Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 10 thông qua giờ đọc văn ở trường THPT bắc sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.18 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

Stt

Mục

1

A

Mở đầu

2

2

I

Lí do chọn đề tài

2

3

II

Mục đích nghiên cứu

3

4



III

Đối tượng nghiên cứu

3

5

IV

Phương pháp nghiên cứu

3

6

B

Nội dung

4

7

I

Cơ sở lí luận

4


8

II

Cơ sở thực tiễn

5

9

III

Biện pháp thực hiện

7

10

IV

Hiệu quả của đề tài

16

`11

C

Kết luận


18

Tài liệu tham khảo

20

12

Nội dung

Trang

1


A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Đã từ lâu, môn Ngữ Văn đã được coi là môn học chính trong các nhà
trường phổ thông. Thời phong kiến, Văn là môn thi bắt buộc. Ngày nay, sau
nhiều lần cải, thay đổi chương trình, SGK, môn Ngữ Văn vẫn được dành một vị
trí vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Có được vị trí
quan trọng như vậy là bởi môn Ngữ Văn vừa là môn khoa học xã hội và nhân
văn; vừa là môn công cụ (rèn luyện 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết) cho học sinh.
Tục ngữ có câu: Tiên học lễ, hậu học văn, nhà văn M. Go-rơ-ki nói: Văn
học là nhân học…Những câu nói trên đều nhấn mạnh vai trò của môn Ngữ Văn
trong việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho học sinh… Tuy
nhiên, trong bối cảnh hiện nay- nhu cầu của xã hội hiện đại đòi hỏi những con
người ngoài đạo đức tốt, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế còn phải có kiến thức tốt,
năng động, sáng tạo, có khả năng giao tiếp tốt, ứng phó linh hoạt với mọi tình

huống sảy ra…, việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh qua môn Ngữ Văn là vô
cùng quan trọng, đặc biệt là kĩ năng nói (phát biểu, thuyết trình, hùng biện…).
Nói làm sao cho người khác hiểu, nói làm sao để thuyết phục được người nghe
quả là một điều không dễ.
Thực tế là vậy nhưng hiện nay ở nhiều trường phổ thông, việc rèn luyện
kĩ năng nói cho học sinh vẫn chưa được chú trọng. Do áp lực thi cử nên cả giáo
viên và học sinh đều gồng mình lên để luyện đề, luyện viết. Kết quả là nhiều học
sinh có thể viết rất tốt nhưng lại không thể nói tốt, thậm chí là không thể trình
bày bài viết của mình bằng lời nói. Nhiều học sinh khi được kiểm tra bài cũ
không thể trả lời được mặc dù đã học bài, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp
không thể xin được việc làm vì không qua được vòng phỏng vấn…
Riêng ở trường THPT Bắc Sơn - một trường nằm ở vùng đặc biệt khó
khăn, gần 90% học sinh là người dân tộc thiểu số thì việc phần lớn học sinh hạn
chế về kĩ năng nói là điều không thể tránh khỏi.
Trước thực tế đó, việc chú trọng rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh ở
trường phổ thông nói chung và trường THPT Bắc Sơn nói riêng là vô cùng cần
thiết. Đây là việc làm thuộc về trách nhiệm của tất cả giáo viên, của tất cả các
môn học nhưng giáo viên dạy Văn và môn Ngữ Văn là quan trọng nhất. Ý thức
được điều đó, là một giáo viên dạy Văn, năm học này tôi mạnh dạn đưa ra sáng
kiến kinh nghiệm: “Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 10 thông qua giờ
đọc văn ở trường THPT Bắc Sơn”

2


II. Mục đích nghiên cứu
Từ những lí do đã nêu trên, bản thân tôi bắt tay vào nghiên cứu vấn đề với
mong muốn:
- Giúp các em học sinh ý thức được tầm quan trọng của kĩ năng nói trong
nhóm các kĩ năng cần có.

- Từ đó giúp các em có ý thức rèn luyện kĩ năng nói một cách nghiêm túc
để có thể tự tin giao tiếp trong mọi tình huống.
- Khi có kĩ năng nói tốt, các em có thể chủ trì các hội nghị, hội thảo, diễn
đàn, tìm được việc làm như mong muốn sau khi tốt nghiệp hoặc trở thành những
cán bộ ở địa phương.
III. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài sẽ nghiên cứu, khảo sát, vận dụng một số biện pháp cụ thể để rèn
luyện kĩ năng nói cho học sinh thông qua các tiết đọc văn trong chương trình
Ngữ Văn lớp 10 THPT.
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Tìm hiểu các tài liệu chuyên môn có đề cập đến phương
pháp dạy học Văn và vấn đề rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh.
+ Thu thập những thông tin lý luận về nội dung chương
trình môn Ngữ Văn và các cách rèn luyện, phát triển kĩ năng nói
cho học sinh.
- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát kĩ năng nói của học sinh ở trong cũng như ngoài
nhà trường.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế:
+ Khảo sát một số tiết học trong chương trình
+ Thăm lớp, dự giờ ở một số lớp khác
+ Nghiên cứu kết quả học tập của học sinh
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
+ Thống kê số lượng học sinh có khả năng nói tương đối tốt
+ Thống kê số lượng học sinh kĩ năng nói còn yếu
- Phương pháp thử nghiệm:
Thử áp dụng các biện pháp rèn luyện kĩ năng nói ở một số lớp qua một số
tiết học cụ thể


3


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận1
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng chủ đạo của
chiến lược dạy học môn Ngữ Văn ở trường phổ thông. Hiện nay các nước trên
thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một căn cứ để
hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói,
đọc, viết cho người học.
Ở nước ta, trong những năm qua, hoạt động đổi mới giáo dục đã được chỉ
đạo sát sao. Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của Nhà nước về đổi mới
giáo dục nói chung và giáo dục trung học nói riêng được thể hiện trong nhiều
văn bản, đặc biệt trong các văn bản sau đây:
1. Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.[1]
2. Nghị quyết Hội nghị TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ
năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang hình thức học tập đa dạng, chú ý hoạt động xã hội,
ngoại khóa, nghiên cứu khoa học…”.[2]
Như vậy, rõ ràng là giáo dục kĩ năng luôn là mục tiêu quan trọng mà đổi
mới toàn diện giáo dục hướng tới, trong đó có môn Ngữ Văn.

Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông
tin, thì nói, viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông
tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những
môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách hệ thống theo
1

Trong mục I: Đoạn “Dạy học….văn bản sau đây” do tác giả tự viết ra; đoạn tiếp theo: “Phương pháp giáo
dục… cho học sinh” tác giả trích từ TLTK số 1; đoạn còn lại do tác giả tự viết ra.
- Tương tự đoạn “Tiếp tục đổi mới… nghiên cứu khoa học” tác giả trích từ TLTK số 2.

4


những chủ đề nhất định, gắn với từng môn học - lĩnh vực cụ thể, đảm bảo những
yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Trong những năm học qua, giáo viên bộ môn Ngữ Văn dần
dần tiếp cận và nắm vững phương pháp dạy học mới. Người
thầy không chỉ đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ
động khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm văn chương mà còn hình
thành cho các em năng lực: nghe, nói, đọc, viết (năng lực giao
tiếp tiếng Việt). Nếu thầy cô đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn
học sinh chủ động khám phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương,
thì học sinh phải tự mình bộc lộ sự hiểu biết, phải biết diễn đạt
sự hiểu biết đó thành lời nói. Muốn cho người nghe hiểu được thì
người nói phải nói cho tốt, nghĩa là nói phải mạch lạc, logic…
Vì thế, rèn luyện và phát triển kĩ năng nói là việc làm vô cùng
quan trọng trong quá trình dạy - học văn, là biện pháp góp phần
nâng cao hiệu quả của giờ dạy học Ngữ Văn. Có kĩ năng nói tốt
sẽ giúp học sinh thuận lợi hơn trong cuộc sống.

Cô Trương Thúy Hà (Trường THPT Nguyễn Trung Trực - TPHCM) cho
rằng: “Trong nhà trường phổ thông, hoạt động rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh phải đảm bảo các nguyên tắc giáo dục, nguyên tắc dạy học, được vận dụng
cụ thể vào một không gian, thời gian, đối tượng nhất định. Phải bám sát mục
tiêu giáo dục của nhà trường, những quy luật khoa học về bản chất của hoạt
động ngôn ngữ, của tâm lý học, của con đường hình thành kỹ năng. Rèn luyện kĩ
năng nói phải bám sát nội dung, chương trình dạy học và phải được cá thể hóa
theo từng đối tượng học sinh”. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng, hiệu quả rèn
luyện kĩ năng nói cho học sinh, theo cô Trương Thúy Hà, phải chú ý thêm: Vận
dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp dạy học tiếng truyền thống; đa dạng
hóa các hình thức, môi trường rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong dạy học
môn Ngữ Văn”2.[3]
II. Cơ sở thực tiễn
Không thể phủ nhận rằng: trong suốt một thời gian dài việc dạy học Văn
trong nhà trường đơn thuần chỉ là thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò chép, có
những tiết học cả lớp im phăng phắc lắng nghe thầy giáo giảng bài.
Trong những năm gần đây, việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
được thực hiện; việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đã được toàn nghành
giáo dục quan tâm và thực hiện có hiểu quả. Gần đây nhất là đổi mới phương
Trong trang này: Đoạn từ “Trong những năm học qua… cho rằng” tác giả tự viết ra; đoạn tiếp theo từ
“Trong nhà trường phổ thông… dạy học môn Ngữ Văn” tác giả trích từ nguồn TL số 3.
2

5


pháp dạy học nhằm phát huy phẩm chất, năng lực cho học sinh là nhiệm vụ tiên
quyết của các môn học, trong đó môn Ngữ Văn cũng không ngoại lệ đã bước
đầu mang lại những hiệu quả nhất định.

Song, thực tiễn giảng dạy ở trường phổ thông, việc chú trọng rèn luyện kĩ
năng nói cho học sinh vẫn chưa được chú trọng đúng mức, đa số học sinh chưa
có kỹ năng nói trước tập thể, ngại nói, không tự tin nói trước đông người. Trong
một giờ học, chỉ những em có học lực khá giỏi mới dám nói, còn những em học
sinh có học lực trung bình, yếu lại không dám nói. Một thực tế khác, khi tham
gia nói trong các tiết học, học sinh thường nói ngập ngừng, không rõ ràng, có
nhiều em có ý tưởng trong đầu nhưng không thể diễn đạt sao cho mạch lạc.
Riêng ở trường THPT Bắc Sơn, vì phần lớn học sinh là người dân tộc
thiểu số nên trong khi nói, có nhiều em còn sử dụng từ địa phương, phát âm
chưa đúng chuẩn, điều này ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp của các em trong
cuộc sống cũng như trong học tập. Ví dụ nhiều em phát âm mong thành mông,
máu thành mấu, long thành lông…
Có thực ấy là do một số nguyên nhân sau đây:
* Về phía giáo viên và chương trình, sgk:
- Phần đa giáo viên chỉ chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết. Có
điều đó là bởi lối dạy học Văn theo kiểu thực dụng: học để thi, thi gì học nấy.
- Đa số giáo viên trong giờ dạy chỉ chú trọng khai thác trọng tâm kiến
thức của bài học, không tạo điều kiện cho học sinh có nhiều cơ hội nói, bỏ quên
bước rèn kỹ năng nói cho học sinh.
- Quy mô mỗi lớp học đông nên giáo viên ít có thời gian rèn luyện kỹ năng
nói cho từng học sinh.
- Một bộ phận giáo viên chưa có phương pháp linh hoạt, sáng tạo để động
viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho học sinh luyện nói có hiệu quả.
- Chương trình Ngữ văn THPT hiện hành đã chú ý đến việc rèn kĩ năng sử
dụng ngôn ngữ, nhưng thời lượng quá ít, lại không yêu cầu kiểm tra đánh giá rèn
luyện kỹ năng nói …
- Vì hỏi học sinh không trả lời, lâu dần giáo viên cũng nảy sinh tâm lí ngại
hỏi vì có hỏi rồi cũng phải tự trả lời.
- Đặc biệt là trong những giờ thao giảng, vì sợ không đủ thời gian nên
giáo viên ít hỏi hoặc chỉ gọi một vài em giơ tay đứng dậy trả lời.

