Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số phương pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các thí nghiệm vật lý ở trường THPT hậu lộc i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.52 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 1

---  ---

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG CÁC THÍ NGHIỆM VẬT LÝ
Ở TRƯỜNG THPT HẬU LỘC I

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DŨNG
CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN
SKKN THUỘC MÔN: VẬT LÝ

THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC


I. MỞ ĐẦU……………………………………………………….

Trang 2

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………………

Trang 2

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU……………………………....

Trang 3

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU……………………………..



Trang 3

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………………

Trang 3

II. NỘI DUNG………………………………………… ………..

Trang 3

1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI. …………………………….

Trang 3

2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI. ……………… …………….....

Trang 5

3. GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…….

Trang 6

4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC

Trang 15

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. ……………… ……………...

Trang 16


1. KẾT LUẬN…………………………………………………

Trang 16

2. KIẾN NGHỊ…………………………………………………

Trang 17

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
CÁC THÍ NGHIỆM VẬT LÝ
2


Ở TRƯỜNG THPT HẬU LỘC I
I. MỞ ĐẦU.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Ngày nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật có sự gắn bó chặt chẽ với sự
phát triển của khoa học vật lí. Mỗi bước tiến của nhân loại là minh chứng cho sự
phát triển không ngừng của những thành tựu khoa học kỹ thuật nói chung và
khoa học vật lí nói riêng.
Vật lý là bộ môn khoa học thực nghiệm với phương pháp nghiên cứu đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Mọi kết luận của nó đều rút ra được
nhờ thực tiễn và kiểm chứng bằng quan sát và thí nghiệm. Chính vì vậy trong
các giờ dạy vật lý cần phải có thiết bị dạy học để khơi dậy và phát triển năng lực
tư duy khả năng tự học, hình thành cho các em biết rõ phương pháp học và
nghiên cứu bộ môn.
Đối với tình hình thực tế của việc đổi mới phương pháp dạy học với bộ
môn vật lý: Thiết bị dạy học có khá đủ cho giáo viên và học sinh làm việc,
nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng các thiết bị đó như thế nào cho hiệu quả và làm

thế nào để các em có thể tự tay thực hành thành công các thí nghiệm, từ đó các
em tự tìm ra kiến thức của bài học và áp dụng kiến thức đó vào cuộc sống, đó
chính là vấn đề mà mỗi giáo viên dạy vật lý đều phải quan tâm.
Để giải quyết vấn đề trên, trong giảng dạy đòi hỏi ở giáo viên phải có khả
năng sử dụng tốt các thiết bị dạy học để tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu kiến
thức của bài học một cách tốt nhất.
Có rất nhiều yếu tố để tạo ra một giờ dạy học thực nghiệm hiệu quả nhất:
Chất lượng đồ dùng thiết bị dạy học, các phương tiện hỗ trợ (Máy chiếu dùng
cho các giờ dạy bằng giáo án điện tử), thậm chí cả giáo viên trợ giảng. Nhưng
trong phạm vi bài viết này tôi chỉ muốn đề cập đến các vấn đề như đã nêu ở trên
đó chính là sử dụng các thiết bị thí nghiệm hiện tại sao cho hiệu quả, phù hợp
với điều kiện và trình độ học sinh đại trà hiện nay, đặc biệt là học sinh có năng
lực học tập còn yếu kém.
Thí nghiệm vật lí là một trong những phương pháp dạy học Vật lí ở trường
THPT. Đó là cách thức hoạt động của thầy và trò, giúp cho học sinh tự chiếm
lĩnh kiến thức kĩ năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành. Thí nghiệm
vật lí có tác dụng giúp cho dạy học vật lí tránh được tính chất giáo điều, hình
thức đang phổ biến trong dạy hoc hiện nay. Thí nghiệm vật lí còn giúp cho học
sinh củng cố niềm tin khoa học, nhằm hình thành thế giới quan duy vật biện
chứng cho Học sinh.
Vì những lí do nêu trên, đồng thời để góp phần thúc đẩy việc sử dụng thiết bị thí
nghiệm, các thiết bị hiện đại khác vào dạy học và đổi mới
phương pháp dạy học, tôi chọn vấn đề nghiên cứu:
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÁC THÍ
NGHIỆM VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THPT HẬU LỘC I ”. Với những giải pháp
3


