Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống và hình thành nhân cách cho học sinh thông qua giảng dạy bộ môn hoá học trong trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.81 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Giáo dục KNS và hình thành nhân cách cho học sinh không phải là vấn đề mới
song nội dung nào được đưa vào giáo dục trong nhà trường và giáo dục như thế nào
để mang lại hiệu quả lại đang là vấn đề cần quan tâm.
Mặc dù nhà trường, các đoàn thể trong nhà trường, GVCN, GV bộ các bộ môn
cũng đã có nhiều chương trình như: GDNGLL, lồng ghép tích hợp vào bài giảng để
giáo dục KNS cho học sinh nhưng kết quả cũng chưa cao. Vấn đề làm tôi chăn trở,
nhất là khi chứng kiến những lần đánh nhau của các em với những lí do cực kỳ đơn
giản, cực kỳ trẻ con và có lần nhìn thấy học sinh của mình mới học lớp 11 đã khoác
lên mình chiếc áo cô dâu mà tôi thấy sót xa, rồi đọc đâu đó có những học sinh phải
vào viện vì thiếu hiểu biết về sức khoẻ sinh sản vị thành niên, rồi những hành vi thiếu
tôn trọng người lớn, vô lễ với Thầy Cô giáo, nguyên nhân chỉ là các em thiếu ý thức,
không rèn luyên nhân cách, không có KNS. Còn có những em học sinh học rất tốt, rất
ngoan nhưng kỹ năng sống của các em cũng chưa nhiều bởi các em suốt ngày chỉ biết
học, trên trường hoc, về nhà lại học không giao lưu với xã hội bên ngoài nên vẫn còn
thiếu kỹ năng sống.
Mặt khác kỹ năng sống đã trở thành năng lực tất yếu mà con người sống trong
xã hội hiện đại như ngày nay cần phải có để có thể ứng phó với những thách thức, rủi
ro mà con người gặp phải. Về ý nghĩa của KNS đối với mỗi người, có quan điểm cho
rằng trong xã hội hiện đại tri thức chỉ quyết định 50% thành công, hạnh phúc, còn lại
là phụ thuộc vào con người đó có KNS hay không. KNS không những góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống của cá nhân mà còn giúp giảm thiểu các tệ nạn, các vấn đề
xã hội.
Môn hoá học mà tôi đang giảng dạy là môn khoa học, cứng nhắc không liên
quan gì nhiều đến những vấn đề giáo dục KNS. Từ những lí do trên làm tôi luôn
chăn trở suy nghĩ để làm sao vừa cung cấp đủ kiến thức môn học, vừa tạo hứng thú
trong học tập lại vừa giáo dục KNS, hình thành nhân cách cho các em qua các bài
giảng của mình và rồi tôi đã nghiên cứu nội dung module THPT 35, sáng kiến kinh
nghiệm về đề tài “lồng ghép những kiến thức cơ bản của hóa học hữu cơ để giải thích
hiện tượng và ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày vào bài giảng hóa học hữu cơ”


đã đạt giải khuyến khích năm 2013 và một số tài liệu liên quan khác…Để có thể giáo
dục cho các em một số kỹ năng sống cũng như giáo dục các em hình thành tốt hơn về
nhân cách tôi đã chọn đề tài “Lồng ghép giáo dục Kỹ năng sống và hình thành
nhân cách cho học sinh thông qua giảng dạy bộ môn Hoá học trong trường
THPT”.
1


- Mục đích nghiên cứu.
Mục đích tôi nghiên cứu đề tài này là tôi muốn cho các em thấy việc rèn luyện
KNS có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần rèn luyện, hình thành lối sống có trách
nhiệm và biết lựa chọn cách ứng xử cho phù hợp, thúc đẩy hành vi có tính tích cực,
giảm bớt tỉ lệ phạm pháp. Giáo dục KNS còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mỡ giữa
Thầy và Trò, sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị , thái độ và kĩ năng phù hợp.
Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực;
đồng thời, khắc phục, thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan
hệ các tình huống và hoạt động hằng ngày thành những hành vi tích cực và xây dựng.
Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển
hài hoà về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
- Đối tượng nghiên cứu: giáo dục KNS, hình thành nhân cách cho học sinh
trường THPT Lưu Đình Chất qua các bài giảng hoá học lớp 10, 11, 12 cơ bản và nâng
cao.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận
Muốn giáo dục KNS cho học sinh, phải làm các em hiểu và nắm được KNS là gì?. Có
rất nhiều quan niệm về KNS như:
- Quan niệm của tổ chức văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc
(UNESCO) cho rằng kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục đó là: Học để biết;
Học để tự khẳng định; Học để chung sống với người khác; Học để làm.
- Quan niệm của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Từ góc độ sức khoẻ, WHO
xem kĩ năng sống là những kĩ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an
toàn và khoẻ mạnh. Rộng hơn kĩ năng sống là những năng lực mang tính tâm li xã hội
và kĩ năng về giao tiếp để tương tác hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu
quả có vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày.
- Quan niệm của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), kĩ năng sống là
cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới.
2


