Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

“Một số giải pháp giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp một’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.76 MB, 28 trang )

1. Cơ sở đề xuất giải pháp
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng
xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống. Kĩ năng sống là một trong những khái niệm
được nhắc đến nhiều trong thời đại ngày nay. Có nhiều quan niệm về kĩ năng
sống. Theo tôi, kĩ năng sống đơn giản là tất cả những điều cần thiết chúng ta
phải biết để có thể thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc
sống. Kĩ năng sống được hình thành theo một quá trình, hình thành một cách tự
nhiên qua những va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục
mà có. Có nhiều nhóm kĩ năng sống như: nhóm kĩ năng nhận thức, nhóm kĩ
năng xã hội và nhóm kĩ năng quản lí bản thân...Dù là kĩ năng nào cũng đều rất
quan trọng và cần thiết với mỗi con người. Cho nên, giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh có một tầm rất quan trọng.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục phổ thông đã và đang
được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh học để biết,
học để làm, học để khẳng định mình và học để cùng chung sống, ngành Giáo
dục và Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn
học ở Tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn, là một trong
những nội dung cơ bản của việc “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”.
Ngày nay, khi mà cuộc sống được cải thiện, nhiều gia đình đã no đủ, thậm
chí giàu có, lại chỉ có 1 đến 2 con thì việc nuông chiều con trở nên khá phổ biến
nhất là các gia đình có điều kiện khá giả, hiếm muộn về đường con cái. Không ít
bậc phụ huynh có suy nghĩ rằng yêu thương con nghĩa là bao bọc chúng, chăm
sóc chúng từng ly từng tí, khoác lên cuộc sống của chúng một màu hồng đẹp đẽ.
Họ nghĩ ngày xưa mình cực khổ nhiều rồi, bây giờ có điều kiện phải để cho con
cái hưởng thụ. Chính vì được chăm sóc quá kĩ, được nuông chiều quá mức mà
2




một số em trở nên ương bướng, nũng nịu, đòi hỏi đủ thứ, không biết làm các
việc để phục vụ mình thậm chí có em cha mẹ còn xách cặp cho lên tận lớp, đút
cơm cho ăn,. .Đó là chưa nói đến việc khi các em gặp khó khăn hay có tình
huống bất ngờ thì công biết xử lí thế nào. Khi không được cha mẹ đáp ứng
những đòi hỏi thì tỏ ra tức giận, hằn học thậm chí tỏ thái độ vô lễ, ...Bên cạnh
đó, tình trạng học sinh vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, không hứng thú học tập
xuất hiện ngày một nhiều. Những năm gần đây, tình trạng trẻ vị thành niên phạm
tội có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, xuất hiện những vụ án giết người, cố ý gây
thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học và
thầy cô giáo của họ. Bên cạnh đó là sự bùng phát hiện tượng học sinh phổ thông
hút thuốc lá, uống rượu, tiêm chích ma tuý, quan hệ tình dục sớm..., thậm chí là
tự sát khi gặp vướng mắc trong cuộc sống hay học tập.
Học sinh sớm có những biểu hiện xấu có thể do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chung quy là do nhận thức,
ý thức và về cơ bản vẫn là do các em thiếu kĩ năng sống. Đây là một vấn đề
được xã hội hiện nay hết sức quan tâm mà đặc biệt là những người làm công tác
giáo dục. Việc giáo dục kĩ năng sống có ý nghĩa rất to lớn, nó góp phần không
nhỏ đến mục tiêu giáo dục toàn diện. Nếu chúng ta làm không tốt ở ngay các lớp
bậc tiểu học thì càng lớn các em càng thiếu hụt kĩ năng sống, đến một lúc nào đó
sẽ dẫn đến hư hỏng, vi phạm pháp luật và sẽ mang lại cho xã hội những nhân tố
tiêu cực, ảnh hưởng đến nền văn hoá, bản sắc dân tộc, chính trị và kinh tế.
Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là đòi hỏi thường xuyên của công tác
giáo dục đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong
công tác giáo dục hiện nay.
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
Ngày nay học sinh rất ít có hoài bão, ước mơ. Phụ huynh vì bận nhiều công
việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các
em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị

cuốn hút theo các trò chơi điện tử chơi game tên điện thoại, (bệnh con nhà có
điều kiện) có gia đình buổi tối mỗi người chơi một điện thoại không ai nói
3


chuyện với ai và hệ thống ảo trên hệ thống Internet. Đây là những trò chơi làm
cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con
người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn
đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi
mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ
thông về toán, khoa học và nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em
hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là
nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên lớp một những suy nghĩ, trăn trở.
Khi bắt đầu tìm hiểu về rèn luyện kĩ năng sống hiệu quả cho học sinh trong
lớp tôi gặp phải một số thách thức sau:
Đó là học sinh vừa rời trường mẫu giáo làm quen với môi trường tiểu học,
mọi sinh hoạt nề nếp đều xa lạ chưa vào một kỉ luật nhất định, các em khá rụt rè
chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em
nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và không nói lời cảm ơn,
xin lỗi với cô, ban bè. Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một
số bố mẹ thì quá nuông chiều, ngược lại một số phụ huynh vì bận nhiều công
việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết. Nhiều em
đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...
Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm, thì việc rèn
kĩ năng sống cho học sinh cũng không kém quan trọng, và bằng nhiều nhiều
hình thức, nhiều con đường trong đó việc rèn kĩ năng sống chiếm một vị trí quan
trọng. Qua việc rèn kĩ năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho trẻ. Đồng thời
nó định hướng cho học sinh tiểu học rèn luyện hành vi và thói quen tốt ứng xử
tốt như phẩm chất, năng lực của học sinh. Trong sự phát triển nhân cách của học
sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ

ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự
ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai
lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc
xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc lí trí
và tình cảm không thống nhất với nhau đó là lời nói không đi đôi với việc làm
4


thì dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách. Với những lý do trên, tôi chọn giải
pháp: “Một số giải pháp giải pháp Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp Một’
1.3. Mục tiêu của giải pháp
Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác
nhau: một là các em được sự quan tâm chăm sóc quá mức chu đáo của phụ
huynh, vì sống trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em
sống trong gia đình với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con
cái.
Môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em
một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kĩ năng sống. Vì vậy, việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học qua học tập – sinh hoạt ở trường
học là điều hết sức cần thiết.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kiến
thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp, trên cơ sở đó hình thành những hành vi,
thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong
các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày, tạo cơ hội thuận lợi để
học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển hài hòa về thể
chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức
Kĩ năng sống không thể được hình thành qua việc nghe giảng mà phải
thông qua các hoạt động tương tác với người khác, khi học sinh được trải
nghiệm qua các tình huống thực tế. Do đó người giáo viên tổ chức các hoạt động
sao cho học sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, biết phân tích ý tưởng

người khác.
Giáo dục kĩ năng sống không hình thành trong “ngày một – ngày hai” mà
phải có cả quá trình nhận thức – hình thành thái độ – thay đổi hành vi. Vì vậy
người giáo viên cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để học
sinh duy trì hành vi mới và có thói quen mới, tạo động lực cho học sinh điều
chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước kia.

5


Trong phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
trong đó nội dung thứ ba trong năm nội dung chính là “Rèn luyện kỹ năng sống
cho học sinh”:
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống,
thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai
nạn giao thông, đuối nước, xâm hại tình dục và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa
bạo lực và các tệ nạn xã hội.”
Dạy kỹ năng sống là một nội dung quan trọng của chương trình học phổ
thông. Từ mầm non, tiểu học tới đại học, để các em biết sống hòa nhập trong xã
hội, biết tự trọng và tôn trọng mọi người, biết cách úng xử và giao tiếp…
Đối với nhà trường, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thành
công hay không, phụ thuộc rất lớn vào tư chất, đạo đức và năng lực của thầy
giáo, cô giáo. Muốn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tốt, trước hết, mỗi thầy
giáo, cô giáo phải giáo dục cho học sinh bằng sự nêu gương. Thầy giáo, cô giáo
phải gương mẫu trong ứng xử, trong giáo dục nhân cách.
1.4. Các căn cứ đề xuất giải pháp
-Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị thái độ và kĩ năng phù hợp,
trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích

cực, loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình
huống và hoạt động hàng ngày.
-Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình
và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
1.4.1. Kĩ năng là gì?
Kĩ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc
nào đó phát sinh trong cuộc sống.
1.4.2. Kĩ năng sống là gì ? Kĩ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả
nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn
6


tại và phát triển của con người. Kĩ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của
cơ thể và tư duy trong não bộ của con người. Kĩ năng sống có thể hình thành
một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người.
1.4.3. Vì sao phải rèn luyện Kĩ năng sống cho học sinh?
Giáo dục kĩ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại,
xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu
cực trên cơ sở giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kĩ năng, giá trị cá nhân thích
hợp với thực tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục kĩ năng sống là làm thay
đổi hành vi của học sinh, chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn
đến hậu quả tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có
hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã
hội bền vững.
Giáo dục kĩ năng sống còn mang ý nghĩa tạo nền tảng tinh thần để học sinh
đối mặt với các vấn đề từ hoàn cảnh, môi trường sống cũng như phương pháp
hiệu quả để giải quyết các vấn đề đó.
Khi tham gia vào bất kì hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống
đều đòi hỏi chúng ta phải thoả mãn những kĩ năng tương ứng.