này, đề tài sẽ giúp học sinh có thái độ học tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc
tiếp thu kiến thức của bài học một cách tốt nhất.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Vật lí học là một môn khoa học thực nghiệm, vì vậy, việc sử dụng những thí
nghiệm trong giảng dạy nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh
trong học tập. Tuy nhiên hiện nay, thực trạng sử dụng có hiệu quả các thí nghiệm
vật lí trong các giờ dạy của giáo viên còn hạn chế. Chính vì vậy, có thể dẫn tới
việc học sinh không hứng thú và tích cực, chủ động trong việc tiếp thu kiến
thức. Nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn đề ra một số biện pháp để sử dụng
có hiệu quả các thiết bi thí nghiệm trong dạy học vật lí ở trường THPT nói
chung và THPT Hậu Lộc 1 nói riêng.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Phòng học bộ môn vật lí ở trường THPT Hậu Lộc 1
- Quá trình dạy học vật lí ở trường Trung Học Phổ Thông.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu lí luận: Đọc các sách, tài liệu về những vấn đề liên quan đến
việc giải quyết các nhiệm vụ đã đề ra trong đề tài.
- Nghiên cứu thực tiễn: Điều tra thực trạng phòng học bộ môn và việc sử
dụng thiết bị dạy học môn Vật lí ở các trường THPT Hậu lộc.
- Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Hậu lộc I để đánh giá các giải pháp
đã đề xuất trong đề tài.
II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
PHÂN LOẠI CÁC THÍ NGHIỆM VẬT LÍ
Trong dạy học Vật lí, mỗi thí nghiệm tiến hành trong tiết học đều được quy về
một trong hai dạng thí nghiệm sau:
a. Thí nghiệm biểu diễn:
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do giáo viên trình bày ở trên lớp. Căn cứ vào
mục đích, có thể chia thí nghiệm biểu diễn thành 3 loại:
- Thí nghiệm nêu vấn đề:
Thí nghiệm này nhằm nêu lên vấn đề cần nghiên cứu tạo ra tình huống có vấn
đề làm tăng hiệu quả của dạy học.

- Thí nghiệm giải quyết vấn đề:
4


Thí nghiệm thuộc bài này được thực hiện giải quyết vấn đề đặt ra sau phần nêu
vấn đề. Bao gồm hai loại thí nghiệm:
+ Thí nghiệm khảo sát:
Là thí nghiệm tiến hành nghiên cứu vấn đề đặt ra thông qua đó giáo viên
hướng dẫn học sinh đi đến khái niệm cần thiết.
+ Thí nghiệm kiểm chứng:
Là thí nghiệm dùng để kiểm tra lại những kết luận được suy ra từ lí thuyết.
- Thí nghiệm củng cố:
Thí nghiệm thuộc loại này dùng để củng cố kiến thức đã nghiên cứu bao gồm
cả những thí nghiệm nói lên ứng dụng của kiến thức Vật lí trong đời sống và trong
kỹ thuật.
b. Thí nghiệm thực hành vật lí:
Thí nghiệm thực hành Vật lí là thí nghiệm do tự tay học sinh tiến hành
đưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Phân loại: Với dạng thí nghiệm này có nhiều cách phân loại, tuỳ theo căn cứ để
phân loại:
* Căn cứ vào nội dung: Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại:
- Thí nghiệm thực hành định tính.
Loại thí nghiệm này có ưu điểm nêu bật bản chất của hiện tượng.
- Thí nghiệm thực hành định lượng.
Loại thí nghiệm này có ưu điểm giúp học sinh nắm được quan hệ giữa các đại
lượng vật lí một cách chính xác rõ ràng.
* Căn cứ vào tính chất: Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại:
- Thí nghiệm thực hành khảo sát.
Loại thí nghiệm này học sinh chưa biết kết quả thí nghiệm, phải thông
qua thí nghiệm mới tìm ra được các kết luận cần thiết. Loại thí nghiệm này được

tiến hành trong khi nghiên cứu kiến thức mới.
- Thí nghiệm kiểm nghiệm .
Loại thí nghiệm này được tiến hành kiểm nghiệm lại những kết luận đã được
khẳng định cả về lí thuyết và thực nghiệm nhằm đào sâu vấn đề hơn.
* Căn cứ vào hình thức tổ chức thí nghiệm: Có thể chia thí nghiệm
thực hành thành 3 loại:
- Thí nghiệm thực hành đồng loạt.
5


Loại thí nghiệm này tất cả các nhóm học sinh đều cùng làm một thí
nghiệm, cùng thời gian và cùng một kết quả.
Đây là thí nghiệm được sử dụng nhiều nhất hiện nay vì có nhiều ưu điểm.
Đó là:
Trong khi làm thí nghiệm các nhóm trao đổi giúp đỡ nhau và kết quả
trung bình đáng tin cậy hơn.
Việc chỉ đạo của giáo viên tương đối đơn giản vì mọi việc
uốn nắn hướng dẫn, sai sót, tổng kết thí nghiệm đều được hướng dẫn đến tất cả
học sinh.
Bên cạnh những ưu điểm, còn một số hạn chế:
Do trình độ các nhóm không đồng đều nên có nhóm vội
vàng trong khi thao tác dẫn đến hạn chế kết quả.
Đòi hỏi nhiều bộ thí nghiệm giống nhau gây khó khăn về thiết bị.
- Thí nghiệm thực hành loại phối hợp:
Trong hình thức tổ chức này học sinh được chia thành nhiều nhóm
khác nhau, mỗi nhóm chỉ làm thí nghiệm một phần trong thời gian như nhau,
sau đó phối hợp các kết quả của các nhóm lại sẽ được kết quả cuối cùng.
Ưu điểm của loại thí nghiệm này: Rèn luyện cho học sinh ý thức lao động
tập thể. Kích thích tinh thần thi đua làm việc giữa các nhóm.
Tuy nhiên loại thí nghiệm này có một số hạn chế: Mỗi nhóm không được

rèn luyện đầy đủ các kĩ năng làm toàn diện thí nghiệm. Vì vậy cần khắc phục
bằng cách cho các nhóm luân phiên nhau làm lại thí nghiệm.
- Thí nghiệm thực hành cá thể:
Trong hình thức tổ chức này các nhóm học sinh làm thí nghiệm trong
cùng thời gian hoặc cùng đề tài nhưng dụng cụ và phương pháp khác nhau.
Ưu điểm của loại thí nghiệm này:
nghiệm.

