Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

duy trì chế độ sở hữu toàn dân về đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.16 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Trong suốt thời gian qua, bất chấp mọi cố gắng của các nhà làm luật các vấn
đề liên quan đến sở hữu toàn dân và sở hữu về đất đai vẫn chưa được giải quyết.
Hơn một nửa thế kỉ qua. Việc xây dựng pháp luật ở nước ta đều đã xoay quanh khái
niệm này và trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản nổi bật. Nhóm em xin
chọn đề tài: “trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai mà nhà
nước là đại diện chủ sở hữu là cần thiết và tấtt yếu. Tuy nhiên, pháp luật cần
phải tiếp tục có những chế định mới hoặc sửa đổi, bổ sug các quy định của pháp
luật hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tế chế độ sở hữu này
trong thời gian tới. Bằng kiến thức đã học và tích lũy, anh(chị) hãy làm sáng tỏ
nhận định nêu trên.”

NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận.
1.Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1 Khái niệm
Nền kinh tê thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là người nền kinh tế vận
hành đầy đủ,đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường,đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự tham gia quản lí của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo,nhằm mục
tiêu dân giàu,nước mạnh,dân chủ ,công bằng,văn minh.Là nền kinh tế phát huy đầy
đủ vai trò làm chủ của nhân dân,thực hiệ tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển.
1.2 Đặc trưng


Thứ nhất là nền kinh tế hỗn hợp,nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị
trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Thứ hai là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu .Khu vực kinh tế nhà


nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế.Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Thứ ba là nền kinh tế phát triển nhanh,hiệu quả,bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế.
Thứ tư, việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo
hiệu quả kinh tế,đồng thời theo cả mức đóng góp vốn.
Cuối cùng,các tổ chức chính trị xã hội,tổ chức xã hội nghề nghiệp và nhân
dân được khuyến khích tham gia vào phát triển kinh tế
2. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
2.1. Khái niệm chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là một khái niệm pháp lý gồm tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ sở hữu đất đai trong đó xác nhận,
quy định và bảo vệ quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước trong việc chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt đất đai.
2.2. Sơ lược quá trình phát triển, củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai
Khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai ra đời lần đầu tiên với quy định của
Hiên pháp năm 1980: “Đất đai... là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân”
(Điều 19). Với quy định này, Nhà nước chỉ thừa nhận sự tồn tại một hình thức sở
hữu duy nhất: Sở hữu toàn dân về đất đai. Trong thời kỳ này, pháp luật nghiêm cấm
mọi hành vi mua, bán, lấn chiễm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức. Việc
sử dụng đất đai bị “đóng khung” trong quan hệ giao đất - thu hồi đất giữa người sử
dụng đất với Nhà nước. Người sử dụng đất không được quyền chuyển nhượng đất
đai cho người khác khi không còn nhu cầu sử dụng. Hậu quả là người nông dân


không thiết tha, gắn bó với mảnh đất họ đang sử dụng. Cơ chế giao khoán ruộng
đất cho hộ gia đình sử dụng trong sản xuất nông nghiệp theo Nghị quyết 10/NQTW của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng ngày 05/4/1988 đã từng bước
“cởi trói” và giải phóng năng lực sản xuất cho người nông dân. Cơ chế khoán này
đã đem lại hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt nông