- Giáo viên là người miền xuôi lên công tác không hiểu ngôn ngữ, tâm lí
của học sinh dân tộc thiểu số.
* Về phía học sinh:
- Các em rất ngại nói trong giờ học, có tâm lý ngượng ngùng, dè dặt, sợ
mình nói sai.
6


- Sự hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến
học sinh thiếu sự đa dạng, linh hoạt trong việc thực hiện các chủ đề, hình thức
nói năng.
- Các hoạt động tập thể, trao đổi, thảo luận, tập diễn thuyết, hùng biện,...
khó được tổ chức nên học sinh ít có điều kiện để rèn luyện kĩ năng nói.
- Nhiều học sinh bị cuốn hút vào các trò chơi hiện đại như game, chat,...
khiến vốn từ vựng không được bổ sung. Lối sống hiện đại, công việc tất bật...
khiến nhiều phụ huynh không có thời gian giao tiếp, chuyện trò với con em
mình nên tạo điều kiện cho các em dần dần khép kín, ngại nói năng, giao tiếp, có
thái độ tự kỷ.
- Ở một trường vùng khó khăn như trường tôi với hơn 90% học sinh là
người dân tộc thiểu số, phần lớn học sinh có học lực TB, yếu, nhiều em nói
Tiếng Việt chưa thành thạo nên các em càng ngại nói.
- Nhiều học sinh đi học theo kiểu đối phó - bố mẹ bắt đi, ngồi cho hết lớp
nên các em không đọc sách, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp…
Từ thực trạng và nguyên nhân trên sẽ dẫn đến kết quả là:
- Nhiều giờ học, khi giáo viên hỏi nhưng trong lớp không có học sinh giơ
tay phát biểu
- Nhiều học sinh khi được gọi đã giật mình, các em miễn cưỡng đứng lên
chỉ gãi đầu, gãi tai
- Có tiết học, quanh đi quẩn lại cũng chỉ một vài em giơ tay phát biểu
- Ở lớp tôi chủ nhiệm trước đây, trong những giờ sinh hoạt, ngay cả cán

bộ lớp cũng không thể nói lưu loát, rõ ràng trước tập thể
Nhìn chung các tiết học đều tẻ nhạt, không sôi nổi, nhiều giáo viên có tâm
lí buông xuôi, hạn chế giảng, hạn chế hỏi vì cho rằng có giảng, có hỏi học sinh
cũng không hiểu, không trả lời được nên chỉ cho các em ghi vài ý quan trọng là
xong.
Để khắc phục tình trạng trên, mỗi giáo viên phải nỗ lực hết mình, có kĩ
năng sư phạm tốt, phải tạo cho học sinh sự tự tin, mạnh dạn trước tập thể, bồi
dưỡng thêm vốn từ, cách phát âm chuẩn, rèn luyện kỹ năng nói cho các em
nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn học, đồng thời thực hiện thành công
mục tiêu dạy học môn Ngữ Văn.
Rèn luyện kỹ năng nói tốt, giáo viên vừa giúp các em thể hiện mình, tự
bày tỏ suy nghĩ cảm xúc những điều các em cảm thụ, vừa giúp các em phân tích,
đánh giá một cách tự tin trước tập thể, đồng thời cũng là biện pháp khắc phục
những khó khăn - thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ đó nâng cao chất
lượng dạy học môn Ngữ Văn.
III. Biện pháp thực hiện
7


Trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua các giờ đọc Văn,
các biện pháp không thể tiến hành riêng lẻ và cũng không phải chỉ ở một số tiết,
một số công đoạn. Nó phải có tính hệ thống, kết hợp và liên tục. Bởi vậy, cũng
không có một mô hình chính thức cho việc phát triển giáo dục kỹ năng này mà
đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong mỗi
giờ dạy. Các biện pháp tôi đưa ra trong đề tài này chỉ là những biện pháp trong
từng trường hợp cụ thể.
1. Biện pháp 1: Kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh bằng hệ
thống câu hỏi phát hiện
a. Cách thức tổ chức thực hiện
Muốn chiếm lĩnh tốt bài học, học sinh phải chuẩn bị trước ở nhà bằng

cách đọc và soạn bài. Với môn Ngữ Văn nói chung và tiết đọc văn nói riêng,
điều đó lại vô cùng cần thiết vì có nhiều tác phẩm văn xuôi dài, buộc học sinh
phải đọc trước ở nhà.
Như đã nói, nhiều học sinh ở trường tôi từ những lớp dưới đã không có
thói quen chuẩn bị bài trước khi lên lớp, nhiều em vào giờ học còn không biết
bài học cô ghi trên bản nằm ở vị trí nào trong sách. Bên cạnh đó các em còn có
thói quen nói trống không, phát âm sai…Vì vậy vào đầu năm học tôi đã đưa ra
những quy định rõ ràng nhằm khuyến khích các em có thói quen soạn bài trước
khi đến lớp, trước giờ học tôi thường kiểm tra vở một vài em bất kì, trong giờ
học tôi sử dụng nhiều câu hỏi tái hiện và gọi những học sinh có học lực trung
bình và yếu trả lời ( không cần các em giơ tay).
b. Quá trình thực hiện
Cụ thể khi dạy bài “Tổng quan văn học Việt Nam” (Ngữ văn 10) tôi đã
hỏi học sinh những câu hỏi như sau:
- Văn học Việt Nam được hợp thành bởi những bộ phận nào?
- Văn học viết Việt Nam phát triển qua mấy thời kì lớn?
- Văn học trung đại Việt Nam gồm những thành phần nào?
Hay khi dạy bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam” (Ngữ văn 10)
tôi sẽ hỏi học sinh những câu hỏi như sau:
- Văn học dân gian có những đặc trưng cơ bản nào?
- Văn học dân gian có bao nhiêu thể loại?
- Hãy chỉ ra những giá trị cơ bản của văn học dân gian?
Đây là những câu hỏi dễ, học sinh chỉ cần chuẩn bị bài, quan sát sách giáo
khoa là có thể trả lời được. Khi nhận xét tôi sẽ kết hợp uốn nắn cho các em về
phát âm, dùng từ…
c. Kết quả thực hiện
Với việc đưa ra những câu hỏi dễ như thế này, học sinh sẽ mạnh dạn giơ
tay phát biểu và trình bày rõ ràng hơn vì kiến thức đã có sẵn trong sách; các em
8