Giảm được khó khăn về bộ thí

- Một số hạn chế của loại thí nghiệm này: Việc hướng dẫn của giáo viên
rất phức tạp. Vì vậy hình thức này đòi hỏi tính tự lực cao nên chỉ thích hợp cho
các lớp trên.
2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI.
Ở trường THPT Hậu Lộc 1 việc sử dụng các bộ thí nghiệm trong dạy học
Vật lí là hoạt động thường xuyên của mỗi giáo viên dạy vật lí. Nhưng để khai
thác tốt và hiệu quả của các bộ thí nghiệm này thì không phải giáo viên nào
cũng làm được. Vẫn còn thực trạng này là do một số nguyên nhân sau:
- Thiết bị thí nghiệm còn thiếu hoặc đã bị hỏng nhưng không được bổ sung.
6


- Đội ngũ giáo viên chưa mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu sử dụng để các thí
nghiệm vật lí, các phương tiện dạy học hiện đại thực sự mang lại hiệu quả. Hay
nói cách khác, một bộ phận đội ngũ giáo viên còn hạn chế trong việc sử dụng
các thiết bị dạy học hiện đại cũng như thao tác thí nghiệm.
- Trong các giờ dạy bài mới, cũng có giáo viên sử dụng thí nghiệm nhưng chỉ
mang tính minh họa. Thí nghiệm chỉ dùng một cách định tính, không đo được
định lượng để xây dựng từng đơn vị kiến thức của bài hoc. Hoặc nhiều dụng cụ
thí nghiệm không còn sử dụng được và giáo viên chỉ giới thiệu cho học sinh là

có dụng cụ như thế và hướng dẫn.
- Giáo viên thường tự làm thí nghiệm theo chủ quan của giáo viên. Học sinh
không được làm thí nghiệm, chỉ là người quan sát và nghe, không được tham gia
được tham gia vào việc giải quyết các vấn đề của bài học để rèn luyện tư duy
logic và óc sáng tạo.
- Học sinh phải viết báo cáo kết quả thực hành trong các tiết thực hành để lấy
điểm 1 tiết nhưng chất lượng bài báo cáo chưa cao vì thí nghiệm chưa được
chính xác.
- Trong vài năm gần đây trong các đề thi của quốc gia có những câu hỏi về thí
nghiệm vật lí nhưng ít học sinh làm được.
Vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả việc sử dụng thiết bị dạy học?
3. GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Trong quá trình giảng dạy tại trường THPT Hậu Lộc 1, tôi đã sử dụng một
số giải pháp sau:
* Giải pháp 1: Giáo viên cần nắm được mục đích việc sử dụng thiết bị dạy học
là gì?
Sử dụng thiết bị dạy học cho thí nghiệm vật lý có hiệu quả chính là việc
làm sống lại trước mắt học sinh các hiện tượng vật lý cần nghiên cứu một cách
sinh động. Từ đó học sinh có hứng thú say mê nghiên cứu khoa học, thích khám
phá tìm tòi để dẫn đến hình thành khái niệm và giúp học sinh lĩnh hội kiến thức
mới sâu sắc hơn, bền vững hơn.
* Giải pháp 2: Yêu cầu về sự chuẩn bị của giáo viên.
- Xác định chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đạt trong bài, từ đó giáo viên
xây dựng mục tiêu cụ thể cần đạt trong tiết dạy là gì?.
- Đọc nội dung bài dạy trong chương trình sách giáo khoa, xác định kiến thức, kĩ
năng cần đạt của từng phần để nắm được mục tiêu của thí nghiệm phần đó là gì,
giáo viên biểu diễn thí nghiệm hay học sinh tự tiến hành thí nghiệm, từ đó kết
hợp với đồng chí phụ trách thiết bị chuẩn bị đầy đủ thiết bị phù hợp cho tiết học.
- Giáo viên phải làm trước các thí nghiệm đó (đây là bước bắt buộc) để xem
mức độ thành công của từng thí nghiệm từ đó điều chỉnh kịp thời (nếu cần) đảm

bảo thí nghiệm phải chắc chắn thành công, có như vậy mới đem lại cho học sinh
niềm tin vào khoa học.
* Giải pháp 3: Giáo viên cần nắm thiết bị dạy học Vật lý THPT chủ yếu dùng
cho hai loại bài đó là: Thiết bị dùng cho bài dạy các thí nghiệm biểu diễn của
giáo viên và thí nghiệm thực hành của học sinh hoặc cả hai.
a. Đối với thí nghiệm biểu diễn:
7


Trước hết giáo viên phải nắm bắt được thí nghiệm biểu diễn gồm:
- Thí nghiệm nêu vấn đề
- Thí nghiệm giải quyết vấn đề
- Thí nghiệm củng cố (kiểm chứng)
Nên trước khi vào bài dạy: Giáo viên cần dùng các thiết bị thí nghiệm đã chuẩn
bị và dựa vào mục tiêu của bài dạy mà đưa ra thí nghiệm nêu vấn đề để gây
hứng thú học tập cho học sinh cả lớp. Sau đây là một ví dụ:
Với bài "Sự khúc xạ ánh sáng" ở lớp 11 giáo viên có thể làm thí nghiệm nêu
vấn đề như sau: Một chiếc đũa đặt trong bình không có nước:
- Đặt mắt nhìn dọc theo chiếc đũa từ đầu trên xem có nhìn thấy đầu dưới của đũa
không ?
(Học sinh: Phát hiện được, ta không nhìn thấy đầu dưới của chiếc đũa).
- Giữ nguyên vị trí đặt mắt, đổ nước vào bình, liệu có nhìn thấy đầu dưới của
đũa hay không?
(Học sinh: Phát hiện được, bây giờ ta nhìn thấy đầu dưới của chiếc đũa).