- Rèn luyện Kĩ năng sống cho học sinh là giúp các em rèn luyện kĩ năng
ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; có thói quen và kĩ năng làm việc theo
nhóm, kĩ năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức
khoẻ, ý thức bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các
tệ nạn xã hội.
- Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kĩ năng cơ bản trong học
tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và
phát triển nhân cách sau này.
1.5. Phương pháp thực hiện
1.5.1. Phân loại kĩ năng sống
Kĩ năng sống được chia thành hai loại: Kĩ năng cơ bản và kĩ năng nâng
cao.
1.5.2. Kĩ năng cơ bản gồm
7


Kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy, nhảy…
1.5.3. Kĩ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kĩ năng cơ bản
dưới một dạng mới hơn. Nó bao gồm: Các kĩ năng tư duy logic, sáng tạo, suy
nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi…
1.5.4. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 1A3 Trường Tiểu học Trường Sơn trong hai năm học 20152016 và học kỳ I năm học 2016 - 2017.
1.5.5. Phạm vi áp dụng
Nghiên cứu những biện pháp liên quan đến việc « Một số giải pháp Rèn kĩ
năng sống cho học sinh lớp Một ».
2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp
2.1. Quá trình hình thành
- Tìm một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh ở trường học
- Điều tra khảo sát thực trạng rèn kỹ năng sống ở trường tiểu học.
- Kết quả và bài học kinh nghiệm trong việc rèn kỹ năng sống.

- Thực trạng hiện nay việc rèn kỹ năng sống cho các em ở trường thấp và
nhiều hạn chế, việc rèn kỹ năng sống cho học sinh chưa có nét chuyễn biến,
nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc
dạy kiến thức, việc rèn kỹ năng sống cho học sinh còn chiếu lệ giáo viên chưa
nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp mình
đang dạy và luôn chú trọng đến việc đọc tốt làm toán tốt…
Về phía học sinh các em hay nói trước quên sau và chưa có khả năng vận
dụng những điều đã áp dụng vào thực tế, với học sinh tiểu học, tâm lý độ tuổi
cho thấy rằng các em rất hiếu động các em có nhu cầu hỏi đáp, không muôn bị
áp đặt song các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo
đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dần dần dẫn
đến thói quen. Nếu nói rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kỹ
năng sống là không đúng, nhưng việc rèn kỹ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất
là việc lồng ghép tất cả các môn học, giáo viên còn mơ hồ về việc rèn kỹ năng

8


sống cho học sinh. Để có những chuyển biến rèn kỹ năng sống cho học sinh, với
cương vị là giáo viên tôi hết sức băn khoăn và trăn trở.
2.2. Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn
- Áp dụng cho học sinh lớp 1.
- Nghiên cứu lý thuyết: Tôi nghiên cứu các tài liệu sau:
+ Nghiên cứu trong việc rèn kĩ năng cho học sinh.
- Đọc các tài liệu giáo dục kĩ năng sống, các môn học ở Tiểu học.
- Thực hành kỹ năng sống cho học sinh lớp 1.
- Sách giáo khoa, giáo viên Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo đức,..
- Một số tài liệu bồi dưỡng cho Giáo viên, Báo giáo dục thời đại,…
- Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân
tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc

sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kĩ năng
sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả
năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
2.3. Nội dung của giải pháp mới
Một số giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp Một. Đây là những
bước chuẩn bị đầu tiên của tôi. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu
quả tôi vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt,
Đạo đức; Tự nhiên và xã hội; An toàn giao thông, tiết Chủ nhiệm, Hoạt động
ngoài giờ….
2.3.1. Giáo dục kĩ năng sống qua môn Tiếng Việt
Trong chương trình lớp một, ở môn Tiếng Việt, tất cả các bài đều có phần
luyện nói theo chủ đề như là: Tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau khôn lớn;
Vâng lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Nghề nghiệp của cha mẹ; Những người bạn
tốt; Sức khỏe là vốn quý nhất hay trong các bài tập đọc ... được lồng cụ thể qua
các tình huống giao tiếp. Tôi chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự
nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt.
Như khi dạy Tiếng Việt chủ đề nói: "Bé Tự giới thiệu"

9


Tôi cho các em đềm số từ 1 đến 6 những em cùng số một nhóm yêu cầu
các em giới thiệu họ và tên, sở thích…
Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu bản thân
là những bài học như khám phá bản thân, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng
làm việc đồng đội. Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới
phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát
huy mình hơn qua việc học nhóm.
Khi dạy phần tập đọc bài Mưu chú Sẻ tôi giáo dục kĩ năng sống cho các
em: Xác định giá trị bản thân, tự tin, kiên định; Ra quyết định, giải quyết vấn đề.

Bài chuyện ở lớp, Người bạn tốt, Hai chị em…rèn cho các em kĩ năng: xác định
giá trị; Tự nhận thức bản thân, tư duy phê phán; kiểm xoát cảm xúc; hợp tác; ra
quyết định, tư duy sáng tạo giao tiếp, ứng xử…
Khi dạy phần kể chuyện tôi xác định các kĩ năng cơ bản cần được giáo
dục: Xác định giá trị bản thân (biết được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân ), tự
tin tự trọng; Ra quyết định, tìm kiếm các lựa chọn, xác định giải pháp phân tích
điểm mạnh, điểm yếu; suy nghĩ sáng tạo, thương lượng, tư duy phê phán, thể
hiện sự tự tin…
Để các em hình thành được các kĩ năng trên tôi lựa chọn các phương pháp,
kĩ thuật dạy học phù hợp với từng bài: Động não, tưởng tượng; Trải nghiệm, đặt
câu hỏi thảo luận nhóm, chia sẻ thông tin, phản hồi tích cực; Đóng vai hóa thân
vào các nhân vật trong truyện.
2.3.2. Giáo dục kĩ năng sống qua môn Tự nhiên và xã hội
Ở bài: "Ăn uống hằng ngày "tôi cho học sinh thảo luận nhóm và lên thực
đơn cho các bữa ăn trong một ngày: Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo
viên. Sau khi học sinh nhận xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến
thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm bảo các chất ...
Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ
của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các
kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia

10


một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia
sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số
chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức,
thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi
nói năng ... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo

nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp
thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân
thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham
gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và
tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, tôi luôn
đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo
sự gần gũi giữa các em với nhau
Ngoài ra tôi chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng
phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học: Ai
cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập
tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt
cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức
khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không
làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị.
Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học. Tôi rèn luyện sức khoẻ cho các em
qua các tiết:
Ở bài: "An toàn khi ở nhà" các em được đóng vai xử lí tình huống khi có
tai nạn khi ở nhà như: Cầm dao nhọn cắt quả bị chảy máu, hay trông em giúp mẹ
nhưng em đến gần bếp lửa... Các nhóm sẽ thảo luận nhóm sau đó lên thể hiện,
những em còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn
mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra.
Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá
cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế tôi tiếp tục :
Các bài: “Vệ sinh thân thể; Hoạt động và nghỉ ngơi; Ôn tập con người và sức
11


khoẻ;

Trời


nắng,

trời

mưa...” tôi tổ chức một số
tiết dạy ngoài sân trường
để các em trải nghiệm
thưc hành đồng thời giáo
dục các em hiểu rằng thân
thể sạch sẽ giúp cho chúng
ta khoẻ mạnh, biết những
việc nên làm và không nên
làm để cơ thể luôn sạch sẽ,
có ý thức tự giác làm vệ
sinh cá nhân hằng ngày, tự
giác thực hiện nếp sống vệ
sinh, khắc phục những
hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách
hợp lí để có sức khoẻ tốt. Có ý thức bảo vệ sức khoẻ khi đi dưới trời nắng, trời
mưa.
2.3.3. Giáo dục kĩ năng sống qua môn Đạo đức
* Bài: “Em là học sinh lớp một” tôi đưa ra nội dung: “Em hãy nói về bản
thân em và làm quen với mọi người”. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, tôi tổ
chức cho các em đứng thành vòng tròn tự giới thiệu về tên và sở thích của từng
em và làm quen với các bạn xung quanh. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin
khi nói về mình nhưng tôi nhắc nhở những điều cần chú ý trong khi giao tiếp,
cộng thêm một môi trường hoà đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không
còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng câu nói
chắc gọn: “Mình tên là gì, mình học ở đâu, mình thích và không thích điều gì...

* Khi dạy bài: "Cảm ơn, xin lỗi " môn Đạo đức: tôi cho học sinh chuẩn bị
những hộp thư: Cảm ơn, xin lỗi và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nhận được
nhiều lời cảm ơn nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy tôi tổ chức cho
các em trao đổi :
12


- Em nói lời cảm ơn, xin lỗi khi nào?
- Bạn đã cảm ơn em về điều gì? Em cảm thấy như thế nào khi được bạn
cảm ơn, xin lỗi?... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong
các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần
gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.
* Bài 2: “Gọn gàng, sạch sẽ” Lớp 1 Sách giáo khoa trang 7. Bài 3 “Giữ
gìn sách vở, đồ dùng học tập” Lớp 1 Sách giáo khoa trang 11. Bài 12 “Cảm ơn
và xin lỗi” Lớp 1 Sách giáo khoa trang 11. Những học sinh chưa biết tự phục vụ
bản thân, chưa có ý thức giữ gìn sách vở, quần áo, còn dựa dẫm vào cha mẹ,
chưa biết xử lí các tình huống bất ngờ. Tôi cho em xem một số đoạn lip, hình
ảnh biết tự phục vụ.

Ở các môn học tôi giáo dục cho
các em kĩ năng tự phục vụ bởi ở gia
đình, các em thường được cha mẹ, người giúp việc làm thay hoặc không có thời
gian gần gũi để hướng dẫn, tôi cho học sinh thấy rằng việc khâu may, nấu
nướng; giặt ủi quần áo, trồng trọt,… hết sức cần thiết cho bản thân các em vì
chẳng những có thể phụ giúp cha mẹ khi bận hoặc bệnh mà còn là hành trang
khi các em bước vào cuộc sống sau này không có cha mẹ ở gần chăm lo.
13



