụ hiđro, amoniac, cacbonoxit....được dùng với tư cách là chất khử
còn các khí như clo, oxi.... là những chất oxi hoá.
Khi thực hiện phản ứng giữa chất khí và chất rắn thì điều quan trọng là chú
ý sao cho khí có thể tiếp xúc được với bề mặt tối đa của chất rắn. Nếu chất rắn
ở dạng bột và sản phẩm tạo ra không nóng chảy và bay hơi ở nhiệt độ phản
ứng, có thể tiến hành phản ứng theo nguyên tắc ngược dòng khí trong các ống
đứng. Nếu sản phẩm tạo ra dễ bay hơi hay ở trạng thái lỏng thì tiến hành phản
ứng trong ống nằm ngang, đặt chất rắn trong thuyền con rồi cho chất khí đi
qua. Ví dụ, dùng hiđro để khử đồng (II) oxit.
Khi thực hiện phản ứng giữa chất khí và chất lỏng có thể dẫn khí lội qua
chất lỏng, bằng cách dùng các ống dẫn khí gấp khúc hoặc xoắn nhiếu lần; nếu
chất khí hoà tan mạnh trong chất lỏng như hiđro clorua, amoniac thì không nên
nhúng vòi dẫn khí vào chất lỏng mà chỉ cho khí tiếp xúc với bề mặt chất lỏng.
Việc dùng hiđro làm chất khử chủ yếu là để điều chế các kim loại nguyên
chất. Khi cho hiđro tác dụng với oxit kim loại có cân bằng
MeO + H
2
 Me + H
2
O
Vị trí của cân bằng được quyết định bởi khả năng khử một oxit kim loại nào đó
bằng hiđro. Với những kim loại hoạt động ví dụ như kẽm và kim loại hoạt
động hơn thì cân bằng sẽ chuyển dịch sang trái do đó quá trình khử không xảy
ra. Với các oxit kim loại có hoá trị thay đổi thì hiđro chỉ có thể khử được đến
oxit hoá trị thấp, quá trình khử tiếp theo sẽ xảy ra rất chậm. Hiđro chỉ có thể
khử được các oxit của những kim loại có sinh nhiệt tính theo đương lượng gam
nhỏ hơn nước điều kiện này cũng có thể áp dụng cho các chất khử khác. Khi
dùng cacbonoxit để khử các oxit kim loại thì ở nhiệt độ thấp hơn 1000
0

C sẽ có
cân bằng:
2CO  C + CO
2
Như vậy phải đề phòng hiện tượng tạo ra cacbua của một số kim loại.
Cũng tương tự như vậy chỉ dùng amoniac để khử oxit của những kim loại
không tạo ra hợp chât nitrua kim loại với nitơ vì nitơ tạo ra phản ứng:
3MeO + 2NH
3
 3Me + N
2
+ 3H
2
O
sẽ tương tác với các kim loại đó.
4. Phản ứng oxi hoá - khử.
Phản ứng oxi hoá - khử có ý nghĩa quan trọng trong thực hành hoá học. Một
số lớn các phản ứng xảy ra trong dung dịch hoặc không xảy ra trong dung
dịch đều là những phản ứng oxi hoá - khử. Sự oxi hoá của một chất luôn
luôn kèm theo sự khử của một chất khác, bởi vì quá trình oxi hoá khử xảy
ra đồng thời, và có mối quan hệ oxi hoá- khử của sản phẩm phản ứng ngược
với các chất tham gia phản ứng. Quá trình oxi hoá - khử có thể biểu diễn
theo sơ đồ:
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
6
A
ox
+ B
kh
 A