có học lực trung bình, thậm chí là yếu cũng có thể trả lời, từ đó giúp các em
không còn mặc cảm, tự ti trước các bạn. Sau vài lần được sửa, các em đã có tiến
bộ rõ rệt, đã sửa được một số lỗi phát âm, dùng từ, đặt câu. Tôi có thể khuyến
khích, động viên các em bằng cách cho điểm “thoáng” hơn một chút để các em
có động cơ phấn đấu học tập tốt hơn, mạnh dạn phát biểu hơn.
2. Biện pháp 2: Đưa học sinh vào tình huống trong các giờ học văn
a. Cách thức tổ chức thực hiện
Trong các giờ học giáo viên luôn phải biết đưa học sinh vào những tình
huống có vấn đề để các em suy nghĩ. Từ những kiến thức có sẵn, cộng với sự nỗ
lực của bản thân, các em nắm được vấn đề từ đó thể hiện khả năng, bộc lộ suy
nghĩ và tiếng nói của mình.
Bản thân tôi khi dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT Bắc Sơn, tôi luôn cố
gắng xây dựng mối quan hệ giao tiếp trong giờ học Ngữ Văn, trong đó học sinh
là chủ thể giao tiếp với tác phẩm, giáo viên là người hướng dẫn học sinh tiếp cận
các tác phẩm. Trong các giờ học, tôi đưa ra các tình huống giả định khi phân tích
tìm hiểu tác phẩm, tạo cho học sinh có cơ hội phát biểu ý kiến, cảm nghĩ. Bên
cạnh đó tôi kết hợp với các phương tiện nghe, nhìn, có thể giúp học sinh hình
tượng hóa nhân vật, bối cảnh, diễn biến để tạo sự kích thích, gây ấn tượng với
học sinh, giúp các em trình bày ý kiến của mình.
b. Quá trình thực hiện
Cụ thể khi dạy văn bản “Cảnh ngày hè” (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp
10A1, Trường THPT Bắc Sơn, tôi đã đưa ra tình huống: Bài thơ trước hết là bức
tranh thiên nhiên ngày hè, các em hãy vẽ lại bức tranh ấy bằng ngôn từ của
mình. (Câu này chỉ dành cho những học sinh có học lực khá, giỏi)
Em Đào Thị Khánh Linh học sinh lớp 10A1 đã vẽ lại được bức tranh ấy
bằng ngôn từ: “Thưa cô, bức tranh thiên nhiên ngày hè nổi bật với những tán lá
hòe xanh thẫm, cành lá xum xuê, đùn lên thành chùm như chiếc ô căng tròn.
Trong cành lá xanh biếc những đóa hoa lựu như chiếc những chiếc đèn lồng bé
xíu phóng ra những tia lửa đỏ, sen hồng đã nở thắm lòng ao”.

Em Trương Yến Nhi học sinh lớp 10A1 đã nhận xét phần trả lời của bạn:
“Bạn trả lời to, rõ ràng nêu bật được vẻ đẹp sống động của bức tranh, qua
những ngôn từ chính xác”.
Hay khi dạy văn bản “Tấm Cám” (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp 10A1,
Trường THPT Bắc Sơn , tôi có đưa ra tình huống: “Sau khi lên bờ, thấy giỏ của
mình trống không, Tấm đã ngồi khóc. Nếu em là Tấm, em sẽ làm gì?”
Em Phạm Nguyệt Ánh lớp 10A1 trả lời: “Em cũng chỉ biết khóc thôi cô ạ!”
Em Quách Kiều Trinh lớp 10A1 lại nói: “Em sẽ không khóc mà chạy một
mạch về nhà tìm Cám để đòi lại giỏ tôm tép. Khóc lóc không giải quyết được
9


vấn đề. Trong cuộc sống cần phải mạnh mẽ, khóc nghĩa là đã chịu thua…”. Cả
lớp vỗ tay.
Vẫn là văn bản “Tấm Cám”, ở lớp 10A6, tôi tiếp tục đưa ra tình
huống:“Nếu em là Tấm, khi được trở lại làm hoàng hậu em sẽ cư xử thế nào với
Cám, vì sao?”.
Em Phạm văn Linh lớp 10A6 phát biểu: “Em sẽ trả thù mẹ con Cám vì
sức chịu đựng của con người có giới hạn. Nếu không trừng trị thì Tấm làm sao
mà sống yên ổn được, mẹ con nhà cám sẽ tiếp tục tìm cách hãm hại Tấm”
Em Bùi Thúy Linh lớp 10A6 lại có ý kiến: “Em sẽ bắt mẹ con Cám đi
đày biệt xứ vì em không nỡ giết Cám, dẫu sao đó cũng là máu mủ ruột thịt”.
Hay khi dạy văn bản “Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng
Thủy”, tôi hỏi học sinh: “Nếu em là An Dương Vương thì em có giết Mị Châu
không? Vì sao?”
Em Phạm Thị Thanh lớp 10A1 trả lời: “Thư cô là có. Vì một khi đã có tội
với nước thì là con cũng giết, như vậy mới công bằng”
Em Nguyễn Văn Thắng lại cho rằng: “Không ạ! Cha làm sao nỡ giết con?”.
Vậy em sẽ làm gì?
Một học sinh khác trả lời: Em sẽ giết Mị Châu rồi tự sát vì vua cũng là

người có tội do không dạy bảo, dặn dò con kĩ lưỡng…
c. Kết quả
Từ việc đưa học sinh vào tình huống trong các giờ đọc văn, học sinh các
lớp tôi dạy đã có suy nghĩ, liên tưởng và bộc lộ hiểu biết, quan điểm của mình
qua ngôn ngữ nói, nhiều học sinh đã đưa ra những câu trả lời rất thú vị; giáo
viên lắng nghe, đánh giá và uốn nắn nhằm đi đến một đáp án đúng nhất chứ
không thể áp đặt suy nghĩ - cách hiểu cho các em. Bằng cách làm đó, tôi đã phần
nào rèn luyện được kỹ năng nói cho học sinh qua giờ đọc văn mà vẫn đảm bảo
thời gian và kiến thức trọng tâm của một giờ học.
3. Biện pháp 3: Đặt hệ thống câu hỏi trong các giờ đọc văn
a. Cách thức tổ chức thực hiện
Trong quá trình soạn bài, tôi luôn ý thức rằng hệ thống câu hỏi là vô cùng
quan trọng. Hệ thống câu hỏi phải đảm bảo tính chính xác của nội dung bài học,
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời giáo viên cũng dự kiến
được mức độ trả lời để kịp thời chỉnh sửa, uốn nắn, bổ sung. Không những thế,
hệ thống câu hỏi trong các bài giảng của giáo viên phải là những câu hỏi kích
thích học sinh bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc, tạo cơ hội để các em thể hiện năng lực
nói rõ nhất; quá trình học sinh trả lời có sự điều chỉnh, nhận xét, uốn nắn của
thầy cô và các bạn chính là rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh (gồm cả học sinh
phát biểu và học sinh nhận xét).
b. Quá trình thực hiện
10