Tóm lại KNS là năng lực tâm lí- xã hội của mỗi cá nhân, giúp con người có
khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với nhơngx người khác và với
xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
- Giáo dục đạo đức - vấn đề cốt lõi của việc hình thành nhân cách cho học sinh
phổ thông là cả một quá trình được chuẩn bị đầy đủ về tri thức khoa học và chiến
lược đào tạo từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng.
Không chỉ dừng lại ở bồi dưỡng nhận thức về chuẩn mực đạo đức xã hội mà giáo dục
còn góp phần định hình và phát huy những phẩm chất cần thiết của nhân cách con
người với những hành vi cao đẹp đầy tính nhân văn cùng hệ thống chuẩn mực hành vi
đạo đức: chuẩn mực tri thức và niềm tin; chuẩn mực về tình cảm, thái độ; hình thành
cho học sinh những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và trên cơ sở đó rèn
luyện thói quen đạo đức tích cực.
- Đạo đức là gốc rễ của nhân cách con người. Nếu đức cao sẽ được mọi người
kính nể, trong lòng sẵn có giá trị nhân văn, nhân đạo. Sinh thời Chủ tịc Hồ Chí Minh

luôn coi trọng việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, điều này thể hiện rõ trong câu:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Nửa đêm). Quá
trình hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu
tố: bẩm sinh, di truyền, hoàn cảnh sống, việc giáo dục và tự giáo dục. Quan điểm duy
vật biện chứng khẳng định tính chất quan trọng của của các yếu tố bẩm sinh di truyền
và hoàn cảnh sống với sự hình thành và phát triển tâm lí. Yếu tố bẩm sinh - di truyền
được coi là tiền đề vật chất có ảnh hưởng nhất định đến các yếu tố tâm lí như tính
cách, năng lực, trí nhớ,… Yếu tố môi trường và hoàn cảnh sống có những ảnh hưởng
quan trọng tới việc hình thành nhân cách con người. Theo quan điểm của Người thì
nhân cách được hình thành trong quá trình giáo dục. Chẳng thế mà khi đứa trẻ sinh ra
bị lạc trong rừng sống cùng bầy sói thì nó không thể thành người được. Vậy, môi
trường giáo dục quyết định việc hình thành nhân cách cho học sinh phải đảm bảo
những điều kiện như: chế độ chính sách ưu việt trong giáo dục; việc tích hợp lồng
ghép chương trình đào tạo phù hợp; người thầy là tấm gương sáng về đạo đức và
nhân cách; học sinh thân thiện, chủ động tích cực; cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ
và đáp ứng được nhu cầu học tập trong thời đại mới.
- Giáo dục toàn diện học sinh từ khi trẻ thơ cho đến lúc trưởng thành phải đảm
bảo đạt được (hội tụ trong một con người) những yếu tố: đức (đạo đức, ngoan, lễ
phép, thân thiện, hòa nhã), trí (kiến thức, trí tuệ, sự hiểu biết - thông thái), thể (sức
khỏe, thể dục - thể thao, năng khiếu), mĩ (đẹp trong trang phục, quan niệm về cái đẹp)
và văn (con người hoàn thiện về nhân cách và thể hiện là người có văn hóa). Vì vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có quan điểm biện chứng về tài và đức: “Có tài mà
3


không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Đây là một minh chứng cho việc giáo dục toàn diện con người mới trong thời đại
ngày nay.
2.2. Thực trạng
Trong giai đoạn hiện nay, khi đời sống, kinh tế thị trường có nhiều thay đổi,

thanh niên, học sinh đang trải qua nhiều biến động tích cực lẫn tiêu cực mặt trái của
kinh tế thị trường và sự bùng nổ công nghệ thông tin, với nhiều thông tin thiếu lành
mạnh đang tác động đến đời sống làm cho các em có nhiều biểu hiện nhận thức lệch
lạc và sống xa rời các giá trị đạo đức truyền thống.
Trong một vài năm học gần đây cũng như trong năm học này, bạo lực học
đường ngày càng gia tăng, học sinh (HS) tự tử vì nhiều nguyên nhân. HS không hứng
thú trong học tập, đánh nhau trong nhà trường, bị xâm phạm, bị lợi dụng, ... là do các
em không có khả năng ứng phó với những áp lực căng thẳng trong cuộc sống, không
biết giải quyết xung đột, không tiết chế được cảm xúc bản thân. Theo các chuyên gia
giáo dục (GD), nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống (KNS).
Vấn đề HS thiếu KNS, thiếu tính tự tin, thiếu tự lập, sống thiếu trách nhiệm với
bản thân và gia đình, ích kỉ, vô tâm… đang là những rào cản lớn cho sự phát triển
toàn
diện của thanh thiếu niên khiến nhiều bậc phụ huynh và giáo viên (GV) phiền lòng,
trong khi xã hội thì phát triển ngày càng năng động.
Tình trạng bạo lực học đường ngày một gia tăng thì kỹ năng (KN) tự bảo vệ
mình, KN tiết chế cảm xúc bản thân, KN giải quyết mâu thuẩn là rất cần thiết và phải
được coi trọng để giúp các em HS cảm nhận những điều đang diễn ra trong cuộc sống
hàng ngày thật có ý nghĩa, các em có cảm giác thoải mái, an toàn và vui vẻ.
Hiện nay nhiều HS sống khép kín thu mình lại, thờ ơ lạnh nhạt với những
người sống xung quanh, đắm chìm trong thế giới ảo của game online, của internet,…
mà đánh mất chính mình, không quan hệ bạn bè, không thể hiện được mình, rụt rè khi
đứng trước đám đông, gặp người lớn thì không chào hỏi, thiếu tôn trọng Thầy Cô
giáo, sống thiếu niềm tin và hoài bão.
Mặt khác sự phối hợp của các nghành chức năng còn lỏng lẻo, hầu hết các em
đều ở nông thôn, khoảng 2/3 các em học sinh trong trường chưa được sự quan tâm
chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ phải lo việc kiếm tiền
(làm công ty từ sáng sớm đến tối mới về) không có thời gian quan tâm đến việc học,
sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình như thế nào.
Về phía nhà trường tuy cũng đã có những nội dung giáo dục các em như hoạt