kh
+ B
ox
Cân bằng của phản ứng được xác định bằng đại lượng thế oxi hoá - khử
E
Aox/Akh
và E
Box/Bkh
. Cân bằng sẽ chuyển dịch về phía phải khi giá trị đại số
của thế oxi hoá - khử E
Aox/Akh
lớn hơn giá trị E
Box/Bkh
; ngược lại, cân bằng sẽ
chuyển dịch về bên trái, nghĩa là Aox đã không oxi hoá được Bkh.
Một hệ oxi hoá - khử có thế oxi hoá khử lớn về giá trị đại số sẽ là chất
oxi hoá đối với hệ có thế oxi hoá khử bé hơn.
Thế oxi hoá khử càng lớn thì sẽ là chất oxi hóa càng mạnh, và ngược lại,
đối với những châta khử điển hình đặc trưng bằng thế oxi hoá - khử có giá
trị gằn bằng 0 hoặc âm. Không có ranh giới dứt khoát, rõ rệt giữa chất oxi
hoá và chất khử vì rằng nhiều chất tuỳ theo điều kiện cụ thể của phản ứng
có thể là chất oxi hoá hoặc là chất khử. Tuy nhiên có thể xem răng những
chất có thế oxi hoá - khử lớn hơn +1 được coi là chất oxi hoá, còn những
chất có thế oxi hoá khử nhỏ hơn +1 được coi có tính khử là chủ yếu.
Cần chú ý rằng đại lượng thế oxi hoá - khử phụ thuộc vào nồng độ các
dạng tiểu phân oxi hoá hoặc khử, phụ thuộc vào nhiệt độ và đặc biệt phụ
thuộc nhiều vào ph của dung dịch. Ví dụ trong môi trường axit, các chất
K
2
Cr

2
O
7
, PbO
2
, HNO
3
, HNO
2
, H
2
O
2
... là những chất oxi hoá mạnh, nhưng
trong môi trường kiềm, chúng không thể hiện mạnh đặc tính đó. Vì vậy, khi
thực hành những phản ứng oxi hóa – khử, điều quan trọng là phải chọn pH
của môi trường phản ứng. Trong nhiều trường hợp khi chọn pH có thể sử
dụng bảng thế oxi hoá - khử. Ví dụ H
2
O
2
và HNO
2
là chất khử trong môi
trường axit (thế oxi hoá khử tương ứng bằng t +0, 68V và +0,98V) sẽ tác
dụng dễ dàng với K
2
Cr
2
O

7

(thế oxi hoá t- khử +1,36V). Trong môi trường kiềm, thế oxi hoá khử của
K
2
Cr
2
O
7
là -0,12V, thấp hơn của H
2
O
2
và của HNO
2
, nên tương tác giữa
chúng trong môi trường kiềm sẽ không xảy ra được.
Cũng vậy, dựa vào sự phụ thuộc thế oxi hoá - khử vào pH của dung dịch,
có thể dùng KMnO
4
để oxi hoá riêng biệt các ion halogenua khi chúng cùng
có mặt trong dung dịch. Khi pH từ 5 – 6, chỉ oxi hoá được ion I
-
, nhưng đến
pH = 3 mới bắt đầu oxi hoá ion Br
-
, còn ion Cl
-
sẽ bị oxi hoá khi độ axit của
môi trường cao hơn.

Nhiều khi nhiệt độ có ảnh hưởng đáng kể đến phản ứng oxi hoá - khử.
Ví dụ, ở 25
o
C trong môi trường axit thế oxi hoá khử của clo và của K
2
Cr
2
O
7
có giá trị như nhau (+1,36V). Đó là nguyên nhân tại sao trong điều kiện
thường K
2
Cr
2
O
7
không tác dụng với HCl, nhưng khi đun nóng lại xảy ra
phản ứng tạo thành khí clo. Cũng tương tự như thế, khi đun nóng, chì đioxit
sẽ oxi hoá ion Mn
2+
tạo thành MnO
4
-
trong môi trường axit, mặc dù thế oxi
hoá - khử của ion MnO
4
-
cao hơn chì đioxit một ít.
5. PHƯƠNG PHáP KếT TINH LẠI Và LÀM SẠCH CÁC CHẤT RẮN
Sự kết tinh lại dùng để tách các chất rắn có khả năng hoà tan ra khỏi các tạp