Trong năm học 2013 -2014 tôi đã áp dụng giải pháp trên khi dạy giờ Ngữ
Văn ở các lớp 10A1, 10A6, tại trường THPT Bắc Sơn. Cụ thể khi dạy đọc văn
một số văn bản sau:
Dạy bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp
10A1, tôi có hỏi các em một số câu hỏi để khai thác nội dung bài học và giáo
dục kỹ năng nói:

- Em có cảm nhận như thế nào về hai câu thơ:
“ Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
- Xuất phát từ quan niệm của tác giả về dại và khôn, em hãy giải thích rõ
hơn về triết lí nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm? Qua đó nhận xét gì về con người
của ông?
Hay khi dạy văn bản “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng
Thủy” (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp 10A6, tôi có hỏi các em như sau:
- Em hãy phân tích hành động của An Dương Vương chém đầu Mị Châu
khi biết Mị Châu chính là giặc?
- Chi tiết An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, rẽ nước đi xuống biển
thể hiện quan điểm thái độ gì của nhân dân?
Khi dạy văn bản “Đọc Tiểu Thanh Ký” tại lớp 10A6, tôi có hỏi:
- Em cảm nhận gì thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa và tấm lòng
nhân đạo của Nguyễn Du?
- Hai câu cuối trong bài thơ thể hiện mong muốn gì của thi nhân?
c. Kết quả
Trong quá trình giảng dạy một số tiết Ngữ Văn lớp 10 tại trường THPT
Bắc Sơn, khi tôi đưa ra những câu hỏi gợi mở như vậy học sinh đã có rất nhiều
đáp án trả lời khác nhau. Cụ thể:
Ở lớp 10A1, các em trả lời câu hỏi liên quan tới hai câu thực của bài
“Nhàn” như sau:
- “Em hiểu nơi vắng vẻ là nơi ít người, chốn lao xao là chỗ nhiều người”,
có em lại trả lời “nơi vắng vẻ là nơi nhà quê, chốn lao xao là chốn kinh thành”,
giáo viên nhận xét, điều chỉnh, nhắc nhở:
- “Khi trả lời thầy cô các em phải thưa gửi để thể hiện văn hóa lễ độ, kính
trọng thầy cô. Theo cô “nơi vắng vẻ” là nơi bình yên trong tự nhiên, nơi thư thái
trong tâm hồn, “chốn lao xao” là chốn đô hội cửa quyền, nơi con người bon
chen danh lợi, lắm âm mưu, nhiều sát phạt. Em thấy cách nói nào hay? Bằng
cách đặt câu hỏi, lắng nghe và uốn nắn học sinh trong quá trình trả lời, giáo viên

đã phần nào rèn luyện kỹ năng nói cho các em qua các giờ đọc văn.
4. Biện pháp 4: Tạo hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong các giờ học
văn.
11


a. Cách thức tổ chức thực hiện
Từ xưa tới nay, trong việc giáo dục con người, văn chương vẫn được sử
dụng như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của
văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Người giáo viên
chính là những kỹ sư tâm hồn, điều đó rất đúng với các thầy cô dạy Văn, vì môn
Ngữ Văn bồi đắp cả kiến thức, tâm hồn, lẫn kỹ năng cho học sinh trong đó có kỹ
năng nói.
b. Quá trình thực hiện
Nếu trước đây một giờ dạy Văn tốt đồng thời là một giờ dạy hay, học sinh
say sưa nghe giáo viên bình văn thầy và trò là những người tri âm đồng cảm,
người thầy rót vào tai trò những điều thầy tâm đắc thì giờ đây, xã hội đã thay
đổi, suy nghĩ, quan điểm của học sinh cũng khác, có những điều thầy cô cho là
chuẩn mực thì học sinh lại không nhất trí. Vì thế trong giờ Ngữ Văn, học sinh
không chỉ tiếp nhận kiến thức, trải nghiệm cảm xúc mà còn được bày tỏ ý kiến,
quan điểm cá nhân của mình, rèn luyện kỹ năng, trong đó có kỹ năng nói. Để
làm được điều này, người giáo viên phải tạo ra không khí giờ học thân thiện
bằng một thái độ thân tình, cởi mở. Trong các giờ học, tôi luôn động viên, khích
lệ để các em tự tin, hăng hái phát biểu xây dựng bài, bằng kiến thức, suy nghĩ và
tư duy ngôn ngữ của các em, tránh tạo khoảng cách quá xa giữa thầy cô và học
sinh, khơi gợi không khí học tập hào hứng sôi nổi, thái độ sẵn sàng hợp tác của
học sinh với giáo viên và ngược lại, tránh những phê bình áp đặt khiến học sinh
hụt hẫng, xấu hổ không muốn tiếp tục bộc lộ tiếng nói của mình, từ đó dẫn đến
tâm lý e ngại, thậm chí sợ thầy cô hỏi đến mình.
Đặc biệt trong các giờ đọc văn tôi thường đan xen kể cho các em nghe

những câu chuyện liên quan đến bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh. Ví dụ
khi dạy bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão, tôi kể cho các em nghe về
chuyện Phạm Ngũ lão ngồi đan sọt bên vệ đường, mải suy nghĩ việc nước mà
không để ý xung quanh nên đã bị quân lính đâm vào đùi chảy máu. Hay khi dạy
bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du tôi sẽ kể cho các em nghe giai
thoại về Nguyễn Du trước khi mất đã đọc hai câu thơ cuối trong bài thơ này rồi
nhắm mắt…để học sinh hiểu được mong muốn tìm được tri âm của đại thi hào
dân tộc Nguyễn Du.
c. Kết quả
Khi giáo viên tạo ra một không khí học tập thân thiện, nhẹ nhàng, vui vẻ,
thoải mái, có hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi, học sinh dễ dàng bộc lộ suy nghĩ,
kiến thức của các em, các em sẽ không còn cảm giác sợ nữa, sẽ hứng thú hơn và
giờ học chắc chắn sẽ hiệu quả. Thông qua đó, tôi cũng nắm bắt được kỹ năng
nói của từng em và kịp thời uốn nắn, giáo dục. Vấn đề này tương đối khó, phụ
12