động ngoại khoá, vào các tiết chào cờ nhà trường cũng đã cho các em tạo ra các tình
4


huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày qua các tiểu phẩm các em tự đóng, lồng
ghép giáo dục KNS vào các môn học như: giáo dục công dân, văn học, địa lí, sinh
học…nhưng đang còn một số lượng học sinh vẫn còn thiếu KNS, thiếu tự tin, tự lập,
sống ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, bản thân đang là cản trở lớn cho
sự phát triển của các em, không ít các bậc phụ huynh phiền lòng vì con, khiến nhà
trường phải bận tâm vì những đối tượng học sinh này trong xã hội.
Mặc dù môn hoá học là môn khoa học nghiên cứu rất khó tìm nội dung để lồng
ghép tích hợp vào bài dạy, nhưng trước những thực trạng trên tôi muốn mình sẽ có
cách giáo dục nào đó phù hợp hiệu quả để có thể giáo dục thêm cho các em một số
KNS, bổ sung thêm những kiến thức có liên quan để các em hình thành tốt hơn về
nhân cách của mình và số lượng học sinh thiếu KNS, nhân cách không tốt trong nhà
trường giảm đi vì thế tôi thấy việc viết sáng kiến kinh nghiệm trên là rất cần thiết.
2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề
Trong quá trình giảng dạy ngoài việc dạy cho các em những kiến thức về hoá
học cơ bản trong chương trình học tôi đã cung cấp thêm những kiến thức có liên quan
mà các em có thể từ những kiến thức đó tạo cho mình được những kỹ năng trong
cuộc sống hàng ngày. Mặt khác tôi cũng có thể lồng ghép những nội dung những tình
huống thông qua những đoạn phim ngắn hấp dẫn, gây hứng thú, có tính giáo dục về
KNS cũng như giáo dục đạo đức hình thành nhân cách cho các em.
Dựa vào cách phân loại của UNESCO giáo dục KNS cho học sinh dựa trên 4 trụ
cột – triết lí của giáo dục thế kỹ XXI như:
- Học để biết gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra
quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả…
- Học làm người gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát
cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…
- Học để sống với người khác gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương

lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông.
- Học để làm gồm kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kỹ năng đạt
mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
Tôi đã sử dụng những phương pháp dạy học phù hợp với bài để các em vừa nắm
bắt được kiến thức bài học lại vừa giáo dục được KNS cho các em.
Ngoài ra tôi cũng đã dựa vào các quan niệm về KNS như:
- Quan niệm của Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của liên hợp
quốc(UNESCO).
- Quan niệm của tổ chức y tế thế giới(WHO).
5


Dựa vào những quan niệm này để tôi lựa chọn nội dung kiến thức cũng như những
thước phim để lồng vào bài giảng của mình sao cho phù hợp để không những giáo
dục KNS cho các em mà còn tạo cho các em niềm hăng say hơn trong học tập.
- Giáo viên có thể sử dụng nhiều phương tiện, nhiều cách khác nhau như: bằng
lời giải thích,bằng hình ảnh, đoạn phim….có thể dùng máy chiếu hoặc không dùng
máy chiếu…..tuỳ thuộc vào từng nội dung bài dạy hoặc từng cách thức tổ chức của
giáo viên. Sau đây tôi xin đưa ra một số ví dụ minh họa.
– Ví dụ minh họa:
Ví dụ 1:
Khi giảng dạy bài Photpho (lớp 11)
Phần cuối của bài học tôi dành 5 phút để nói về vai trò sinh học của photpho
- Photpho rất cần cho người và động vật.
- Tại sao gọi photpho là “ nguyên tố của sự sống và tư duy ”.
Vì người lao động trí óc cần photpho nhiều hơn để không bị suy mòn các tế bào
thần kinh giữ chức năng chuyển tải ý nghĩ. Cơ thể thiếu photpho sẽ giảm khả năng
làm việc, loạn thần kinh chức năng và phá huỷ sự trao đổi chất.
- Phải ăn gì để cung cấp đầy đủ lượng photpho cho cơ thể ?.
Ăn các loại rau, quả như xà lách, đỗ, cà rốt, cà chua, cà tím, ớt ngọt, dâu tây,mơ,…sẽ