chất, cũng như để tách các chất có tính chất gần giống nhau nhưng có độ hoà
tan khác nhau.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
7
Nếu dùng phương pháp này để tách một lượng tạp chất không lớn lắm có
trong chất định làm sạch, thì khi tướng rắn kết tinh, tạp chất sẽ còn lại trong
dung dịch, vì lượng tạp chất bé nên dung dịch của chúng chưa bão hoà. Tuy
nhiên cũng cần lưu ý thêm là một lượng nhỏ tạp chất cũng có thể kết tinh lẫn
vào tướng rắn của chất định làm sạch.
Tuỳ theo độ bền đối với nhiệt của chất định làm sạch mà quá trình kết tinh
lại có thể tiến hành ở nhiệt độ phòng hoặc đun nóng. Nếu kết tinh ở nhiệt độ
phòng thì lâu hơn; nhưng nếu đun nóng dung dịch, chất rắn sẽ tách ra khi làm
nguội dung dịch bão hoà (ở nhiệt độ cao hơn), do độ hoà tan của phần lớn các
chất sẽ giảm đi khi hạ nhiệt độ. Với những chất có độ hoà tan thay đổi không
nhiều lắm khi giảm nhiệt độ, thì có thể cho bay hơi bớt dung dịch cho đến khi
xuất hiện váng tinh thể rồi mới làm nguội; nhưng với những chất có độ hoà tan
giảm nhanh khi giảm nhiệt độ, sau khi lọc xong, làm nguội ngay dung dịch
nước lọc. Với những chất rắn dễ tan thì không nên cho dung dịch bay hơi
mạnh, vì sẽ có dung dịch bão hoà đối với cả tạp chất, nên khi làm nguội dẫn
đến việc hoá rắn toàn bộ, không tách được tạp chất.
6. phương pháp tinh chế các khí.
Các chất khí điều chế dược trong quá trình phản ứng thường lẫn hơi nước và
các tạp khí khác do xảy ra các phản ứng phụC, hoặc do những chất dễ bay hơi
tham gia phản ứng.
Việc lựa chọn biện pháp làm sạch khí phụ thuộc vào tính chất lí hoá của
khí đó và tạp khí, đồng thời tuỳ thuộc vào ứng dụng của khí cần điều chế. Trong
nhiều trường hợp, một lượng nhỏ tạp chất cũng gây nên tác hại đáng kể cho quá
trình phản ứng. Tuy nhiên khi tạp chất không gây ảnh hưởng đến mục đích thực
hành, chỉ cần làm khô các khí là được.
Thường dùng axit sunfuric đặc, canxi clorua, natri hiđroxit hoặc vôi tôi

xút và một số chất khác để làm khô các khí. Khi chọn chất làm khô cần chú ý
đến khả năng tương tác hoá học của chất đó với khí. Tuỳ thuộc vào trạng thái
vật lí của chất làm khô, có thể dùng những dụng cụ thích hợp, ví dụ chất làm
khô ở dạng rắn có thể dùng ống thẳng hoặc ống chữ u, nếu là chất lỏng thì có thể
dùng bình drexen, bình tisenko...
Tốc độ của khí đóng vai trò khá quan trọng trong việc làm khô, tốt nhất
phải cho dòng khí đi chậm qua chất làm khô; có thể kiểm tra tốc độ đó bằng
dụng cụ đếm bọt khí có chứa vadơlin hoặc glixerin đặt trước bình đựng chất làm
khô.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
8
Thực hành thí nghiệm Hoá vô cơ 1
Bài 1
HIĐRO – OXI – OZON
Thí nghiệm 1: Điều chế khí hiđro bằng cách cho kẽm tác dụng với axit.
Hoá chất và dụng cụ: Kẽm hạt, dung dịch H
2
SO
4
10%, ống nghiệm, ống
nghiệm có nhánh, cặp gỗ, đèn cồn...
Cách Tiến hành
a. Lấy ống nghiệm đựng khoảng 1-2 ml dung dịch H
2
SO
4
10%, nghiêng ống
nghiệm cho vài hạt kẽm trượt theo ống nghiệm (tại sao?). Đậy ống nghiệm,
quan sát hiện tựợng, viết phương trình phản ứng.
b. Lấy một ống nghiệm khác nhỏ hơn úp lên ống thuỷ tinh, khoảng một phút,