Giáo viên: Vậy để giải thích được hiện tượng trên ta cùng nghiên cứu bài học
hôm nay...
8



Nhìn chung với tất cả các thí nghiệm: Đặt vấn đề, thí nghiệm kiểm chứng,
thí nghiệm chứng minh. để tiến hành thí nghiệm đạt được hiệu quả cao giáo viên
phải tiến hành theo những bước sau:
Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.
Chú ý: Mỗi nhóm nên có đủ cả ba đối tượng học sinh và số thành viên trong
các nhóm không được quá nhiều nhằm tạo điều kiện cho các em có thời gian
tranh luận với nhau về kết quả thí nghiệm.
Bước 2: Xác định mục tiêu của thí nghiệm
- Với các thí nghiệm đơn giản giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa
sau đó các em thảo luận và nêu ra mục tiêu của thí nghiệm đó xong giáo viên
nhấn mạnh lại.
- Nếu các thí nghiệm khó và phức tạp thì giáo viên nên chia thành nhiều bước
nhỏ và nêu mục tiêu của từng bước trong thí nghiệm.
Lưu ý: Giáo viên cần phải xác định đúng và đủ mục tiêu của thí nghiệm vì
nó có liên quan trực tiếp đến nội dung của bài học.
Bước 3: Giới thiệu dụng cụ và cách tiến hành thí nghiệm:
+ Phần giới thiệu dụng cụ thí nghiệm:
Yêu cầu giáo viên cần giới thiệu đầy đủ thông tin về các dụng cụ có trong thí
nghiệm. Cụ thể là: Tên gọi, đặc điểm mềm, dẻo, đàn hồi, chịu nhiệt, chịu lực...
nhằm giúp các em hiểu được tác dụng của mỗi đồ dùng và sử dụng các thiết bị
trên được hiệu quả và an toàn.
Ví dụ như: Với các cốc đốt thì trước hết phải hướng dẫn các em là trước khi
đốt cần phải hơ lửa xung quanh để tránh vỡ, hoặc với các đồng hồ đo điện đa
năng thì cần phải chỉnh sao cho đúng thang đo.

+ Đối với phần cách tiến hành thí nghiệm: Giáo viên phải nêu rõ từng bước của
thí nghiệm để học sinh tiện quan sát và thực hành, nhưng đôi khi với một số thí
nghiệm đơn giản thì có thể cho học sinh đọc cách tiến hành thí nghiệm trong
sách giáo khoa sau đó thảo luận nêu lên cách tiến hành thí nghiệm. Cuối cùng
giáo viên nhấn mạnh cách tiến hành thí nghiệm trước khi cho học sinh thực

hành.
Bước 4: Cách bố trí thí nghiệm:
- Nếu các thiết bị của thí nghiệm của trường mà phù hợp với thiết bị nêu ra trong
sách giáo khoa thì giáo viên có thể tiến hành theo phương án của sách giáo khoa.
- Nếu các thiết bị trong phòng thí nghiệm không có hoặc còn thiếu so với các đồ
dùng bố trí ở sách giáo khoa thì giáo viên tìm cách thay thế các đồ dùng khác
9


như chúng ta có thể lợi dụng các thiết bị của môn công nghệ (ở phần điện) để
phục vụ môn Vật lý.
Ví dụ: Máy biến thế xoay chiều, các loại bóng đèn...có như thế mới thực hiện
tốt mục tiêu bài học.

Bước 5: Tiến hành thí nghiệm.
- Trước khi bắt tay vào làm thí nghiệm giáo viên phát cho các nhóm phiếu học
tập để các em ghi lại các hiện tượng, số liệu, kết quả mà các em quan sát được
qua thí nghiệm đó nhằm giúp cho quá trình thảo luận nhóm và từ đó xử lý kết
quả thí nghiệm được tốt hơn.
- Giáo viên thao tác khi tiến hành thí nghiệm phải thật rõ ràng, không lúng túng
để hoc sinh tiện theo dõi.
- Để đạt được hiệu quả cao, trong khi tiến hành thí nghiệm giáo viên có thể đặt
các câu hỏi khắc sâu về các tình huống trong thí nghiệm nhằm tạo cho học sinh
những tình huống có vấn đề để các em cùng suy nghĩ tháo gỡ từ đó các em hiểu
sâu hơn về thí nghiệm đang làm.
Ví dụ: Ở bài : "LỰC MA SÁT" ở lớp 10
.