bổ sung cho cơ thể lượng photpho bị thiếu hụt. Các thực phẩm giàu photpho có
nguồn gốc động vật gồm có thịt, óc, gan bò, cá, trứng, các sản phẩm sữa…
Tác dụng:
Từ những kiến thức này sẽ giúp cho các em kỹ năng biết lựa chon những thực
phẩm tốt để cung cấp cho cơ thể khi mệt mỏi trong các mùa thi…
(Giáo dục KNS về sức khoẻ, dinh dưỡng dựa theo cách phân loại của UNESCO)
Ví dụ 2:

Khi kết thúc bài ankan: Cấu trúc phân tử và tính chất vật lí.
(lớp 11)
GV đưa ra một số câu hỏi:
Câu hỏi 1: Vì sao các tàu trở dầu khi bị tai nạn thường gây ra hảm họa cho một vùng
biển rất rộng ?
Các tàu trở dầu khi bị tai nạn thường gây ra thảm họa cho một vùng biển rất
rộng vì dầu mỏ là hổn hợp của các hidrocacbon không tan trong nước. Nó loang ra
thành từng mảng trên một vùng rộng lớn, thấm qua da và màng tế bào của sinh vật
sống trên biển, gây hủy hoại môi trường biển ảnh hưởng đến môi trường sinh thái
biển.
6


Tác dụng:
Qua câu trả lời này không những giúp các em dễ nhớ bài học hơn mà còn giáo
dục cho các em hiểu biết thêm về chất gây ô nhiễm môi trường từ đó các em biết bảo
vệ môi trường sinh thái biển.
(Giáo dục KNS về bảo vệ thiên nhiên và môi trường dựa theo cách phân loại của
UNESCO)
Câu hỏi 2: Tại sao không dùng nước để dập tắt các đám cháy xăng, dầu mà phải
dùng cát hoặc bình chứa các chất Cacbonic ?
Khi bị cháy do xăng dầu không nên dùng nước để dập tắt các đám cháy. Vì

xăng, dầu vừa nhẹ hơn lại vừa không hòa tan được trong nước, càng làm cho nó
loang ra tiếp xúc với không khí nhiều hơn nên dễ cháy lớn và cháy rộng hơn.
Tác dụng:
+ Các em dùng ngay kiến thức vừa học để trả lời câu hỏi.
+ Các em áp dụng được kiến thức vừa học vào cuộc sống, khi gặp những tình
huống như vậy các em có kỹ năng giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng.
(Giáo dục KNS về học để biết dựa theo cách phân loại của UNESCO)
Ví dụ 3: Khi kết thúc bài dạy dẫn halogen (lớp 11) GV có thể danh 5 phút để nói
về một hiện tượng hóa học có liên quan đến tầng ozon.
Dẫn xuất halogen và lỗ thủng tầng ozon(tư liệu – trang 178 – sgk cơ bản)
Song GV có thể trình chiếu trên máy hình ảnh thủng tầng ozon và những ảnh hưởng
của trái đất khi tầng ozon bị thủng để học sinh quan sát.
Tác dụng:
Từ những tư liệu này các em hiểu biết hơn về những chất gây ô nhiễm môi
trường và rồi hình thành cho mình những kỹ năng bảo vệ môi trường và các em sẽ
biết bảo vệ môi trường là một phần trách nhiệm của các em.
(Giáo dục KNS về bảo vệ thiên nhiên và môi trường dựa theo cách phân loại của
UNESCO)
Ví dụ 4: khi kết thúc bài ancol: Tính chất hóa học, điều chế và ứng dụng ( lớp
11) GV đưa ra câu hỏi:
Rượu giả tại sao gây chết người ?
Khi làm rượu giả, người không pha thêm nước(làm thế rượu sẽ nhạt) mà pha
thêm metanol. Vì metanol là chất độc, chỉ cần một lượng nhỏ vào cơ thể cũng có thể
gây mù lòa , lượng lớn hơn có thể gây tử vong.
7


Hoặc GV cũng có thể trình chiếu tư liệu về etanol: dược phẩm hay thuốc độc
để học sinh tìm hiểu
Tác dụng:

Các em hiểu hơn về những tác hại của chất mà các em thường gặp trong cuộc
sống,giúp các em biết cách tránh xa nó, và các em cũng có thể giải thích cho người
thân hoặc những người xung quanh các em về tác hại của rượu giả.
(Giáo dục KNS về phòng tránh rượu, thuốc lá và ma tuý dựa theo cách phân loại
của UNESCO)
Ví dụ 5:

Khi kết thúc bài Lipit (lớp 12) giáo viên dưa ra câu hỏi:
Tại sao không nên dùng dầu ăn đã dán qua một lần?
Thành phần hóa học của dầu ăn là axit béo của glixerin ở điều kiện nóng đốt sẽ
sinh ra sự biến đổi hóa học, không những phá hỏng giá trị dinh dưỡng của dầu mỡ,
mà còn có hại đối với cơ thể co người, thậm chí còn độc hại nữa.
Theo nghiên cứu ở 200 – 3000C dầu ăn sẽ biến đổi thành những phân tử nhỏ anđêhit
và xeton rất độc .Ngoài ra còn một số chất độc khác nữa.
Tác dụng:
Các em nắm vững kiến thức, hình thành kỹ năng có thể áp dụng ngay vào cuộc
sống của mình, không dùng lại dầu ăn đã dán để bảo đảm an toàn thực phẩm cho gia
đình và mọi người xung quanh.
(Giáo dục KNS về vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khoẻ, dinh dưỡng dựa theo
cách phân loại của UNESCO)
Ví dụ 6:
Khi giảng dạy các giờ bài tập,ôn tập chương, luyện tập ngoài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu, đàm thoại gợi mở tôi còn sử dụng phương pháp hợp tác
theo nhóm.
* Quy trình thực hiện:
Tiến trình dạy học nhóm được chia làm 3 giai đoạn cơ bản:
- Làm việc toàn lớp: Nhập đề và giao nhiệm vụ:
+ Giới thiệu chủ đề
+ Xác định nhiệm vụ các nhóm.
+ Thành lập nhóm.

- Làm việc nhóm:
+ Chuẩn bị chỗ làm việc
+ Lập kế hoạch làm việc
8


+ Thoả thuận quy tắc làm việc
+ Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ
+ Chuẩn bị báo cáo kết quả
- Làm việc toàn lớp: Trình bày kết quả đánh giá:
+ Các nhóm trình bày kết quả
+ Đánh giá kết quả
Tác dụng:
Có thể giáo dục cho học sinh các kĩ năng sống như: hợp tác, tư duy phê phán,
lắng nghe tích cực, trình bày suy nghĩ, ý tưởng, quản lí thời gian, ra quyết định và
giải quyết vấn đề.
Lưu ý:Để phương pháp này có thể phát huy tác dụng giáo dục kĩ năng sống GV cần
phải đảm bảo rằng mỗi thành viên trong nhóm đều có nhiệm vụ riêng, những nhiệm
vụ này nằm trong sự phụ thuộc tích cực lẫn nhau, mỗi cá nhân đều có trách nhiệm
hoàn thành nhiệm vụ của mình, nếu không hoàn thành thì có sự tương trợ, giúp đỡ
của các thành viên khác trong nhóm để đạt được mục tiêu chung của nhóm. GV khi
đánh giá kết quả của từng nhóm cần phải chú ý đến mục tiêu học tập và mục tiêu kĩ
năng hợp tác, lắng nghe và phản hồi tích cực, tư duy phê phán, trình bày suy nghĩ, ý
tưởng, quản lí thời gian, ra quyết định và giải quyết vấn đề…
Ví dụ 7:
Tôi cũng đã sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề trong các tiết dạy các baì lí
thuyết hoá học vô cơ và hoá học hữu cơ.
Qua cách sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề vào bài giảng của mình tôi
làm cho các em hiểu rõ bản chất của phương pháp giải quyết vấn đề là xem xét, phân
tích những vấn đề/ tình huống cụ thể thường gặp phải trong đời sống hằng ngày và

xác định cách giải quyết, xử dụng vấn đề/ tình huống đó một cách có hiệu quả
* Quy trình thực hiện:
- Xác định, nhận dạng vấn đề/ tình huống.
- Thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề/ tình huống đặt ra.
- Liệt kê các cách giải quyết có thể có.
- Phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết(tích cực, hạn chế, cảm xúc,
giá trị).
- So sánh kết quả các cách giải quyết.
- Lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất.
- Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn.
- Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.
9


Tác dụng:
Giáo dục cho HS kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy
phê phán.
Lưu ý: Cần giúp HS sử dụng tư duy phân tích phê phán, sáng tạo để nhận diện, xác
định rõ được vấn đề thì mới có các phương án giải quyết vấn đề trúng. Khuyến khích
HS động não đưa ra các phương án giải quyết đa dạng, tránh bỏ sót. Khi lựa chọn
phương án tối ưu cần khuyến khích HS suy nghĩ đa chiều, phân tích phê phán, chú ý
đến yếu tố giá trị, gắn với bối cảnh cụ thể…thì mới góp phần phát triển kĩ năng sống
của HS..
Ví dụ 8:
Khi giảng dạy bài “Axít sunfuric và muối sunfat (lớp 10) khi cũng cố bài tôi đã sử
dụng sơ đồ tư duy để củng cố phần tính chất hoá học của axits sunfuric .
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là cách dễ nhất để chuyển tải
thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não; là một phương tiện ghi chép
sáng tạo và rất hiệu quả nhằm “ sắp xếp ” ý nghĩ.
Tác dụng: Giúp HS biết hệ thống hoá kiến thức, tìm ra mối liên hệ giữa các kiến