dùng ngón tay cái bịt chặt miệng ống, để miệng ống lại gần ngọn lửa đèn cồn, sẽ
có tiếng nổ, tiếp tục làm như trên cho đến khi không còn tiếng nổ, hoặc tiếng nổ
bé thì thôi. Rút ống nghiệm nhỏ, châm lửa đốt đầu ống thuỷ tinh vuốt nhọn.
Quan sát màu của lửa khí hiđro.Giải thích quá trình thí nghiệm.
Ghi chú: Khi điều chế một lượng lớn khí hiđro có thể sử dụng bình kíp
với hoá chất như trên, nhưng cần mở vòi bình kíp cho khí hiđro đuổi hết không
khí ra khỏi bình (phương pháp thử như trên). Sau đó khoá vòi lại, lúc này trong
bình kíp chưa có khí hiđro mà không còn không khí (tránh hỗn hợp nổ bất ngờt).
Câu hỏi
1. Có thể thay thế dung dịch H
2
SO
4
bằng dung dịch HCl được không? Làm thế
nào để loại hơi axit HCl, vì hơi nước có lẫn trong luồng khí hiđro?
2. Tại sao nghiêm cấm việc bảo quản, tích trữ khí hiđro trong các bình chứa khí
(gazomet).
3. Tại sao khi dùng kẽm tinh khiết để điều chế H
2
người ta thường nhỏ vài giọt
dung dịch đồng sunfat vào dung dịch H
2
SO
4
?
4. Từ dung dịch H
2
SO
4
98% làm thế nào để pha chế dung dịch H

2
SO
4
20% (trình
bày phương pháp tính toán và phương pháp pha chết).
Thí nghiệm 2: Điều chế hiđro bằng cách cho nhôm tác dụng với dung dịch kiềm.
Hoá chất và dụng cụ: Nhôm, dung dịch NaOH 1N, ống nghiệm có nhánh.
Cách tiến hành: Cho một ít nhôm vụn vào ống nghiệm đựng khoảng 1-2
ml dung dịch NaOH. Quan sát hiện tượng, viết phương trình phản ứng.
Câu hỏi
1. Cho biết vai trò của NaOH trong thí nghiệm trên?
2. Có thể thay thế NaOH bằng KOH được không? NH
4
OH, Ca(OH)
2
? Giải
thích?
3. Từ NaOH rắn làm thế nào để pha chế được dung dịch NaOH có thể tích và
nồng độ nhất định?
Thí nghiệm 3: Điều chế hiđro bằng cách cho natri tác dụng với H
2
O.
Hoá chất và dụng cụ: Natri, nước cất, chậu thuỷ tinh, giá sắt, kẹp gỗ, ống
đong, ống nghiệm.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
9
Cách tiến hành: Cho nước cất vào chậu thuỷ tinh khoảng 2/3 chậu. Lấy
ống nghiệm đựng đầy nước cất úp vào chậu, đảm bảo không còn bọt khí trong
đó. Miệng ống nghiệm nằm dưới mặt nước. Lắp ống đong vào giá.
Dùng cặp sắt lấy Na ngâm trong dầu hoả trong bình làm khô bằng giấy