123456


A

Giáo viên sau khi làm xong thí nghiệm thì có thể đặt câu hỏi như sau: Tại sao
phải kéo khúc gỗ chuyển động gần như thẳng đều ? Liệu có thể kéo vật chuyển
động nhanh chậm tùy ý được hay không?
- Tùy theo từng bài mà giáo viên có thể nêu thêm thí nghiệm thay thế hoặc cho
học sinh tự nghĩ ra thí nghiệm thay thế khác để cho bài học phong phú đa dạng
nhằm phát triển được vốn hiểu biết của học sinh. Nhưng các thí nghiệm thay thế
đó đòi hỏi phải đảm bảo đúng và chính xác mục tiêu của thí nghiệm.
Ví dụ: với bài "Quá trình đẳng tích – định luật Saclo" ở lớp 10.

10


Có thể làm thí nghiệm dùng bình nước nóng và bình nước đó làm thay đổi nhiệt
độ của khí trong xilanh, thay bằng dùng bình điện như trong sách giáo khoa.
Càng tạo ra được nhiều các thí nghiệm thay thế tốt thì càng làm cho giờ học sôi
động và phát triển được óc tưởng tượng và tư duy cho học sinh.
- Với các thí nghiệm thay thế giáo viên có thể hỏi học sinh tại sao thí nghiệm
này có thể thay thế được? Nhằm khắc sâu hơn cho các em về tính chặt chẽ, đúng
đắn của thí nghiệm thay thế đó.
- Nếu cần thì trên các dụng cụ phải có các vật chỉ thị để làm nổi bật lên các bộ
phận đặc biệt cần quan sát hoặc dùng các vật, chất khác hỗ trợ cho vấn đề cần
nghiên cứu.
Ví dụ: Ở thí nghiệm quan sát các tia sáng truyền qua thấu kính hội tụ và
thấu kính phân kì để quan sát rõ hơn các tia sáng thì giáo viên có thể cho
thêm ít khói hương vào sẽ có kết quả tốt hơn...

+ Chỉ bày ra trước mắt học sinh những dụng cụ cần thiết để minh họa hoặc làm
thí nghiệm, không được bày la liệt trước mắt học sinh những dụng cụ đã dùng

xong hoặc chưa dùng tới nhằm tránh trường hợp học sinh không tập chung vào
thí nghiệm của giáo viên.
+ Các thiết bị dùng để tiến hành trong bài yêu cầu cần phải được kiểm tra và làm
trước để đảm bảo giờ thực hành thành công và gây được niềm tin vào khoa học
ở học sinh.
11


+ Khi các thí nghiệm xảy ra nhanh giáo viên cần lặp lại thí nghiệm để học sinh
có thể theo dõi được.
Bước 6: Xử lý các hiện tượng và kết quả thí nghiệm.
Sau khi tiến hành thí nghiệm xong giáo viên treo bảng phụ để cho các nhóm lần
lượt báo cáo hiện tượng hoặc kết quả thí nghiệm mà học sinh thu thập được qua
thí nghiệm của giáo viên. Sau đó dựa vào bảng kết quả của giáo viên, giáo viên
hướng dẫn học sinh phân tích kết quả thí nghiệm và rút ra kết luận.
Chú ý: Trong phần này nếu kết quả thí nghiệm có sự sai số nhỏ thì giáo viên
phải giải thích thật rõ cho các em để gây được niềm tin của học sinh vào thí
nghiệm .
Có thể đưa ra một số gợi ý về việc giải thích kết quả thí nghiệm có sự sai số
trong thí nghiệm biểu diễn của giáo viên cho học sinh như sau:
-Thứ nhất giáo viên phải nắm chắc bản chất của hiện tượng trong thí nghiệm để
dựa vào đó mà giải thích vấn đề
- Thứ hai có thể giải thích kết quả thí nghiệm có sai số là do cách đặt mắt quan
sát đọc kết quả và các thiết bị đo chỉ mang tính chất tương đối đó cũng là
nguyên nhân thường hay gặp ở các thí nghiệm.
Ví dụ: ở chương quang học phần đo độ lớn các góc tới, góc khúc xạ hoặc
phần nhiệt học chúng ta rất hay gặp hiện tượng sai số như nguyên nhân đã
nêu.

- Thứ ba: Có thể là do các thiết bị thí nghiệm lâu không dùng đến dẫn đến

các tính chất lý, hóa của nó bị ảnh hưởng.
Ví dụ như: Các điện trở nếu lâu không sử dụng đến thì giá trị của nó không
còn đúng giá trị đã ghi trên nhãn mác nữa. Hoặc các vôn kế, ampe kế nếu lâu
không dùng đến kết quả đo cũng không còn chính xác do ảnh hưởng của môi
trường bên ngoài dẫn đến điện trở của chúng bị thay đổi.