Trong tiết trồng và chăm sóc cây rau, hoa, tôi đã cho các em tham gia trồng
cây vào chậu, lúc đầu các em lóng ngóng có em sợ dơ tay nhưng khi thấy tôi
trồng mẫu thì các em thấy thật dễ dàng và sau khi nghe tôi phân tích cho các em
biết đây mới là trồng vào chậu còn các bác nông dân trồng trên ruộng nước lội bì
bõm thì sao, chưa kể con đỉa hút máu bám vào chân nữa. Lúc ấy các em rất hào
hứng muốn tự tay mình trồng cho được một cây. Sau khi trồng, các em còn phải
chăm sóc sao cho chậu cây của mình lên xanh tốt nữa. Qua các tiết học đó, các
em thấy mình như được lớn lên, biết người trồng cây, rau, hoa phải bỏ ra bao mồ
hôi, công sức để có phục vụ chúng ta hàng ngày. Vì thế các em có ý thức lao
động để tự phục vụ mình và sau đó giúp đỡ cha mẹ, ở lớp các em đã biết giúp cô
tưới cây xanh trong lớp.
Trong những tiết học, tôi thường thay đổi không khí, thay vì nhận xét phê
bình các em như trước đây thì tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi như “Đi
chợ”, “Đầu bếp”, “Người nội trợ tài ba”. . . để các em biết cách đi chợ, nấu ăn,
khâu vá, giặt giũ, . . . rèn kĩ năng tự phục vụ cho các em, các em có cơ hội xử lí
các tình huống trong thực tế.
*. Bài 5: “Lễ phép với anh chị nhường nhịn với em nhỏ”. Lớp 1 Sách
giáo khoa trang 18, Bài 9 Lớp 1 Sách giáo khoa trang 33 “Lễ phép, vâng lời
thầy giáo, cô giáo” Bài 13 “Chào hỏi và tạm biệt” Bài 9 Lớp 1 Sách giáo khoa
trang 48. Những học sinh thiếu lễ phép và tôn trọng đối với thầy cô và người
lớn, gây gổ, đánh nhau với bạn.
Ở môn đạo đức, tôi nâng cao kĩ năng giao tiếp - tự nhận thức, như kính
trọng, biết ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô, thương binh - liệt sĩ, những người lao
động. ..bằng những hành vi, thái độ, việc làm nho nhỏ hằng ngày. Các em biết
quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị, biết giúp đỡ người già, em nhỏ, bạn
bè; biết xác định các giá trị hành vi đạo đức. Tùy từng bài học, mà giáo dục các
kĩ năng phù hợp cho các em và nhất là thái độ tôn trọng đối với thầy, cô, người
lớn tuổi và bạn bè.

14



Trường hợp có học sinh biểu
hiện hành vi đạo đức không tốt,
làm mất trật tự trong giờ học, đánh
nhau, tôi thường khuyên dạy bằng
những câu chuyện thực tế ở đời
giúp các em thấy được những hành
vi xấu, không tốt sẽ dẫn đến những
hậu quả khôn lường ở tương lai.
Trong sinh hoạt hằng ngày,
tôi chú ý giáo dục, tổ chức các tình
huống cho các em biết sử dụng
đúng các quy tắc: chào hỏi, xin
phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu....
Biết cảm thông cảm chia sẻ buồn
vui với mọi người, biết thương cảm, xót xa khi gặp những người hoạn nạn, khó
khăn… Tôi quan tâm như trò chuyện, chỉ bảo, khuyên nhủ tận tình và luôn động
viên khích lệ các em bằng những món quà nhỏ kịp thời khi các em có biểu hiện
tốt cho dù đó là rất
nhỏ.
Tôi tổ chức cho
học sinh chơi xử lý
tình huống và đưa ra
những

trường

hợp


tương tự như lỗi mà
các em hay mắc phải
và cho chính các em
giải quyết với cương vị
là thầy cô giáo, với

15


cương vị là người bị hại, . . .để các em nhận ra khuyết điểm của mình, thấy tác
hại và từ đó sửa chữa.
* Bài 7: “Đi học đều và đúng giờ”. Lớp 1 Sách giáo khoa trang 26.
Những học sinh hứng thú học tập, chưa xác định được động cơ học tập, ngại
tham gia vào các hoạt động tập thể,
chưa mạnh dạn khi nêu ý kiến, chưa
kiên trì trong học tập, chua kiên
định:
Trong quá trình dạy học tôi cố
gắng “thổi” vào bài giảng với tất cả
sự yêu thương, nâng đỡ, dìu dắt các
em, chỉ ra tầm quan trọng của việc
học, cho các em hiểu vì sao phải
học, học để làm gì, tạo hứng thú
trong học tập như thay đổi các hình
thức học tập, thay đổi chỗ ngồi, thay
đổi cách thức tổ chức lớp học nhất là
khi kiểm tra bài cũ thay vì các câu trả lời thuộc vẹt, tôi cho các em chơi trò chơi,
làm bài trắc nghiệm, . . .Có lúc gặp bải khó, các em có ý nản lòng tôi đã lấy một
số câu chuyện về tấm gương đạo đức Bác Hồ ra kể cho các em nghe từ đó giúp
các em xác định mục tiêu học tập, động cơ học tập và có thái độ học tập nghiêm

túc.
Đối với học sinh còn nhút nhát, còn ngại tham gia vào các hoạt động tập
thể tôi đã tổ chức một số tình huống hay một số vở kịch đơn giản và giao vai
diễn cho các em, hướng dẫn các em cặn kẽ để các em có thể thực hiện được. Tổ
chức cho các em hoạt động theo nhóm thường xuyên. Từ đó các em có hứng thú
tham gia vào hoạt động và tự tin hơn thay vì nhút nhát. Trong giờ học thường
xuyên động viên, khuyến khích các em tham gia phát biểu, khen ngợi khi các em
tiến bộ, liên hệ với cha mẹ học sinh cùng xây dựng thời gian biểu để các em