lọc. Nhanh chóng dùng dao cắt một miếng nhỏ (hạt đậu), phần còn lại bỏ ngay
vào lọ.
Dùng cặp, cặp miếng natri đưa nhanh vào ống nghiệm. Quan sát hiện
tượng.
Khi hiđro đã đầy ống nghiệm, dùng miếng thuỷ tinh đặt vào miệng ống
nghiệm, cẩn thận tháo ống nghiệm ra khỏi giá, dùng que đóm đang cháy đưa
nhanh vào miệng ống nghiệm: khí hiđro sẽ bốc cháy (lót tay cầm ống chưa khí
hiđro bằng khăn trước khi đưa đóm vào miệng ống nghiệm).
Câu hỏi
1. Nếu dùng nước cất không sạch hoặc nước nóng có ảnh hưởng gì đến thí
nghiệm không?
2. Việc thu khí hiđro bằng phương pháp trên dựa vào những cơ sở khoa học
nào?
3. Nêu nguyên tắc điều chế khí hiđro, từ đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của
phòng thí nghiệm để điều chế khí hiđro khi không có đủ hoá chất và cách tiến
hành thí nghiệm ở trên.
Thí nghiệm 4: Tác dụng khí hiđro với oxi.
Hoá chất và dụng cụ: Kẽm hạt, HCl 2N, ống nghiệm có nhánh, bình kíp,
ống nghiệm, đèn cồn, giá sắt.
Cách tiến hành: Khí hiđro điều chế bằng cách cho kẽm tác dụng HCl 2N.
Oxi điều chế bằng cách nhiệt phân KClO
3
. Lấy khí hiđro vào 2/3 thể tích ống
nghiệm bằng phương pháp thu qua nước. Sau đó tiếp tục lấy oxi đến đầy ống
nghiệm. Dùng ngón tay cái bịt chặt đầu ống nghiệm. Lót tay bằng khăn mặt,
cầm ống nghiệm, đưa miệng ống nghệm vào gần ngọn lửa đèn cồn, đồng thời
mở ngón tay cải ra. Nêu hiện tượng và giải thích.
Câu hỏi
1. Tại sao trước khi cầm ống nghiệm để đốt hỗn hợp khí lại phải lót tay bằng
khăn mặt hoặc giẻ dày?

2. Thí nghiệm trên đã minh hoạ tính chất gì của khí hiđro?
3. Làm thế nào để nạp khí hiđro trong bình chứa khí? Cấu tạo nguyên tắc vận
hành bình chứa khí?
4. Cấu tạo bình kíp? Tác dụng các bộ phận của bình kíp?
Thí nghiệm 5: Khử oxit kim loại bằng hiđro.
Hoá chất và dụng cụ: đồng (II) oxit, ống nghiệm có nhánh (hoặc bình
kíp), bình rửa khí với H
2
SO
4
đặc, ống nghiệm thuỷ tinh chữ V, đèn cồn, giá, cặp,
cốc 250 ml, nước lạnh.
Cách tiến hành
1. Cho một ít đồng (II) oxit vào đáy ống nghiệm hình chữ V. Dẫn khí H
2
được
điều chế đi qua ống chữ V. Sau một lúc, khi khí H
2
đã đuổi hết không khí ra khỏi
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
10
toàn bộ hệ thống phản ứng (làm thế nào để biếtl?), dùng đèn cồn đốt nóng ống
chữ V (đồng thời vẫn cho H® đi qua) cho đến khi phản ứng xong. Tắt đèn cồn
và vẫn tiếp tục cho H
2
đi qua ống chữ V cho đến khi ống nguội hẳn. Tháo ống
chữ V, ngâm ống vào cốc đựng HNO
3
đặc. Nhận xét hiện tượng.
2. Muốn chứng minh rằng trong phản ứng có tạo ra nước thì dẫn khí thoát ra vào

ông nghiệm khô, sạch, được đặt trong cốc nước lạnh.
Ghi chú
1. Các động tác thí nghiệm cần theo đúng trật tự như đã hướng dẫn.
2. Cần kiểm tra kĩ xem trong hệ thống đã hết không khí chưa, nếu cần thiết nên
đeo kính bảo hiểm.
Câu hỏi
1. Nhận xét hiện tượng và giải thích quá trình thí nghiệm?
2. Cho biết khi nào phản ứng kết thúc?
3. Tại sao trước khi đốt ống chữ V lại phải dùng khí hiđro đuổi hết không khí ra
khỏi hệ thống?
4. Tại sao khi phản ứng kết thúc, đã tắt đèn nhưng vẫn cho khí H
2
đi qua khỏi
ống cho đến khi ống nghiệm nguội hẳn?
5. Tại sao phải ngâm ống phản ứng vào cốc đựng HNO
3
sau khi thí nghiệm
xong? Thay HNO
3
bằng H
2
SO
4
loãng được không?
6. Khí hiđro có khả năng khử được oxit của kim loại nào? Dựa vào cơ sở nào để
dẫn đến kết luận đó?
Thí nghiệm 6: Tác dụng của hiđro với dung dịch AgNO
3
.
Hoá chất và dụng cụ: AgNO