12


Bước 7: Kết luận.
Giáo viên gọi 2 đến 3 học sinh đọc lại nội dung kết luận vừa tìm ra ở trên. Giáo
viên nhấn mạnh lại kết luận đó và có thể cho học sinh liên hệ thực tế các vấn đề
có liên quan đến thí nghiệm vừa là để khắc sâu kết luận mới tìm được, vừa là
làm cho bài dạy thêm sinh động.
b) Đối với thí nghiệm thực hành của học sinh:

Bộ thí nghiệm đo hệ số căng bề mặt Bộ thí nghiệm khảo sát sự rơi tự do
Để dạy tốt được loại bài này thì trước hết giáo viên phải hiểu được thế nào
là thí nghiệm thực hành của học sinh, cách tổ chức như thế nào và tác dụng của
nó ra sao?
- Thí nghiệm thực hành: Là thí nghiệm do học sinh tiến hành dưới sự chỉ dẫn
của giáo viên để từ đó các em tự khám phá kiến thức của bài và nắm bắt kiến
thức bài đó.
- Thí nghiệm thực hành có tác dụng: Giúp học sinh nắm vững hơn nội dung bài
học vì học sinh được tự tay gây ra hiện tượng vật lý, đo lường các đại lượng, tìm
ra quy luật, hiện tượng hoặc kiểm tra lại định luật, hiện tượng, do đó học sinh sẽ
chú ý hơn, tin tưởng hơn và hiểu vấn đề một cách cụ thể và sâu sắc hơn.
- Thí nghiệm thực hành rèn luyện cho học sinh kỹ năng, kỹ xảo sử dụng những
dụng cụ đo lường cơ bản như thước, cân, lực kế, ampe kế, vôn kế... do đó có tác
dụng rất lớn trong việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp đối với học sinh.

- Thí nghiệm thực hành tạo điều kiện cho học sinh tự lực quan sát, phân tích,
phán đoán để đi đến kết luận, do đó có tác dụng lớn trong việc phát triển năng
lực tư duy của học sinh và giúp các em làm quen với phương pháp nghiên cứu
khoa học vật lý.
13


- Thí nghiệm thực hành còn kích thích ở học sinh óc tò mò khoa học, lòng ham
muốn học vật lý, lòng ham muốn vận dụng kiến thức vật lý vào đời sống và rèn
luyện cho học sinh ý thức tổ chức, ý thức làm việc có kế hoạch, ý thức bảo vệ
của công.
Vì thí nghiệm thực hành có tác dụng rất lớn như đã phân tích ở trên nên với
giáo viên dạy vật lý để tổ chức thành công được loại bài này thông qua các thiết
bị dạy học thì cần phải thực hiện các công việc sau:
- Việc chuẩn bị cho bài dạy: Trước hết giáo viên phải đọc trước nội dung bài dạy
xác định được đúng và đủ mục tiêu của bài học. Từ đó kết hợp với đồng chí phụ
trách thiết bị lập ra kế hoạch về số lượng các thiết bị để dùng cho bài học được
tốt và cũng như các thí nghiệm biểu diễn của giáo viên thì với thí nghiệm thực
hành, giáo viên cũng phải tiến hành trước tất cả các thí nghiệm để kiểm tra khả
năng thành công của các thí nghiệm đó nhằm gây được niềm tin vào thí nghiệm
cho các em.
- Đặc biệt với loại bài này giáo viên cần dùng bảng phụ và phiếu học tập để cho
các em thảo luận nhận xét và báo cáo kết quả của nhóm mình.
- Với những thí nghiệm nào phức tạp, khó thì giáo viên kết hợp với đồng chí phụ
trách thiết bị sẽ bố trí trước cho các nhóm, còn những thí nghiệm nào đơn giản
thì có thể cho học sinh tự bố trí thí nghiệm và giáo viên đi kiểm tra uốn nắn kịp
thời nếu cần.
- Những thí nghiệm khó và có thể gây nguy hiểm mà giáo viên cần bố trí trước
cho các em đó là các thí nghiệm có liên quan đến các chất gây bỏng (ví dụ nước
nóng phần nhiệt học) hoặc các thí nghiệm có sử dụng tia laze (như phần quang

học) cũng như các thí nghiệm có sử dụng đến dòng điện xoay chiều 220v...có
như vậy thì mới đảm bảo giờ học đạt hiệu quả cao và an toàn. Trong phần này
cũng đặc biệt chú ý giáo viên cũng cần có một bộ thí nghiệm của riêng mình để
có thể làm mẫu các thí nghiệm khi học sinh bắt gặp khó khăn.
Sau khi làm xong công tác chuẩn bị thì giáo viên tiến hành các bước dạy như
sau:
Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng thành viên trong
nhóm, chú ý số em trong một nhóm không quá đông để đảm bảo đủ thời gian
cho tất cả các thành viên đều được tiến hành thí nghiệm.
- Các nhóm nên có cả ba đối tượng học sinh để các em giúp đỡ lẫn nhau trong
quá trình tiến hành thí nghiệm, thảo luận đưa ra nhận xét.
Bước 2: Cho học sinh cả lớp tự đọc hướng dẫn thí nghiệm trong sách giáo
khoa nhằm giúp các em nắm bắt được phần nào mục đích của thí nghiệm, cách
tiến hành thí nghiệm. Trong phần này giáo viên có thể phát phiếu học tập cho
các nhóm để các em nêu dự đoán về mục đích của thí nghiệm hoặc dự đoán các
hiện tượng có thể xảy ra khi tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn của sách giáo
khoa. Nhằm tạo cho các em có cảm giác, hứng thú muốn tiến hành các thí
nghiệm đó ngay để kiểm tra nhận xét lý thú trên.
Bước 3: Giáo viên nêu mục đích của thí nghiệm cho học sinh nắm chắc
để tiến hành thí nghiệm theo đúng yêu cầu của bài học. Với các thí nghiệm dễ có
thể cho học sinh thảo luận nêu ra mục đích thí nghiệm sau đó giáo viên chốt lại.
14