thức; phát triển kĩ năng tư duy logic, tư duy phê phán cho HS.
Ví dụ 9:
Tôi cũng đã sử dụng phương pháp kĩ thuật hỏi và trả lời khi kết thúc các tiết dạy
của mình.
- Kĩ thuật hỏi và trả lời nhằm giúp học sinh củng cố, khắc sâu những kiến thức đã
học thông qua việc đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
- Cách tiến hành:
+ Trước hết GV giới thiệu chủ đề kĩ thiaatj hỏi và trả lời.
+ GV (hoặc một HS) sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi tiếp theo và yêu cầu một HS khác
trả lời câu hỏi đó.
+ HS vừa trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại được đặt thêm một câu hỏi tiếp theo và
yêu cầu một HS khác trả lời.
+ HS này sẽ tiếp tục quá trình trả lời và đặt câu hỏi cho các bạn cùng lớp…
Cứ như vậy cho đến khi GV quyết định dừng hoạt động này lại.
Tác dụng: Rèn luyện kĩ năng đặt câu hỏi; kĩ năng trình bày; diễn đạt; kĩ năng lắng
nghe tích cực, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự tin, kĩ năng tư duy sáng tạo cho HS.

10


Ví dụ 10:
Vào các tiết luyện tập trước bài kiểm tra số 1 của 3 khối 10, 11, 12 như:
- Luyện tập: Cấu tạo vỏ electron của nguyên tử (lớp 10 chương trình chuẩn)
- Luyện tập chương I (lớp 10 chương trình nâng cao)
- Luyện tập: Axít, bazơ- muối (lớp 11 chương trình chuẩn)
- Luyện tập: Phản ứng trao đổi ion trong dung dịch các chất điện li lớp 11 chương
trình nâng cao)
- Luyện tập: cấu tạo và tính chất của cacbohidrat (lớp 12 chương trình chuẩn)
- Luyện tập: Cấu trúc và tính chất của một số cacbohidrat tiêu biểu
Tôi đã dành 5 phút cuối giờ mở cho các em xem một đoạn phim ngắn trong

chương trình quà tặng cuộc sống- trên VTV 3.
- Tiêu đề: cô giáo tôi
- Nội dung:
Trong một lớp học lớp trưởng Minh rất được các bạn nể phục về thành tích học
tập của mình vì lần nào kiểm tra Minh chỉ cần thoắt cái là đã xong bài và đạt điểm
cao. Nên trong giờ kiểm tra địa lí Minh đã chủ quan không thèm làm bài trước, đến
khi còn 20 phút mới vội làm nhưng không ngờ đề cô giáo ra lần này đúng vào bài mà
cậu không đi học nên cậu đã không làm được bài. Tiết kiểm tra đó cô giáo địa lí có
việc nên một giáo viên khác đã vào xem hộ, cô yêu cầu lớp trưởng thu bài tiết sau nạp
cho cô địa lí. Vậy là cậu đem tập bài ra một chỗ khuất trong sân trường rồi tìm tài liệu
chép vào bài thi của mình. Đến tiết trả bài Minh được 9 điểm các bạn trong lớp ai
cũng thán phục, hết giờ các bạn về cô giáo đẫ đề nghị Minh ở lại cô gặp riêng. Cô đã
hỏi điểm 9 có phải thật sự là của Minh làm hay không, Minh không thể trả lời và cô
nói cô đã nhìn thấy Minh chép tài liệu ở phía sau sân trường, rồi Minh đã xin lỗi cô
giáo. Cô giáo đã nói “ điều khiến cô buồn nhất không phải học trò của cô bị điểm
kém mà các em có hành vi gian dối, thiếu trung thực, điểm 9 này cô sẽ giữ nguyên
cho em nhưng cô muốn em nhớ lấy bài học về lòng trung thực ngày hôm nay”.
Tác dụng: Giáo dục các em về tính trung thực, để các em hiểu được trong các
kỳ thi các em nên chọn điểm số hay lòng trung thực, không phải chỉ ở bài kiểm tra
mà trong suốt cuộc đời các em không được đánh mất lòng trung thực.
Ví dụ 11:
Các tiết học khác cũng vậy tôi đều dành 5 phút để trình chiếu cho các em xem
những đoạn phim ngắn mang tính giáo dục, từ những nội dung ý nghĩa của những
đoạn phim đó sẽ giúp cho các em rút ra những bài học sâu sắc cho mình và rèn luyện
11


thêm KNS cũng như hình thành nhân cách của mình. Sau đây là những đoạn phim mà
tôi đã sử dụng để lồng ghép vào bài dạy của mình.
- Đoạn phim thứ nhất: Sống chỉ biết mình (TV Online vtv2- thong- diepcuoc- song)