3
0,5N; Pb(NO
3
)
2
0,5N (hoặc h
(CH
3
COO)
2
Pb); KMnO
4
trong kiềm, bình kíp (hoặc ống nghiệm có nhánhh);
bình rửa khí ống nghiệm.
Cách tiến hành: Nối bình kíp (hoặc ống nghiệm có nhánhh) với hai bình
rửa khí. Bình thứ nhất đựng dung dịch Pb (NO
3
)
2
hoặc (CH
3
COO)
2
Pb), bình thứ
hai đựng dung dịch KMnO
4
trong môi trường kiềm. Khí H
2
điều chế có thể lẫn
tạp chất H

2
S, AsH
3
. Khi qua các bình rửa khí, các tạp chất đó bị giữ lại. Nối bình
rửa khí thứ hai với ống dẫn khí nhúng vào ống nghiệm có chứa dung dịch
AgNO
3
.
Khi cho khí H
2
đi qua dung dịch AgNO
3
, sau 10-15 phút dung dịch từ trong suốt,
không màu sẽ tối dần và cuối cùng chuyển sang màu đen theo phản ứng:
2Ag
+
+ H
2
= 2Ag + 2H
+
Câu hỏi
1. Viết phương trình phản ứng:
Pb(NO
3
)
2
+ H
2
S
KMnO

4
+ KOH + AsH
3

AgNO
3
+ H
2
S 
AgNO
3
+ AsH
3
+ H
2
O 
Từ đó nêu tác dụng của các bình rửa khí chứ dung dịch Pb (NO
3
)
2
và KMnO
4
.
2. Trong thí nghiệm trên có thể thay thế dung dịch H
2
SO
4
10% bằng dung dịch
HCl để điều chế khí hiđro được không?
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1

11
3. Vì sao có tạp chất khí H
2
S, AsH
3
?
Thí nghiệm 7: Điều chế và thu khí oxi.
Hoá chất và dụng cụ: KClO
3
, MnO
2
, đèn cồn, cặp, giá, ống nghiệm có
nhánh, chậu thuỷ tinh, ống đong.
Cách tiến hành: Trộn KClO
3
và MnO
2
theo tỉ lệ khối lượng 2: 1 cho vào
ống nghiệm có nhánh khô. Đun ống nghiệm bằng đèn cồn. Dùng que đóm vừa
tắt còn tàn đỏ để vào ống nghiệm, thấy bùng cháy, thì lúc đó mới thu oxi bằng
cách rời chỗ nước.
Câu hỏi
1. Vai trò của MnO
2
là gì?
2. Tại sao pahỉ thử que đóm trước mới thu oxi?
3. Nêu các phương pháp thu khí? Vận dụng?
Thí nghiệm 8: Tác dụng của oxi với C, P, Fe.
Hoá chất và dụng cụ: than gỗ, photpho, dây thép uốn thành lò xo, 4 lọ
thuỷ tinh (hoặc bình tam giác 100 ml miệng rộng có núth, nhánh).