Bước 4: Giới thiệu dụng cụ và cách bố trí thí nghiệm.
- Với dụng cụ thí nghiệm thì giáo viên cũng cần nêu rõ như phần dụng cụ ở thí
nghiệm biểu diễn của giáo viên như đã phân tích.
- Cách bố trí thí nghiệm có thể tiến hành như phần chuẩn bị nêu trên.
Bước 5: Tiến hành thí nghiệm.
- Nếu thí nghiệm nào khó thì giáo viên có thể làm thao tác trước cho các nhóm

theo dõi.
- Cho các nhóm làm thí nghiệm theo kế hoạch đã vạch, các nhóm ghi nhanh
những số liệu, hiện tượng quan sát vào một bảng thống kê (mẫu báo cáo thí
nghiệm).
- Khi tiến hành thí nghiệm giáo viên cần theo dõi uốn nắn sai sót (nếu có) cho
các em và đảm bảo cho mọi học sinh trong các nhóm đều được làm thí nghiệm,
được quan sát, nhận xét và thảo luận. Nếu các nhóm khi làm thí nghiệm có gặp
khó khăn nào đó thì giáo viên yêu cầu toàn bộ lớp tạm ngừng và hướng dẫn bổ
sung thêm, giáo viên có thể trực tiếp làm lại thí nghiệm đó cho học sinh theo dõi
hoặc kiểm tra lại cách lắp thí nghiệm, cách đọc, đo kết quả thí nghiệm của từng
nhóm từ đó đảm bảo cho thí nghiệm được thành công.
Bước 6: Xử lý kết qủa thí nghiệm thảo luận đa ra kết luận của từng phần hoặc
cả bài.
- Sau khi làm thí nghiệm xong từng phần giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét
để đi đến kết luận của phần đó hoặc cả bài.
Tới đây giáo viên chú ý sử dụng hệ thống bảng phụ hoặc phiếu học tập để
giúp các nhóm cùng tìm ra nhận xét một cách chính xác.
- Giáo viên cần tôn trọng các nhận xét của từng nhóm.
- Nếu có nhận xét sai giáo viên cần khéo léo hướng dẫn các em tìm ra nguyên
nhân dẫn đến cái sai như: So sánh với nhận xét các nhóm khác, làm lại thí
nghiệm của mình một cách cẩn thận.
- Khi dùng bảng phụ giáo viên phải suy nghĩ kỹ là dùng nó để làm gì, đọng lại
kiến thức cơ bản nào. Cần sắp xếp bảng phụ cho hợp lý để khi treo tránh sự sai
sót hoặc tác dụng của nó ít đi. Bên cạnh đó bảng phụ cũng cần phải trình bày
khoa học như dùng phấn mầu với những câu từ quan trọng...
- Nếu thí nghiệm có độ chính xác chưa cao thì giáo viên có thể trình bày một thí
nghiệm thay thế. Nhưng với thí nghiêm thay thế do giáo viên làm phải đơn giản,
dễ làm mà vẫn đảm bảo tính chính xác khoa học.
* Lưu ý: Trong phần này để xử lý sai số trong các thí nghiệm giáo viên cần lưu
ý học sinh sai là do ở những nguyên nhân sau:

- Cách đặt mắt đọc kết quả chưa đúng, hoặc cách đặt các thiết bị đo chưa đúng.
Ví dụ: Cách đặt mắt ở bài “hiện tượng khúc xạ ánh sáng" các học sinh
thường đặt mắt nhìn ở các góc độ khác nhau nên có thể dẫn đến các kết quả
không theo mong đợi.
- Do cách bố trí thí nghiệm chưa đúng, cẩu thả cũng là nguyên nhân dẫn đến kết
quả có sai số lớn hoặc không thành công.

15


- Do chưa chú ý nghe hướng dẫn tiến hành thí nghiệm của giáo viên hoặc ở sách
giáo khoa cũng như chưa nắm bắt được mục tiêu của thí nghiệm hoặc chưa hiểu
rõ tính chất lý, hóa của các thiết bị.
-Với các nguyên nhân dẫn đến kết quả thí nghiệm có sai số như đã nêu thì giáo
viên phải bám sát vào đó để giúp đỡ các em sửa chữa có như vậy mới giúp học
sinh tin tưởng vào khoa học và có ý thức, kinh nghiệm hơn khi xử lý các kết quả
thí nghiệm.
* Yêu cầu đối với người phụ trách thiết bị dạy học:
- Sắp xếp các dụng cụ thí nghiệm một cách hợp lý, khoa học, tiện sử dụng.
- Cần kết hợp chặt chẽ với giáo viên vật lý để lập kế hoạch sử dụng thiết bị dạy
học và cùng làm trước các thí nghiệm theo từng bài của chương trình.
- Cùng giáo viên dạy vận chuyển đồ dùng lên lớp khi chưa có phòng học bộ
môn. Có thể trực tiếp hướng dẫn học sinh cùng với giáo viên dạy để quản lý học
sinh một cách chặt chẽ hơn.
- Đồng chí phụ trách phải thường xuyên kiểm tra lại các thiết bị sau mỗi giờ dạy
để có thể đưa ra phương án kịp thời mua bổ sung cho các năm học tiếp theo.