Nội dung:
Có hai bạn HS cấp 3 hẹn nhau đi chơi cùng bạn bè, Hùng ngồi đợi Mạnh ở
công viên gần nhà mạnh. Trong khi chờ đợi Hùng lấy cam ra ăn và vứt tung toé ngay
chỗ mình ngồi. Khi Mạnh ra có nói Hùng không được vứt rác bừa bãi nơi công cộng
thì Hùng bảo có ném ở ngõ nhà cậu đâu, Mạnh đã phải nhặt toàn bộ vỏ cam đó vứt
vào soạt rác, rồi mới đi. Trên đường đi hai bạn lại gặp một đóng mãnh xứ vỡ ai đó đã
vứt ra ngoài đường, Mạnh cuối xuống nhặt nhưng Hùng đã kéo Mạnh đi vì đó không
liên quan gì đến nhà mình. Đi được một đoạn thì Hùng lại lấy cam ra ăn và vứt luôn
xuống chân mình, một phụ nữ lớn tuổi thấy Hùng thiếu ý thức như vậy liền khiển
trách, Hùng đã không nghe còn nói lại, người phụ nữ bảo sẽ gọi bác tổ trưởng dân
phố thì Hùng lại hống hách lấy điện thoại bảo sẽ tự gọi vì bác ấy là người quen,
nhưng không thấy điện thoại đâu mới nhớ đã để quên ow công viên, nên đã chạy
quay lại để lấy thì thôi rồi đã bị trượt ngã bởi đống mãnh xứ ban nãy. Bác phụ nữ và
Mạnh vội chạy lại, may mà Hùng không sao, lúc này cậu ta mới hiểu ra việc làm của
mình là sai, là thiếu văn hoá. Rồi cậu ta vội xin lỗi bác phụ nữ khi nãy.
Tác dụng: Qua thước phim này các em hiểu được ý thức văn hoá giữ gìn vệ sinh nơi
công cộng, chứ không phải chỉ ở nhà mình.Các em biết giữ vệ sinh môi trường xung
quanh mình.
- Đoạn phim thứ hai: Tình bạn chân chính (TV Online vtv2- thong- diepcuoc- song)
Nội dung:
Có 3 người bạn chơi thân với nhau từ nhỏ, cho đến khi lập gia đình, nhà anh
Hải khá giả nhất, anh Huy suốt ngày sang nhà anh Hải nhâu nhoẹt, có gọi anh Trung
sang nhưng anh Trung đã không ở lại nhậu và đã khuyên bạn không nên nhậu thường
xuyên ảnh hưởng đến sức khoẻ rồi ra về. Anh Huy nói xấu anh Trung, nịnh nọt anh
Hải để vay tiền, anh Hải nghỉ bạn tốt nên không những cho bạn vay tiền mà còn lột cả
đồng hồ, nhẫn, dây chuyền cho bạn vay, vợ anh Hải đứng trong nhà nhìn thấy rất khó
chịu nhưng không biết làm sao. Sáng hôm sau anh Hải vừa về đến nhà Vợ đã thông
báo ngoài đầm Tôm đã chết hết, chủ nợ đang đến đòi tiền, phải bán nhà để trả, đúng
lúc đó anh Huy sang chơi, anh Hải đã hỏi nợ và mượn thêm tiền của anh Huy, nhưng
anh Huy đã từ chối và ra về, anh Trung sang chơi thấy hai vợ chồng anh Hải đang la

12


lối, hỏi ra chuyện, anh Trung nói sẽ cho anh Hải vay số tiền tiết kiệm của mình. Lúc
này vợ anh Hải đã cảm ơn anh Trung và nói thật với chồng mình đã nói dối mọi
chuyện để thử lòng anh Huy.
Tác dụng: Qua đoạn phim này có thể giáo dục cho học sinh kĩ năng quan sát phân
tích, có kĩ năng chọn bạn để chơi.
Ví dụ 12:
GV có thể dành 1 tiết nào đó phù hợp để đưa ra vấn đề này cho học sinh. Có
thể dùng máy chiếu để chiếu những hình ảnh về rác thải hữu cơ và vô cơ để các em
có thể phân biệt được từ đó có thể phân loại rác dễ dàng hơn.
Rác thải hữu cơ là gì ?
Rác thải hữu cơ gồm có 2 loại: rác thải hữu cơ tự nhiên và rác thải hữu cơ nhân tạo
- Rác thải hữu cơ tự nhiên chứa các nguyên tố C, H, O…và có chứa một số
nguyên tố khác như N, S, P…..
Trong cuộc sống rác thải hữu cơ chiếm một tỉ lệ lớn và dễ gây ô nhiễm trở lại cho
cuộc sống nhất. Vậy rác thải hữu cơ có ở đâu ? có trong sinh hoạt của con người hàng
ngày dù ở bất cứ đâu: tại nhà, tại công sở, trên đường đi hay nơi công cộng.
Rác thải tự nhiên là gì ? Đó là các rác thải từ thực phẩm : thức ăn thừa, rau, củ, quả,
hoa, lá cây…..Đây là các loại rác thải dễ phân hủy và có thể đưa vào tái chế để đưa
vào việc chăm bón và làm thức ăn cho động vật.
- Rác thải hữu cơ nhân tạo gồm nhựa PE, PVC ….Đây là loại rác thải khó phân
hủy. Chỉ có những chức năng phù hợp mới tái chế được.
Tác dụng:
Qua đây có thể giáo dục được ý thức, kỹ năng bảo vệ môi trường cho các em.
Các em có thể phân loại được rác để có cách xử lí cho phù hợp để không gây ô
nhiễm môi trường.
Ở trên tôi chỉ giới thiệu một số ví dụ minh hoạ, trên thực tế các đồng nghiệp có
thể lấy những mẫu chuyện khác nhau như giáo dục đạo đức, pháp luật, sức khoẻ, môi