Cách tiến hành: Thu 4 lọ thuỷ tinh oxi bằng phương pháp rời chỗ nước.
- Lọ thứ nhất: cho tàn đóm còn đỏ vào, khi đóm cháy hết, lấy que đóm ra cho
thêm vài giọt dung dịch nước lội, lắc. Nhận xét hiện tượng.
- Lọ thứ hai: Dùng muôi sắt đựng một mẩu than nhỏ, đốt đỏ mẩu than, đưa
nhanh vào lọ. Quan sát hiện tượng. Cho thêm từng giọt dung dịch nước vôi, lắc
đều, nhận xét hiện tượng.
- Lọ thứ ba: Lấy một cục photppho đỏ bằng hạt đỗ, cho vào muôi đốt, đốt cháy
không khí (cho ngọn lửa xanh mờc) và nhanh chóng đưa ngay vào lọ đựng oxi.
Quan sát màu sắc ngọn lửa và màu của khói tạo ra trong lọ nhỏ vài giọt quỳ tím
vào dung dịch trong lọ.
- Lọ thứ tư: lấy một đoạn dây thép (dây phanh xe đạp), xoắn một đoạn thành
hình lò xo, đầu dây kia nối với một que tre. Đốt đỏ đoạn xoắn hình lò xo và cho
nhanh vào lọ.Quan sát hiện tượng. Có thể cho vào đầu lò xo một mẩu than nhỏ
để mồi (tại sao?).
câu hỏi
1. Giải thích hiện tượng xảy ra trong các thí nghiện trên và viết phương trình
phản ứng?
2. Vì sao các chất cháy trong oxi mạnh hơn trong không khí?
3. Muốn cho thí nghiện trên đạt kết quả tốt cần chú ý những động tác nào?
4. Tại sao trong các thí nghiệm trên, thu oxi phải để lại một ít nước?

Bài 2
Điều chế halogen
Thí nghiệm 1 : điều chế clo bằng cách cho K
2
Cr
2
O
7
tác dụng với HCl.

Hoá chất và dụng cụ: K
2
Cr
2
O
7
, dung dịch HCl đặc, ống nghiệm, đèn cồn,
giá, cặp, giấy tinh bột tẩm KI.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
12
Cách tiến hành: Cho K
2
Cr
2
O
7
vào ống nghuiệm khô, sau đó cho axit HCl
đặc vào, đậy nút ống nghiệm. Thu khí clo vào lọ giấy tinh bột tẩm KI, miệng lọ
có đậy nút bông.
Câu hỏi
1. Viết phương trình phản ứng xảy ra trong thí nghiệm trên?
2. Tại sao phải dùng ống nghiệm khô?
3. Tại sao khi ngừng đun, phản ứngd giữa K
2
Cr
2
O
7
và HCl ngừng lại?
Thí nghiệm 2: Điều chế clo bằng cách cho MnO

2
tác dụng với HCl đặc.
Hoá chất và dụng cụ: Tương tự thí nghiệm 1 ( thay K
2
Cr
2
O
7
bằng MnO
2
).
Cách Tiến hành: Tương tự thí nghiệm 1.
Ghi chú
1. ở nhiệt độ thường phản ứng xảy ra chậm, nếu muốn phản ứng xảy ra nhanh
hơn, cần đun nóng ống nghiệm.
2. Sau khi thí nghiệm xong, rót nước vào bình phản ứng cho quá trình tách cho
ngừng lại, để yên cho MnO
2
lắng xuống đáy bình.
3. Muốn rửa ống nghiệm có thể dùng dung dịch axit oxalic hoặc dung dịch muối
natri oxalat đã được axit hoá bằng H
2
SO
4
.
Câu hỏi
1. Viết phương trình phản ứng điều chế clo từ phản ứng trên?
2. Tại sai rửa ống nghiệm bằng dung dịch axit oxalic?
Thí nghiệm 3: Điều chế clo bằng cách cho KMnO
4

tác dụng HCl đặc.
Hoá chất và dụng cụ: Tương tự thí nghiệm 1 ( thay K
2
Cr
2
O
7
bằng
KMnO
4
).
Cách tiến hành: Tương tự thí nghiệm 1.
Ghi chú
1. Lượng KMnO
4
phải tính trước tương ứng với lượng clo cần dùng ( 10 g
KMnO
4
và 60 ml HCl đặc thu được khoảng 1 lit khí clo).
2. Sau khi thí nghiệm xong, phải rửa bình phản ứng bằng dung dịch axit oxalic
hoặc muối tương ứng.
Thí nghiệm 4: Điều chế Brom bằng cách cho NaBr 0, 5M tác dụng với nước clo.
Hoá chất và dụng cụ: Dung dịch NaBr, nước clo, ống nghiệm, pipet.
Cách tiến hành: Cho vào ống nghiệm 3-5 ml dung dịch NaBr 0, 5M sau
đó cho dung dịch nước clo vào cho đến khi màu nâu đỏ xuất hiện rõ rệt.
Câu hỏi
1. Viết phương trình phản ứng xảy ra thí nghiệm trên.
2. Nếu cho clo dư, hiện tượng có khác không?
Thí nghiệm 5: Điều chế iot bằng cách cho KI tác dụng với nước clo.
Hoá chất và dụng cụ: dung dịch KI 0,5M, nước clo, hồ tinh bột, benzen,