thuộc vào nghệ thuật, vào năng lực sư phạm và sự dẫn dắt trong bài giảng của
mỗi giáo viên.
5. Biện pháp 5: Tổ chức thảo luận nhóm trong các giờ học văn
a. Cách thức tổ chức thực hiện
Thảo luận nhóm cũng là một cách rèn luyện kỹ năng nói. Ở đó có ba thời
điểm các em được luyện nói: đóng góp ý kiến, đại diện nhóm trình bày kết quả,
các nhóm khác nhận xét bổ sung.
Trong một tiết dạy, tôi thường thiết kế 2-3 câu hỏi thảo luận nhóm, thời
gian thảo luận từ 2-3 phút (tùy từng bài), thường là dạng câu hỏi mở, câu hỏi
ngắn, học sinh tư duy trả lời.
Trước hết, các cá nhân trình bày quan điểm của mình trước nhóm. Từ các
ý kiến, nhóm trưởng khái quát lại nội dung mà nhóm nhất trí, rồi trình bày ý
kiến của nhóm trước lớp. Các nhóm khác sẽ có ý kiến. Sau cùng tôi nhận xét:

Nội dung nói đáp ứng yêu cầu của câu hỏi thảo luận hay không, học sinh khi
trình bày có lưu loát mạch lạc, làm nổi rõ vấn đề hay không, giọng nói đã gây
được chú ý cho người nghe hay chưa....
b. Quá trình thực hiện
Một số câu hỏi thảo luận nhóm tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy
Ngữ Văn lớp 10 tại trường THPT Bắc Sơn ở năm học 2013-2014 trong tiết đọc
văn. Thời gian thảo luận từ 1-3 phút.
Ở bài “Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy”, khi học sinh
học đến bi kịch nước mất, nhà tan và bi kịch tình yêu tan vỡ, giáo tôi cho học
sinh thảo luận câu hỏi:
Nhóm 1: Việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần có hai cách
đánh giá:
- Mị Châu làm như vậy là chỉ thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên
nghĩa vụ đối với đất nước.
- Mị Châu làm theo ý chồng là lẽ tự nhiên, hợp đạo lí.
Ý kiến của em thế nào ?
Nhóm 2: Theo em Mị Châu nghĩ gì khi nàng quỳ gối, không phải để xin
vua cha tha chết mà quỳ khấn “…chết biến thành ngọ trai”?
Nhóm 3: Chi tiết “ngọc trai giếng nước” thể hiện thái độ, tình cảm gì của
nhân dân ta đối với Mị Châu?
Ở bài “Tấm Cám”, khi cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa những lần biến hóa
của Tấm. Học sinh thảo luận câu hỏi:
- Tấm phải nhiều lần hóa thân mới trở lại cuộc đời. Qua đó dân gian muốn
nêu triết lí gì về cuộc sống?
Ở bài “Nhàn”, để củng cố bài học tôi cho học sinh thảo luận nhóm câu
hỏi:
13


- Em hãy phác họa bức chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ

“Nhàn”?
c. Kết quả
Trong quá trình giảng dạy tôi thấy rằng: việc áp dụng hình thức thảo luận
nhóm trong các giờ học văn tạo nên một sự hứng thú rất lớn cho học sinh. Thông
qua thảo luận nhóm, học sinh được thể hiện quan điểm , suy nghĩ của mình,
đồng thời đưa ra những lập luận để bảo vệ quan điểm đó. Những giờ học có tổ
chức thảo luận nhóm là những giờ học vô cùng tích cực, sôi nổi, phát huy tính
chủ động sáng tạo trong tư duy học sinh, đồng thời góp phần định hướng rèn
luyện cho học sinh những kỹ năng lập luận, kỹ năng tranh biện, ..... và hơn hết là
kỹ năng nói cho học sinh.
6. Biện pháp 6: Tổ chức thuyết trình theo nhóm trong các giờ học văn
a. Cách thức tổ chức thực hiện
Giáo viên tổ chức lớp thành bốn nhóm học tập, giao cho mỗi nhóm một
vấn đề (thuộc kiến thức trọng tâm của bài học) yêu cầu các nhóm chuẩn bị nội
dung thuyết trình (nội dung này các nhóm có thể tìm hiểu ở trên lớp, hoặc ở
nhà). Thầy cô sẽ là người ấn định thời gian và thời lượng để các nhóm thuyết
trình.
b. Quá trình thực hiện
Tôi đã từng áp dụng hình thức này trong quá trình giảng dạy các tiết tìm
hiểu về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du với tư cách là tác gia văn học dành cho học
sinh lớp 10 trường THPT Bắc Sơn năm học 2013-2014, 2015-2016, 2016-217.
Cụ thể với giờ học về tác gia Nguyễn Du, theo phân phối chương trình
giờ học này được dạy trong một tiết. Tôi chia lớp thành bốn nhóm và yêu cầu
các nhóm chuẩn bị ở nhà một vấn đề liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp văn
chương của Nguyễn Du xoay quanh những câu hỏi giáo viên đặt ra như sau:
Nhóm 1: Trình bày những nét chính về cuộc đời Nguyễn Du? Những đặc
điểm về cuộc đời của Nguyễn Du góp phần lí giải những thành công trong sáng
tác của nhà thơ như thế nào?
Nhóm 2: Hãy trình bày những sáng tác chính của Nguyễn Du và đặc điểm
của chúng.

Nhóm 3: Hãy làm rõ chữ “tình” trong nội dung sáng tác của nguyễn Du?
Nhóm 4: Nguyễn Du đã phát huy và làm giàu vốn ngôn ngữ của dân tộc
như thế nào? Hãy chứng minh bằng tác phẩm Truyện Kiều.
Mỗi nhóm có 07 phút để thuyết trình về vấn đề đã được chuẩn bị. Khi
trưởng nhóm lên thuyết trình, các nhóm lắng nghe, đánh giá về nội dung, giọng
nói, cử chỉ, điệu bộ. Cuối cùng, ttoi là người chốt lại những vấn đề cơ bản, có
thể định hướng cho học sinh mở rộng hiểu biết về tác giả hơn. Bằng cách làm
14