trường, an toàn giao thông, sức khoẻ sinh sản, phòng tránh các tệ nạn xã hội khác có
nội dung giáo dục kỹ năng sống cũng như giáo dục nhân cách cho các em phù hợp
với lứa tuổi của các em đều có trên TV Online vtv2- thong- diep- cuoc- song và TV
Online vtv3- qua- tang- cuoc- song.
2.4. Hiệu quả của đề tài
Trong năm vừa qua tôi đa áp dụng đề tài của mình vào giảng dạy, tôi thấy rằng
những tiết dạy của mình có ý nghĩa hơn, vui hơn, chất lượng hơn khi các em hào
13


hứng để học, bởi vì qua bài dạy, ngoài những kiến thức hoá học các em còn được tìm
hiểu thêm những điều rất thực tế trong cuộc sống, có tính giáo dục, rồi sau mỗi bài
học các em được xem những đoạn phim có tính hài hước vui nhộn mà lại mang nhiều
ý nghĩa về kỹ năng sống cũng như giáo dục đạo đức từ đó các em tự hình thành nhân
cách của mình.
Năm qua nhìn lại tôi thấy các em đã có sự tiến bộ rõ rệt hơn nhiều so với năm
trước như: các em đã biết kìm chế khi xảy ra xung đột với bạn vì thế tình trạng bạo
lực học đường đã giảm, khi tan trường các em không còn dàn hàng ngang, hàng 3,
hàng 4 nữa. Các em đã có mối thân thiện, cởi mở giữa thầy và trò, sự hứng thú tự tin,
chủ động sáng tạo trong học tập, thích nghi với cuộc sống mới. Các em không còn
hành vi vứt rác bừa bãi ra sân trường, đã có ý thức giữ gìn vệ sinh nơi công cộng, bảo
vệ môi trường.
Bảng so sánh số lượng HS trong trường tôi trực tiếp giảng dạy.
Tổng số Số lượng học sinh Tỷ lệ
Số lượng học sinh
Năm học
HS
có KNS
(%)
thiếu KNS

2014-2015
164
85
51,83%
79
2015-2016
155
120
77,4%
35

Năm học
2014-2015
2015-2016

Tổng số Số lượng học sinh Tỷ lệ
HS
có nhân cách tốt
(%)
164
130
79,3%
155
150
96,77%

Số lượng học sinh
nhân cách chưa tốt
34
5


Tỷ lệ
(%)
48,17%
22,58%
Tỷ lệ
(%)
20,73%
3,23%

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận:
Việc lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh qua bộ môn hoá học ở trường phổ
thông là rất khó, kiến thức môn hoá học khô khan, kiến thức chỉ liên quan đến một số
KNS, nhưng khi nghiên cứu đề tài và áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi thấy là mình
đã làm đúng, đã góp một phần nhỏ vào quá trình giáo dục KNS cũng như giáo dục
nhân cách cho các em học sinh trong trường.
Sau khi nghiên cứu đề tài này tôi đã rút ra cho mình một kinh nghiệm: Muốn
thành công thì dù chúng ta đã là GV cũng hãy mãi là sinh viên trường đời để không
ngừng học hỏi. Hãy học để mà dạy lại cho các em và học để cuộc sống của mình
thành công, hạnh phúc hơn. Không ai có thể khẳng định rằng mình có đủ KNS để ứng
14


phó với mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống. Vì vậy chúng ta phải luôn học hỏi,
học hỏi suốt đời để đúc rút được nhiều hơn các kinh nghiệm sống.
- Kiến nghị:
Qua nghiên cứu và áp dụng phương pháp trên cho Trường THPT Lưu Đình
Chất , nơi tôi đang giảng dạy đã có một kết quả nhất định. Nhưng để có phương pháp
giáo dục KNS và hình thành nhân cách cho HS tốt hơn, chất lượng học sinh đạt cao

hơn. Tôi kính mong các đồng nghiệp, hội đồng khoa học Trường THPT Lưu Đình
Chất và Hội đồng khoa học sở giáo dục và đào tạo Tỉnh Thanh Hóa góp ý kiến thêm,
và có nhiều tài liệu liên quan đến đề tài của tôi để tôi được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Nguyễn Thị Bạch

15



×