ống nghiệm.
Cách tiến hành: Cho 3-5 ml dung dịch KI 0, 5M vào ống nghiệm thêm
từng giọt dung dịch nước clo cho đến khi dung dịch có màu vàng rõ rệt. Có thể
kiểm tra iot tạo thành bằng cách cho hồ tinh bột, dung dịch chuyển sang màu
xanh.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
13
Thêm 1 ml benzen và lắc cẩn thận. Quan sát hiện tượng và giải thích nguyên
nhân.
Câu hỏi
1. Viết phương trình phản ứng tạo iot ở thí nghiệm trên.
2. Nếu nước clo dư, hiện tượng có khác không? Sau khi tạo ra iot, cho benzen
vào có mục đích gì?
Thí nghiệm 6: Điều chế iot bằng cách cho KI tác dụng với MnO
2
khi có mặt
H
2
SO
4
.
Hoá chất và dụng cụ: KI tinh thể, MnO
2
, H
2
SO
4
98%, chén sứ khô, mặt
kính đồng hồ, giá sắt, đèn cồn.
Cách tiến hành: Cho vào chén sứ khô một ít tinh thể KI và một ít bột

MnO
2
. Thêm vào vài giọt dung dịch H
2
SO
4
đặc. Đậy kín chén sứ bằng mặt kính
đồng hồ. Đặt chén sứ lên giá và đun nhẹ bằng đèn cồn. Quan sát phản ứng qua
mặt kính đồng hồ. Khi có hơi màu tím thoát ra, đèn tắt, làm nguội chén sứ, theo
dõi sự tạo thành tinh thể iot.
Câu hỏi
1. Giải thích quá trình thí nghiệm và viết phương trình phản ứng?
2. Thí nghiệm trên có thể tiến hành trong ống nghiệm được không
Bài 3
Tính chất của halogen
Thí nghiệm 1: Tác dụng của clo với kim loại.
Hoá chất và dụng cụ: hoá chất và dụng cụ điều chế khí clo, dây đồng
(hoặc là đồngh), lọ thu khí miệng rộng có nắp, cặp, chén nung, đèn cồn, nước
cất.
Cách tiến hành: Thu khí clo vào lọ có lót lớp cát mỏng. Lấy sợi dây đồng
xoắn thành hình lò xo. Dùng cặp chén nung cặp sợi dây đồng nung đỏ trên ngọn
đèn và đưa nhanh vào lọ đựng khí khí clo. Quan sát hiện tượng sợi dây đồng
cháy trong clo. Khi dây đồng lá cháy xong, đậy nắp lọ, để nguội cho nước vào
1/3 thể tích của lọ, lắc lọ cho khói trong lọ tan hết. Để yên, quan sát màu của
dung dịch thu được.
Ghi chú: Khi dây đồng cháy không được chạm vào thành lọ.
Câu hỏi
1. Viết phương trình phản ứng và giải thích thí nghiệm.
2. Tại sao phải nung đỏ dây đồng trước khi cho phản ứng.
3. Thí nghiệm này có nhất thiết phải dùng khí clo khô không? Tại sao phải thu

vào lọ khô?
Thí nghiệm 2: Tác dụng của clo với photpho.
Hoá chất và dụng cụ: dụng cụ và hoá chất điều chế clo, photpho đỏ, nước
cất, lọ thu khí miệng rộng có nắp, thìa thuỷ tinh, môi đốt, đèn cồn.
Thực hành thí nghiệm hoá học vô cơ 1
14

×