nghiệp ở Việt Nam. Người nông dân phấn khởi, yên tâm gắn bó lâu dài với đất đai.
Tiếp đó, để phát huy mạnh mẽ thành quả mà cơ chế khoán 10 mang lại, Luật
đất đai năm 1993 đã chính thức ghi nhận quyến sử dụng đất ổn định, lâu dài của hộ
gia đình, cá nhân và cho phép họ được chuyển quyền sử dụng đất trong thời hạn sử
dụng. Với những quy định này của Luật đất đai năm 1993, khái niệm sở hữu đất đai
ở nước ta được mang một ý nghĩa mới: đất đai thuộc sở hữu toàn dân; quyền sử
dụng đất thuộc về người sử dụng đất. Việc tách quyền sử dụng đất ra khỏi quyền sở
hữu đất đai đã góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền sở hữu. Trong điều
kiện nền sản xuất hàng hóa phát triển, chủ sở hữu có thể tự mình thực hiện các
quyền năng sở hữu hoặc chuyển giao một số các quyền này cho người khác thực
hiện trên cơ sở quy định của pháp luật và làm tăng tính năng động cho chủ sở hữu
đất đai. Tuy nhiên, để quyền sử dụng đất thật sự trở thành quyền tài sản thuộc sở
hữu tư của người sử dụng đất thì Nhà nước cần xác lập và thực hiện cơ chế bảo
đảm đồng bộ thông qua một số giải pháp cơ bản sau: nhanh chóng thực hiện và giải
quyết dứt điểm việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng
nhằm xác lập về mặt pháp lý quyền sử dụng đất hợp pháp; cải cách mạnh mẽ các
thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất đai góp phần thúc đẩy các giao
dịch về sử dụng đất phát triển; xác lập và quản lý tốt thị trường bất động sản có tổ
chức; đổi mới căn bản các chính sách tài chính về đất đai và chế độ quản lý nhà
nước về đất đai, trong đó tách bạch rạch ròi giữa quyền quản lý hành chính về đất
đai với quyền quản lý các hoạt động kinh doanh về đất đai, pháp luật cần ghi nhận
và bảo hộ quyền sử dụng đất với tư cách là một quyền về tài sản...
Mặc dù quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân song Luật đất đai năm 1993
vẫn chưa xác định rõ vai trò của Nhà nước trong quan hệ sở hữu đất đai mà chỉ quy
định toàn dân là chủ sở hữu đất đai. Hơn nữa, Nhà nước với tư cách là người đại


diện cho toàn dân cũng không được pháp luật xác định rõ có phải là người có
quyền sở hữu đất hay không. Hậu quả là đất đai không được quản lý chặt chẽ, sử
dụng không đúng mục đích, lãng phí, kém hiệu quản; thị trường bất động sản nói

chung và thi trường chuyển quyền sử dụng đất nói riêng vận hành nằm ngoài dự
kiểm soát của Nhà nước... gây ra tác động xấu đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Khắc phục khiếm khuyết này, Luật đất đai 2003 sửa đổi, bổ sung quy định
đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Tuy nhiên, Luật
đất đai năm 2003 cũng mới chỉ đề cập vai trò của Nhà nước thực hiện quyền đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý đất đai. Để hoàn thiện
vai trò đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý về đất đai của Nhà nước trong
thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Cần xác định rõ
cấu trúc của đại diện chủ sở hữu. Cần chế định rõ hơn các quyền hạn, nhiệm vụ của
đại diện chủ sở hữu. Cần phân định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện chức năng đại diện chủ
sở hữu tách biệt với thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai của các cơ
quan nhà nước. Phải pháp luật hóa trong việc quy định vai trò của Nhà nước là
người đại diện chủ sở hữu tối cao và là người thống nhất quản lý toàn bộ đất đai.
Xác định và đề cao vai trò của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân là người sử dụng đất
cụ thể tham gia vài quan hệ sở hữu có nhiều quyền lợi và lợi ích hợp pháp được nhà
nước bảo hộ. Xác định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất trong
nền kinh tế thị trường hiện nay, trong một chỉnh thể thống nhất.
II. Vấn đề củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu.
1. Thực trạng vấn đề đất đai thuộc sở hữu toàn dân trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Mặc dù hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, song cũng không thể thực hiện đa hình thức sở hữu về đất đai.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường dẫn đến nhu cầu tư nhân hóa về quyền
sử dụng một bộ phận đất đai, điều này cũng tác động làm biến dạng chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai. Trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và quá trình phát triển


kinh tế thị trường, chủ thể sở hữu đất đai luôn luôn tách rời khỏi người sử dụng đất.

Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, cố gắng duy trì quyền sở hữu của mình bằng cách
can thiệp vào quá trình sử dụng, định đoạt đất đai. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sự
can thiệp một cách chủ động của Nhà nước đã và đang dần dần bị hạn chế bởi
chính các yếu tố thị trường, từ đó làm phá vỡ các quy hoạch và kế hoạch chủ động
của Nhà nước về đất đai, buộc các cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên
thay đổi các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã ban hành, làm cho chính sách về
đất đai bất ổn, gây khó khăn cho các đối tượng được giao quyền sử dụng đất.
Việc lạm dụng quyền hạn trong quản lý đất đai tại các địa phương thường
xảy ra ở các lĩnh vực quy hoạch sử dụng đất; thu hồi quyền sử dụng đất của người
dân, để xây dựng các dự án công nghiệp và thương mại. Việc nhận thức và vận
dụng không đúng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong thời gian qua đã dẫn đến
sự lãng phí về đất đai, gây thiệt hại cho người sử dụng đất, đồng thời nảy sinh
những tiêu cực, mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực này. Từ đó dẫn đến sự hoài nghi
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, nảy sinh ý kiến đòi hỏi phải thay đổi chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai.
Trong thời gian qua, ở nước ta nảy sinh một số tiêu cực, hạn chế trong quản
lý, sử dụng đất đai, song những hạn chế, tiêu cực đó không phải do bản chất của
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai gây ra. Những hạn chế, tiêu cực đó một mặt, do
sự yếu kém trong quản lý đất đai của Nhà nước ta, chính sách đất đai thay đổi qua
nhiều thời kỳ, đến nay, chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai còn một số nội
dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản
lý đất đai còn không ít hạn chế, yếu kém, một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để trục lợi, tham nhũng; mặt khác, do nước ta trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn
lịch sử khác nhau, đất đai có nguồn gốc rất phức tạp.
Cơ chế, chính sách pháp luật về đất đai không ổn định và quá nhiều mâu
thuẫn, chồng chéo. Chế định sở hữu toàn dân về đất đai chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn đất nước trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể
hiện:Nước ta có hơn 70% là nông dân và nông thôn. Tỷ trọng nông nghiệp chiếm tỷ
lệ khá cao trong nền kinh tế. Nhưng pháp luật đất đai nước ta mấy thập kỷ qua có



rất nhiều biến động dẫn đến khiếu nại, tranh chấp đất đai ngày càng tăng, chiếm
hơn 70% số vụ khiếu kiện, nhiều nơi trở thành điểm nóng. Lẽ ra đất đai và nông
nghiệp phải tạo nên sự phát triển ổn định, bền vững cho đất nước.
2. Sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện sở hữu toàn dân
đối với đất đai ở nước ta.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. Việc xác lập và duy trì chế độ sở hữu toàn dân về đất đai vào thời điểm
hiện tại là cần thiết dựa trên các căn cứ lịch sử, yếu tố khách quan và chủ quan của
nước ta điển hình đó là:
Thứ nhất, xuất phát từ lập trường “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”, thì
nhân dân phải là chủ sở hữu đối với đất đai. Đất đai là thành quả của sự nghiệp giữ
nước và dựng nước lâu dài của cả dân tộc, không thể để cho một số người nào đó
có quyền độc chiếm sở hữu. Đất đai của quốc gia, dân tộc phải thuộc sở hữu chung
của toàn dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc, của
nhân dân.
Thứ hai, sở hữu toàn dân tạo điều kiện để những người lao động có điều kiện
tiếp cận đất đai tự do. Xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng coi trọng lao động, rằng
lao động tạo ra xã hội loài người, tạo ra của cải và tạo ra cuộc sống ngày càng tốt
hơn cho con người theo nghĩa nhân văn. Chính vì thế lao động là vinh quang, ai
không lao động mà sử dụng của cải một cách bất hợp pháp do người khác làm ra là
phi đạo đức.
Thứ ba, sở hữu toàn dân về đất đai ít ra cũng cho ta cơ chế để người lao động
có quyền hưởng lợi ích từ đất đai một cách có lợi hơn, công bằng hơn và bình đẳng
hơn. Bởi vì sở hữu toàn dân là sở hữu chung của người Việt Nam, hiểu theo nghĩa
người Việt Nam là công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.