16


thực hiện và quan trọng hơn là sự hướng dẫn, theo dõi sát sao của cha mẹ các
em trong việc học tập,
Còn với các em chưa kiên trì, kiên định, tôi lấy những tấm gương vượt khó
như Nguyễn Ngọc Ký, Nguyễn Thị Thắm… kể cho các em nghe. Tôi còn sưu
tầm một số đoạn phim cho các em xem để từ đó các em có thể hình dung ra
những khó khăn vất vả mà những người không may mắn như bị tật nguyền mà
vẫn vươn lên và thành đạt. Có một số câu chuyện tôi thấy có tác dụng giáo dục
rất lớn như:
Sau đó, tôi giáo dục cho học sinh hiểu: mỗi khó khăn gặp phải sẽ giúp ta
tiến lên, hãy đừng bao giờ bỏ cuộc, hãy kiên nhẫn, cố gắng để thoát khỏi những
khó khăn,…
2.3.4. Giáo dục kĩ năng sống qua Tiết chủ nhiệm
* Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Ngay tuần làm quen tôi nghiên cứu kĩ tài liệu tập huấn cho các em giới
thiệu, làm quen thông qua trò chơi, bầu hội đồng tự quản, đồng thời thường
xuyên củng cố lại. Sau khi tôi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học
sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới
thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở

thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây là hoạt
động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường
học tập thân thiện - Nơi "Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của
các em". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả
năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một
môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của
mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn
hay nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay lãng mạn...Và tiếp tục qua những
tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử
chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
Ngoài ra, vào một số buổi chiều, ngoài giờ học, tôi đã tổ chức cho các em tìm
17


hiểu một số nghề tại địa phương như nghề làm bún, làm gạch, làm muối, . . để
các em thấy sự vất vả của người lao động từ đó biết quý trọng đồng tiền, quý
trọng công sức lao động và thành quả lao động. Tổ chức các hoạt động như đố
vui, rung chuông vàng giúp các em rèn luyện những hành vi có trách nhiệm với
bản thân và cộng đồng; có khả năng bảo vệ, phòng ngừa và giảm thiểu các hành
vi có nguy cơ gây hại cho sức khoẻ sự phát triển thể chất và tinh thần, tìm ra
cách ứng xử phù hợp nhất với các tình huống, từ đó các em có cách thức tích
cực để ứng phó những tác động ảnh hưởng đến cuộc sống như: phòng chống
HIV/AIDS, ma tuý, lạc đường, bị người lạ rủ đi, bị ai đó bắt nạt.
Ngoài ra tôi còn dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy
các em kĩ năng lao động
tự phục vụ, rèn tính tự
lập như:
Biết tự rửa tay sạch
sẽ trước khi ăn, chỉ ăn

uống tại bàn ăn, biết cách
sử dụng những đồ dùng,
vật dụng trong ăn uống
một cách đúng đắn, ăn
uống gọn gàng, không
rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ
không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn
sau khi dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất, không làm ảnh hưởng đến người
xung quanh. Phối hợp chặt chẽ với nhân viên bán trú giáo dục các kĩ năng tự
phục vụ khi ăn, khi ngủ cũng như thay quần áo trước và sau khi ăn bán trú.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc
nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu
quả cao. Tôi thường xuyên nhắc nhở các em thực hiện tốt An toàn giao thông để
các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông,
* Chẳng hạn khi dạy ATGT
18


- Khi đi qua ngã tư có đèn tín hiệu gặp đèn đỏ người và xe phải như
thế nào?
- Khi nào thì người và xe mới được phép đi?
- Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường phố và khi
qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?
- Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào?
- Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dãi phân
cách và chơi gần dãi phân cách không? Vì sao?
- Việc chơi gần đường ray xe lửa có nguy hiểm không? Nguy hiểm
như thế nào?
- Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ
bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?

- Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai
nạn xảy ra?
- Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy
lao ra đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân,
đầu ra ngoài khi đi trên tàu, xe, ghe, đò ...
Tôi phối hợp với Tổng phụ trách dẫn các thực hành đi bộ trên vỉa hè
và hướng dẫn các em đi bộ sang đường an toàn. Như vậy, các em có thể tự
lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp phải.
*Ở các tiết thực hành kĩ năng sống
Tôi nghiên cứu kĩ mục tiêu từng bài gắn liền với chủ đề học tập: Tự
phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề hiệu quả;
Chăm học chăm làm, tích cực tham gia hoạt động xã hội; Tự tin tự trong, tự
chịu trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình bạn bè và
những người khác, yêu rường lớp, quê hương đất nước. Sau khi hình thành
kiến thức cho học sinh tôi tổ chức cho các em thảo luận nhóm để đưa ra
“Những việc em nên làm, Những việc em không nên làm” đồng thời cho
các em tự đánh giá trước khi học bài và sau khi học một bài nào đó. Kết

19


thúc mỗi bài giáo viên kết hợp với phụ huynh nhận xét (một các khách
quan).
2.3.5. Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, giáo dục ngoài giờ
lên lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động các
phong trào: "Nói lời hay làm việc tốt" qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa
về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cám ơn
khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè ... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt
lớp. Tôi học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng

bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với
học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với
những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.Thông qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt
động ngoài giờ, . . . tôi đã kết hợp giáo dục cho các em về những chuẩn mực đạo
đức, về thái độ hành vi ứng xử về quyền của trẻ em,. . .Giáo dục và giúp đỡ các
em thực hiện tốt Năm điều Bác Hồ dạy. Ngoài ra tôi còn phối hợp với các giáo
viên dạy bộ môn, trong trường và tổ chức Đội để nắm bắt những thông tin về
các em trong quá trình giáo dục ở lớp mình để có biện pháp kịp thời.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả tôi còn vận dụng thông qua các hoạt động
ngoài giờ học.

20


Đó là qua các buổi ngoại
khóa của trường, lớp: Nhà
trường tổ chức tuyên truyền,
vận động tham gia qua các mô
hình: diễn tiểu phẩm trong đêm
văn nghệ cho học sinh tham
gia; tuyên truyền bằng hình
thức trực quan sinh động qua
tranh ảnh, sách báo và tổ chức

21


triển lãm ngay tại phòng truyền thống trường. Xây dựng nhiều mô hình thiết
thực và hữu ích như mô hình câu lạc bộ: Vì bạn bè quanh ta, mô hình phòng
chống tệ nạn xã hội, bạn giúp bạn, ... Tất cả đều gắn với nội dung phòng chống

tệ nạn xã hội trong học sinh. Các mô hình này được tuyên truyền đến từng học
sinh giúp các em hiểu rõ về những tác hại và cách phòng chống. Phải phòng
ngừa, ngăn chặn những tệ nạn xã hội trong học sinh là điều ai cũng nhận thấy
được, nhưng vấn đề là ở sự quyết tâm cao, là các biện pháp thiết thực, cụ thể và
hiệu quả từ trong mỗi gia đình, mỗi nhà trường và rộng ra hơn nữa là ý thức
trách nhiệm của toàn xã hội. Gia đình, nhà trường, xã hội hãy cùng nhau góp sức
để các em vững tin hơn trong cuộc sống.
Phong trào chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11
Tôi triển các hội thi do nhà trường tổ chức hướng dẫn học sinh tập luyện:

truyền bóng tiếp sức, vẽ tranh. Kết hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh tổ chức
cho học sinh thi vẽ tranh viết chữ đẹp, gấp quần áo bán trú, chải tóc từ đó hình
thành cho các em kĩ năng hợp tác, tự phục vụ.

22


Không những thế, tôi còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận,
những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự
nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi tôi cùng
các em tham gia những trò chơi dân gian hay cùng chia sẻ với nhau những cuốn
sách hay.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn cố gắng rèn cho học
sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh
trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí
trong mọi trường hợp.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các
em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng tôi luôn Động viên khen
thưởng.
*Phối hợp với phụ huynh:

Trong các buổi họp cha mẹ học sinh, tôi thông tin đến phụ huynh tầm quan
trọng của việc giáo dục kĩ năng sống đối với con em mình để phụ huynh ý thức
được rằng dù trường học có tuyệt vời đến đâu thì chính môi trường gia đình mới
có ảnh hưởng lớn nhất đến sự hình thành tính cách và phát triển của trẻ. Thầy cô
giáo là người truyền cho trẻ những kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội, nhưng
chính cha mẹ mới là người thầy dạy cho trẻ những kĩ năng sống đầu tiên để giao
tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh. Việc giáo dục giá trị sống phải được
định hưởng ngay từ đầu ở môi trường gia đình. Cha mẹ phải là những người
định hướng cho các em giá trị sống tốt đẹp, tạo cho các em nền tảng vững chắc
của một nhân cách phù hợp. Một nền tảng gia đình ấm cúng, dân chủ, đầy không
khí chia sẻ, quan tâm, trong sáng sẽ giúp các em sống tốt hơn. Từ đó, cha mẹ các
em cùng với tôi thực hiện, theo dõi, ủng hộ, động viên các em, tập cho các em
các kĩ năng như đặt mục tiêu từ những việc nhỏ như thói quen dậy sớm tập thể
dục, đi học đúng giờ, phụ mẹ việc nhà, giữ lời hứa với mọi người, . . hay kĩ năng
tự phục vụ.
Tôi giữ mối liên lạc thường xuyên với Cha mẹ các em để thông báo kết quả
rèn luyện của học sinh, có khi gặp trực tiếp phụ huynh để bàn bạc, thống nhất
23