đó, tôi cũng phần nào rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói thông qua các tiết đọc
văn.
Cũng bằng biện pháp này, tôi còn áp dụng khi dạy bài “Trình bày một vấn
đề”. Tôi chia lớp học thành bốn nhóm, mỗi nhóm 08 học sinh, các nhóm tự chọn
và tìm hiểu một vấn đề khác nhau liên quan đến trò chơi dân gian của của dân
tộc Mường trong ngày hội làng vào dịp đầu xuân (tôi cho các em một tuần
chuẩn bị). Đến giờ học các em trình bày bài do nhóm mình chuẩn bị trong 7
phút. Sau mỗi phần thuyết trình, các nhóm đều lắng nghe những lời góp ý chân
tình cởi mở của giáo viên.
c. Kết quả
Khi tổ chức lớp học thuyết trình theo nhóm, tôi thấy các em cảm thấy vui,
phấn khởi trước những lời góp ý của tôi, từ đó rút kinh nghiệm cho những bài
học sau. Cách làm trên của tôi cũng đã phần nào rèn luyện cho các em kỹ năng
nói trong giờ học Ngữ Văn. Cách làm này còn có thể áp dụng với những tiết đọc
thêm rất hiệu quả.
7. Biện pháp 7: Tổ chức giờ dạy theo mô hình phỏng vấn chuyên gia
a. Cách thức tổ chức thực hiện
Thầy cô giao vấn đề, yêu cầu học sinh chuẩn bị kỹ ở nhà. Giờ học trên
lớp, thầy cô tổ chức thành một diễn đàn đối thoại, cử ra một học sinh làm phóng
viên, thầy cô giáo làm chuyên gia (có thể chọn một học sinh khá giỏi) để phóng

viên phỏng vấn chuyên gia về những vấn đề xoay quanh bài học, tất cả học sinh
còn lại tham gia với tư cách người đối thoại với chuyên gia.
b. Quá trình thực hiện
Tôi đã áp dụng mô hình này khi dạy các bài: “Ca dao hài hước”, “Khái
quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX” (Ngữ Văn 10)… Giờ học
ở lớp, giáo viên tổ chức lớp thành một diễn đàn đối thoại theo kiểu đối thoại với
chuyên gia. Giáo viên (có thể là học sinh khá giỏi) là chuyên gia và tất cả học
sinh là những người đối thoại. Thông qua trao đổi, kiến thức của bài học dần
hiển lộ trong đầu óc của học sinh. Sau khi đối thoại, chuyên gia dành một trò
chơi ở dạng trả lời câu hỏi nhanh, đúng, hay sẽ có thưởng (có thể là trò chơi giải
ô chữ). Với cách làm trên, tôi cũng đã phần nào rèn luyện được kỹ năng nói cho
học sinh qua giờ học.
c. Kết quả
Khi tôi áp dụng mô hình học tập này, trên thực tế, có những học sinh đã tư
duy và đặt câu hỏi hay như:
- Tại sao văn học dân gian lại được gọi là văn học bình dân còn văn học
viết lại được gọi là văn học bác học?
- Tác giả văn học viết Việt nam nào là người chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất
các yếu tố của văn học dân gian?
15


- Ý định dẫn cưới của chàng trai trong bài ca dao hài hước có được coi là
khoác lác không? Vì sao?
- Mối liên hệ giữa cao dao và dân ca là gì? Xin chuyên gia hãy hát một
làn điệ dân ca quan họ Bắc Ninh mà phần lời của nó là cao.
- Tại sao lại đưa các tác phẩm lịch sử như Đại việt sử kí ... vào dạy trong
môn Ngữ Văn..
Từ đó có thể thấy việc áp dụng mô hình dạy học này trong tiết Ngữ Văn
có một ý nghĩa rất lớn, mở ra môi trường học tập cởi mở để học sinh tiếp thu

kiến thức chủ động tích cực, đồng thời giáo viên trực tiếp uốn nắn, rèn luyện kỹ
năng nói cho học sinh hiệu quả. Đây cũng là cách để học sinh có thể thực hiện
tốt bài “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn” ở lớp 11.
IV. Hiệu quả của đề tài
Qua nhiều năm được phân công giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 10 tại
trường THPT Bắc Sơn, với những cố gắng của tôi trong việc rèn luyện kỹ năng
nói cho học sinh qua giờ đọc văn (và một số tiết học khác), bằng những biện
pháp đã nêu trên, tôi nhận thấy đã có những hiệu quả nhất định. Học sinh các
lớp do tôi dạy tham gia phát biểu sôi nổi, có chiều hướng ham thích học môn
Văn hơn, có tinh thần tự giác, ý thức được việc học tập. Những biện pháp tôi
thực hiện đã giúp học sinh mạnh dạn hơn khi nói trước đám đông, những em học
sinh yếu, lười không còn ỷ lại, trông chờ vào những em học khá. Từ em học khá
đến em học yếu đều có thể nói được trước lớp.
Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên, kết quả chất lượng các bài
kiểm tra miệng và kết quả kiểm tra bài viết các lớp tôi dạy dần được nâng cao.
Năm học 2013 - 2014, chất lượng khảo sát đầu năm môn Ngữ Văn ở các
lớp 10a1, 10a6, do tôi giảng dạy có 40% học sinh đạt điểm trung bình trở lên
(không có điểm giỏi 8; 9).
Hết học kỳ I: 50% học sinh nói suôn sẻ, diễn đạt gọn gàng, dễ nghe, trình
bày nội dung tương đối đầy đủ, dẫn tới điểm môn Ngữ Văn đạt 65% trung bình
trở lên (cao hơn so với bài khảo sát chất lượng đầu năm).
Hết học kỳ II: 75% học sinh khi trình bày một vấn đề tương đối gãy gọn,
rất tự tin trước tập thể, mạnh dạn, điểm trung bình môn Ngữ Văn đạt 85% trung
bình trở lên (cao hơn so với học kỳ I).
Năm học 2016-2017, tôi được phân công giảng dạy 2 lớp: 10A1, 10A6
(lớp có điểm thi đầu vào rất thấp). Trong quá trình giảng dạy, tôi đã thực hiện
các biện pháp rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong các giờ đọc văn. Kết quả
là học sinh đã nâng cao được kĩ năng nói, và một số phẩm chất khác, điều đó
được thể hiện qua bản thống kê sau:
16



Lớp
dạy

Sĩ số
( học
sinh)

10 A1

32

10A6

41

Tình trạng đầu
năm

Tình trạng
cuối năm

Kết
quả
khảo
sát chất
lượng
đầu
năm

10 học sinh
30 học sinh 20 học
tự tin trước tập tự tin trước sinh
thể diễn đạt
tập thể, diễn đạt
khá, câu đủ nội đạt lưu loát, điểm từ
dung, đúng
trôi chảy,
5 điểm
ngữ pháp. Còn câu đủ nội
đến 7
lại 22 học sinh dung, đúng điểm
e dè, ấp úng
ngữ pháp.
khi nói, diễn
đạt dài dòng,
câu không rõ
nghĩa, không
theo trình tự
nội dung vấn
đề.
06 học sinh
18 học sinh 12 học
tự tin trước tập tự tin trước sinh
thể, diễn đạt
tập thể, diễn đạt
khá, câu đủ nội đạt lưu loát, điểm từ
dung, đúng
trôi chảy ,
5 điểm

ngữ pháp .
câu đủ nội
đến 6
Còn lại 35 học dung, đúng điểm
sinh e dè, ấp
ngữ pháp.
úng khi nói,
diễn đạt dài
dòng, câu
không rõ
nghĩa, không
theo trình tự
nội dung vấn
đề.