Thứ tư, sở hữu toàn dân không phải là sở hữu nhà nước về đất đai. Sở hữu
toàn dân về đất đai là sở hữu chung của toàn dân, nhưng có sự phân chia việc thực
hành quyền sở hữu giữa người sử dụng đất và Nhà nước. Bản chất của cơ chế đó là
phân chia một cách hợp lý các quyền của chủ sở hữu đất đai giữa người dân và Nhà
nước, cũng như giữa các cơ quan nhà nước các cấp.
Thứ năm, sở hữu toàn dân về đất đai đem lại nhiều lợi ích phù hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Chế độ sở hữu toàn dân còn đem lại nhiều lợi ích
phù hợp với đặc thù của nước ta. Chế độ sở hữu toàn dân nhấn mạnh quyền của
người dân trong sử dụng quyền của mình để cùng nhau giải quyết các vấn đề bất
đồng trong sử dụng và phân chia lợi ích từ đất. Bởi vì, với chế độ pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, người dân có quyền cùng nhau xây dựng Hiến pháp quy định về
cung cách sống chung và quyền hạn của Nhà nước trong xã hội. Với việc quy định
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiếp pháp, khi đa số công dân bị bất lợi
trong phân chia lợi ích từ đất đai, họ có thể yêu cầu Nhà nước sửa Luật Đất đai
phục vụ mục đích chung của công dân, sửa chữa những mất công bằng trong phân
phối lợi ích từ đất đai do cơ chế thị trường đem lại. Nếu Hiến pháp tuyên bố sở hữu
tư nhân về đất đai thì nhân danh quyền chủ sở hữu, bộ phận nhỏ dân cư sở hữu
nhiều đất đai sẽ không cho phép đa số còn lại thay đổi chế độ phân phối lợi ích từ
đất đai.
Thứ sáu, nếu chúng ta thừa nhận sở hữu tư nhân đất đai và cho phép người
nước ngoài thỏa thuận mua bán đất với tư nhân, thì nguy cơ mất nước từ hệ lụy của
nền kinh tế thị trường sẽ thành hiện thực và thành quả đấu tranh kiên cường để
giành độc lập của dân tộc ta sẽ có nguy cơ bị triệt tiêu bởi thế lực của đồng tiền.
3.Đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường.
3.1. Định hướng của việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều
kiện kinh tế thị trường.
Trên cơ sở phân tích những hạn chế của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai trong thời gian vừa qua và căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính



sách của Đảng và nhà nước trong lĩnh vực đất đai cũng như xuất phát từ những đòi
hỏi của thực tiễn quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta hiện nay, việc đổi mới quan
hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta dựa trên
những định hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cần xác định rõ ràng hơn, cụ thể hơn người chủ sở hữu toàn dân về
đất đai thông qua việc làm rõ vai trò của Nhà nước. Theo đó, Nhà nước là chủ sở
hữu đất đai hay là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai.
Thứ hai, việc củng cố hoàn thiện quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai phải bảo
đảm quyền quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với toàn bộ vốn đất đai
trong phạm vi cả nước.
Thứ ba, mở rộng các quyền của người sử dụng đất nhằm khuyến khích tạo
điều kiện để họ gắn bó chặt chẽ, lâu dài với đất đai; trên cơ sở đó khuyến khích
người sử dụng đất đầu tư bồi bổ, cải tạo để nâng cao hiệu quả sử dụng đất; đồng
thời, tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của họ trong việc bảo vệ đất đai.
Thứ tư, xác lập khung pháp lý đồng bộ nhằm đưa quan hệ đất đai vận động
theo các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Hay nói cách khác, việc
đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai phải hướng tới việc xây dựng và quản
lý tốt thị trường bất động sản có tổ chức ở nước ta.
3.2.Sự lựa chọn phương thức đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà
nước Việt Nam.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ở nước ta xuất hiện nhiều quan
điểm khác nhau về đổi mới quan hệ sở hữu đất đai dựa trên đòi hỏi khách quan của
công tác quản lý, sử dụng đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường đồng thời để
khắc phục tình trạng không xác định cụ thể, rõ ràng người chủ sở hữu đất đai.
Trên cơ sở xem xét, cân nhắc, đánh giá các quan điểm khác nhau về đổi mới
quan hệ sở hữu đất đai dựa trên thực tế sử dụng đất và căn cứ vào chủ trương,
đường lối đổi mới của Đảng trong lĩnh vực đất đai, Nhà nước ta lựa chọn phương
thức đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đai trong điều kiện kinh tế thị trường với
những nội dung cụ thể sau:



Khẳng định nhất quán đất đai thuộc sở hữu toàn dân những xác định rõ hơn
vị trí và vai trò của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu đất đai và thực hiện việc
thống nhất quản lý toàn bộ đất đai;
Phân biệt rõ chức năng quản lý của Nhà nước về đất đai với chức năng quản
lý các hoạt động kinh doanh về đất đai;
Đổi mới các chính sách tài chính về đất đai, Nhà nước thực hiện việc định
giá đất và thực hiện việc điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai không do sự đầu
tư của người sử dụng đất mang lại…;
Phân biệt rõ vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước với
chức năng thống nhất quản lý đất đai của Nhà nước;
Mở rộng các quyền của người sử dụng đất, từng bước tạo điều kiện cho tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia vào thị
trường bất động sản;
Xác lập cơ sở pháp lý cho việc ra đời thị trường quyền sử dụng đất có tổ
chức, thực hiện việc đấu thầu dự án có sử dụng đất và đấu giá quyền sử dụng đất đi
đôi với cảỉ cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính về đất đai theo hướng dân chủ,
bình đẳng, công khai và minh bạch…
3.3.Thể chế hoá việc đổi mới quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong Luật
đất đai 2013.
Như đã đề cập ở trên, một trong những nội dung cơ bản của việc đổi mới
quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta là
việc xác định cụ thể vị trí, vai trò của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai và phương thức thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai của Nhà nước. Vấn đề này được thể chế hoá trong Luật đất đai 2013, cụ thể:
Vai trò của Nhà nước với tư cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai.
Luật đất đai 2013 được ban hành đã có các quy định cụ thể về vai trò của
Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu đất đai. Những quy định này ghóp phần hoàn thiện

chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Cụ thể:


Thứ nhất, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định quan điểm đất đai thuộc sở hữu
toàn dân. Đồng thời bổ sung quy định quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai của Nhà nước với trách nhiệm quản lý đất đai của Nhà nước.
Thứ hai, Không chỉ xác định rõ vai trò của người đại diện chủ sở hữu Luật
đất đai 2013 còn quy định cụ thể cho Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đất đai
thông qua các biện pháp như: i) Quyết định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử
dụng đất; ii) Quyết định mục đích sử dụng đất …
Thứ ba, với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước
quyết định chính sách tài chính về đất đai, cụ thể:
- Quyết định chính sách thu, chi tài chính;
- Nhà nước điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư cua
người sử dụng đất mang lại thông qua chính sách thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê
đất, đầu tư cơ sở hạ tầng và chính sách hỗ trợ cho người có đất thu hồi.
Thứ tư, Luật đất đai 2013 đã phân biệt rõ ràng, rành mạch quyền đại diện chủ
sở hữu đất với trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai được ghi nhận trong Luật
đất đai 2013.
Việc phân biệt rõ quyền đại diện chủ sở hữu đất đai với trách nhiệm của Nhà
nước đối với đất đai có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm tăng cường
trách nhiệm, vai trò của Nhà nước cũng như nâng cao hiệu quả của công tác quản
lý Nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai.
Quy định về việc Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai
Luật đất đai 2013 thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền sử
dụng đất được pháp luật bảo hộ (Khoản 2 Điều 54).
Bên cạnh hình thức giám sát gián tiếp thông qua các cơ quan đại dịên (Quốc
hội, HĐND các cấp) và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Luật

đất đai 2013 bổ sung quy định về quyền giám sát trực tiếp của công dân đối với
việc quản lý, sử dụng đất đai (Điều 199).

KẾT LUẬN


Trước những đòi hỏi của quy luật phát triển khách quan, chúng ta phải không
ngừng củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Đó là yếu tố quyết
định và đặc thù trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
vấn đề có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân ta trong công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa nhà nước xã hội chủ nghĩa do nhân dân lập nên, đại
diện cho nhân dân thực hiện các quyền sở hữu và do chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai tất yếu phải được quy định và bảo vệ trong luật đất đai cũng như các đạo luật và
văn bản khác có liên quan.



×