phương pháp giáo dục ở nhà và ở trường cho đồng nhất. Đặc biệt đối với học
sinh thật sự chưa ngoan tôi đã trao đổi thống nhất một số biện pháp như: khuyên
ngăn các em bằng lời lẽ ngọt ngào, phân tích cho các em nhận ra lỗi và giúp em
sửa chữa lỗi lầm. Tìm hiểu nguyên nhân các biểu hiện chưa ngoan và có biện
pháp mềm dẻo hay cứng rắn tùy trường hợp. Cùng cha mẹ các em xây dựng một
thời gian biểu chi tiết cho các em thực hiện và có sự kiểm tra, giám sát. Cương
quyết không cho các em tiếp cận với các sách, truyện, có nội dung bạo lực, thiếu
lành mạnh, không cho chơi games khi không có sự kiểm soát của cha mẹ và
không lấy tiền bạc, trò chơi games, . . . để thưởng các em, lúc đó sẽ làm cho các
em lệ thuộc vào phần thưởng mà trở nên dối trá, thiếu trung thực. Ngoài ra tôi

còn gặp Ban chấp hành CMHS của lớp,
nhờ họ tác động tới một số phụ huynh
quá nuông chiều con em.

Tôi mạnh dạn trao đổi với phụ
huynh không phải yêu thương con
nghĩa là bao bọc chúng, chăm sóc chúng từng ly từng tí, khoác lên cuộc sống
của chúng một màu hồng đẹp đẽ. Đừng nghĩ ngày xưa mình cực khổ nhiều rồi,
bây giờ có điều kiện phải để cho con cái hưởng thụ. Chính vì được chăm sóc quá
kĩ, được nuông chiều quá mức mà một số em trở nên ương bướng, nũng nịu, đòi
hỏi đủ thứ, không biết làm các việc để phục vụ mình thậm chí có em cha mẹ còn
xách cặp cho lên tận lớp, đút cho con ăn ở sân trường. Thương con là dạy bảo
cho các em có một kỹ năng xử lí tốt biết tự bảo vệ mình trong mọi tình huống.
Hãy tạo điều kiện cho con mình được trải nghiệm dưới sự quan sát của các bậc
phụ huynh.
24


Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện
cho các em lớp tôi phụ trách. Trao đổi với Ban đại diện CMHS cùng phối hợp và
dành một khoảng kinh phí riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để
tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện.

Tôi theo dõi hằng ngày các em có biểu hiện tốt tôi ghi vào sổ, trong tiết
sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một
bông hoa điểm thưởng. Mỗi học kỳ tôi tổng kết 1 lần để khen thưởng những em
hoàn thành tốt các môn học và hoạt động giáo dục kiến nghị với ban đại diện
CMHS phát thưởng động viên các em bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui
và hãnh diện khi được tặng những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các em

không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông mà cô giáo
thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các
em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin
hơn trong cuộc sống.
3. Hiệu quả của giải pháp
25


3.1. Thời gian áp dụng giải pháp
+ Thời gian thực hiện từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 12 năm 2017. Xây
dựng kế hoạch thực hiện, áp dụng và rút ra bài học kinh nghiệm.
3.2. Kết quả đạt được
Cụ thể:
- 100% học sinh có thói quen tự phục vụ được rèn luyện kĩ năng tự lập, kĩ
năng nhận thức biết yêu thương bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ
bạn cùng tiến.
- 100% học sinh có thói quen hợp tác.
- 100% học sinh có thói quen tự học, giải quyết vấn đề.
- 100% học sinh có thói quen tự tin.
- 100% học sinh năng động, mạnh dạn tự tin trong học tập.
3.3. Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
Kinh nghiệm về: “ Một số giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp
Một” có thể áp dụng cho tất cả học sinh lớp 1 trong các trường Tiểu học Trường
Sơn.
3.4. Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
Sau khi áp dụng các giải pháp trên vào thực tiễn giảng dạy trong năm học
vừa qua tôi thấy: Học sinh trở nên mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Biết tự phục vụ cho
bản thân và biết giúp đỡ cha mẹ. Các em có kĩ năng ứng xử thân thiện trong mọi
tình huống; có thói quen và kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng hoạt động xã
hội; Có thói quen rèn luyện sức khoẻ, ý thức bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai

nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội.
4. Kết luận và đề xuất, khuyến nghị
4.1. Kết luận
Muốn làm tốt điều đó đòi hỏi giáo viên phải có phẩm chất đạo đức tốt, phải
có lòng nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, phải biết thâm nhập vào tâm hồn trẻ, đồng
cảm với trẻ, làm cho các em cảm nhận được sự tha thiết của người thầy đến sự
tiến bộ của mình, đến những niềm vui nỗi buồn của mình. Do tin thầy, mến cô,
học sinh dễ nghe lời và làm theo lời thầy cô, các em luôn lấy thầy cô làm tấm
26


×