Kết
quả
bài
thi
học
kỳ I

Kết quả bài
thi học kỳ
II

28
học
sinh
từ 5

điểm
đến 8
điểm

32
học
sinh từ 5
điểm đến
8,5 điểm

20
học
sinh
từ 5
điểm
đến 7
điểm

34
học
sinh từ 5
điểm đến
7 điểm

17


Dưới đây là danh sách học sinh được tôi lựa chọn vào đội tuyển học sinh
giỏi:
1. Đào Thị Khánh Linh 10A1

2. Trương Yến Nhi 10A1
3. Lê Thị Hiền 10A1
4. Phạm Thị Hằng 10A1
5. Phạm Văn Linh 10A6
Các em học sinh này tuy mới học lớp 10 nhưng các em đã có kĩ năng nói
tương đối tốt, các em có thể điều hành tốt một diễn đàn, hội thảo nhỏ. Đặc biệt
trong đó có em Đào Thị Khánh Linh đã có thể dẫn chương trình trong các buổi
ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp, văn nghệ ở trường. Kết quả các em đạt
được có phần góp sức của tôi trong quá trình bồi dưỡng kiến thức và rèn luyện
kỹ năng nói cho các em. Bởi khi các em có kỹ năng nói tốt, biết lựa chọn từ ngữ
khi diễn đạt, sẽ bổ trợ có hiệu quả cho quá trình viết của các em.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc làm vô cùng cần thiết, đặc
biệt là trong bối cảnh hiện nay. Theo tôi, để làm tốt việc này cần phải có sự nỗ
lực của cả giáo viên và học sinh:
1. Về phía giáo viên:
Muốn đạt được mục tiêu giáo dục kỹ năng nói cho học sinh qua giờ học
Ngữ Văn giáo viên cần:
- Đầu tư vào các bài giảng, nghiên cứu kỹ các phương án, mô hình học
tập để có thể trực tiếp giáo dục kỹ năng nói cho các em trong mỗi giờ học, mà
vẫn đảm bảo kiến thức trọng tâm.
- Ngay từ đầu xây dựng cho học sinh phương pháp học tập, những quy
định đối với học sinh về viêc học nói chung, môn văn nói riêng.
- Có kế hoạch kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh, dẫn dắt học sinh
thể hiện quan điểm cá nhân của mình bằng ngôn ngữ nói.
- Thường xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa để các em có cơ hội được
nói trước đám đông, rèn cho các em thái độ tự tin, mạnh dạn
2. Về phía học sinh:
- Có đầy đủ sách giáo khoa, vở soạn, vở ghi, tài liệu tham khảo…

- Soạn bài và làm bài tập đầy đủ trước khi lên lớp
- Thường xuyên rèn luyện kĩ năng nói
- Cần phải tự tin, thoải mái khi tham gia thảo luận hoặc nói trước nhóm,
trước lớp.
II. Kiến nghị
18


- Đối với giáo viên các cấp học dưới cần chú ý hơn đến việc giáo dục kỹ
năng nói, phát âm, dùng từ chuẩn cho học sinh.
- Giáo viên dạy Ngữ Văn trung học phổ thông cần có sự đầu tư giảng dạy
trong việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh và phải thực hiện thường xuyên
đồng bộ từ lớp 10 đến lớp 12.
- Đối với các tổ bộ môn, cần tổ chức các hoạt động chuyên môn về việc
rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh, để giáo viên được giao lưu, trao đổi, học
hỏi. Riêng đối với môn Ngữ Văn, cần tổ chức các buổi ngoại khóa để tạo điều
kiện rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh.
- Đối với Đoàn thanh niên, cần tích cực tổ chức hoạt động ngoài giờ lên
lớp dưới hình thức diễn đàn, sân khấu để học sinh có nhiều cơ hội được rèn
luyện kĩ năng nói.
- Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần cung cấp tài liệu, băng hình về
việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong dạy học môn Ngữ Văn; tăng số
tiết rèn luyện kĩ năng nói trong chương trình.
Tóm lại, dạy Văn là một công việc đòi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và
sáng tạo. Do vậy người giáo viên phải có sự tìm tòi, nghiên cứu, vận dụng một
cách linh hoạt các mô hình dạy học. Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua các
giờ đọc văn là một hoạt động mang tính chuyên môn của người giáo viên dạy
Văn. Vấn đề tôi trình bày ở đây chỉ với mong muốn được đóng góp một phần
nhỏ vào công việc giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường THPT nói chung và
trường THPT Bắc Sơn nói riêng. Trong quá trình giảng dạy, tôi sẽ nỗ lực nhiều

hơn nữa để làm tốt nhiệm vụ của người giáo viên dạy Văn.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện nhằm “Rèn
luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 10 thông qua giờ đọc văn ở trường THPT
Bắc Sơn” và thấy có hiệu quả. Tôi mạnh dạn viết thành sáng kiến kinh nghiệm
và đưa ra để đồng nghiệp cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc
chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến
đóng góp của Ban giám hiệu nhà trường, các bạn đồng nghiệp, để tôi tiếp tục bổ
sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay cho bản thân, để
làm tốt hơn nữa trong công tác giảng dạy của mình ở những năm tiếp theo.
Tôi chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

19


Dương Thị Phương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Luật Giáo dục năm 2005
[2]. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
[3]. Nguồn Internet
[4]. Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 10 (Nguyễn Văn Đường - NXB Hà Nội)
[5]. Lý luận Văn học (Phương Lựu - Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam, NXB
Giáo dục)

[6]. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 10 (NXB giáo dục)
[7]. Hỏi - đáp kiến thức Ngữ văn 10 (Lê Huy Bắc - Đỗ Việt Hùng, NXB giáo
dục)

20



×