Bộ thí nghiệm từ trường

Bộ thí nghiệm xác định hệ số ma sát


4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC:
Những giải pháp mà tôi nêu ra trong sáng kiến này, bản thân đã áp dụng
trong quá trình giảng dạy các tiết thí nghiệm cho học sinh của lớp tôi dạy. Tuy
nhiên, để kiểm chứng tính hiệu quả của việc áp dụng các giải pháp trên đối với
quá trình tiếp thu kiến thức bộ môn của học sinh, tôi đã thực nghiệm ở 1 lớp đó
là lớp 11A1 và tôi lấy lớp 11A4 làm đối chứng. Trong năm học 2015 – 2016, đối
với lớp 11A1, tôi thường xuyên sử dụng các thiết bị thí nghiệm và áp dụng các
giải pháp mà tôi đã nêu trên. Thực tế kết quả cho thấy hoc sinh lớp 11A1 rất
hứng thú với các bài thực hành thí nghiệm, các em tích cực, chủ động hơn trong
việc tiếp thu kiến thức chuyên môn. Học sinh rất tích cực làm theo các yêu cầu
của giáo viên, chịu khó làm bài tập về nhà khi giáo viên giao.
Đối với lớp đối chứng 11A4, trong quá trình giảng dạy, tôi ít sử dụng các
thiết bị thí nghiệm và các giải pháp tôi đã nêu cũng không thường xuyên sử
dụng. Kết quả cho thấy mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học không
nhiều, tỉ lệ học sinh xếp loại môn học khá – giỏi so với lớp 11A1 chênh lệch
16


nhiều. Kết quả cụ thể thể hiện ở bảng thống kê kết quả môn vật lí giữa 2 lớp
11A1 và 11A4 trong cả 2 học kỳ và cả năm như sau:
Bảng thống kê kết quả xếp loại môn vật lí lớp 11A1, 11A4
Năm học 2015-2016
Giỏi
HK

Lớp

HK
II

CẢ
NĂM

TB

Yếu

Kém

SL
31

%
65,96

SL
14

%
29,79

SL
2

%
4,26

SL
0


%
0

0

11A4
(41HS)

10

23,81

16

38,1

16

38,1

0

0

0

11A1

29


61,7

16

34,04

2

4,26

0

0

0

11A4

4

10

21

52,5

13

32,5


2

5

0

11A1

28

59,57

18

38,3

1

2,13

0

0

0

11A4

6


15

22

55

10

25

2

5

0

11A1
(47HS)
HK I

Khá

Như vậy qua kết quả trên, tôi nhận thấy từ khi áp dụng những giải pháp
đã nêu, thái độ học tập của học sinh đối với môn vật lí nói chung và đối với các
tiết thực hành thí nghiệm nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực. Khi giáo viên
sử dụng các thiết bị thí nghiệm, học sinh rất háo hức và mong muốn đến giờ học
thực hành. Sự chuẩn bị của học sinh đối với các tiết dạy của tôi cũng chu đáo
hơn. Điều đó không chỉ là động lực thôi thúc tôi tiếp tục sử dụng nhiều hơn các
dụng cụ thí nghiệm thực hành trong quá trình giảng dạy, mà đây còn là một
trong những lí do giúp bản thân tôi cảm thấy yêu nghề, gắn bó với nghề hơn.

Những kết quả của bản thân góp phần nâng cao chất lượng văn hóa của bộ môn
nói riêng và kết quả của nhà trường nói chung.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. KẾT LUẬN
Với sự trang bị tương đối đầy đủ các thiết bị đồ dùng dạy học, cùng với sự
cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã đạt được một số kết quả trong quá trình
giảng dạy của mình. Cụ thể là:
a. Về kiến thức:
Học sinh nắm chắc những kiến thức cơ bản của các bài học dựa trên cơ sở tái
hiên lại được các thí nghiệm của bài học.
b. Về kĩ năng:
17


Học sinh có kĩ năng quan sát các hiện tượng và quá trình Vật lí để thu thập các
dữ liệu thông tin cần thiết. Kĩ năng sử dụng các dụng cụ đo lường Vật lí phổ
biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm Vật lí đơn giản. Kĩ năng phân tích, xử
lí các thông tin và các dữ liệu thu được để giải thích được một số hiện tượng Vật
lí đơn giản, để giải các bài tập Vật lí đòi hỏi những suy luận logic và những phép
tính cơ bản cũng như để giải quyết một số vấn dề trong cuộc sống. Kĩ năng đề
xuất các phương án thí nghiệm hay các giả thiết đơn giản về các mối quan hệ về
bản chất của các hiện tượng hoặc sự vật vật lí . Có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, khoa
học, chính xác bằng ngôn ngữ kiến thức Vật lí.
c. Về tình cảm thái độ :
Học sinh có hứng thú trong việc học tập bộ môn Vật lí cũng như áp dụng các
kiến thức kĩ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng. Có
thái độ trung thực tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác trong việc thu thập thông tin, trong
quan sát và thực hành thí nghiệm. Có tinh thần hợp tác trong học tập, đồng thời
có ý thức bảo vệ những suy nghĩ và việc làm đúng đắn. Kết quả chất lượng đại
trà đạt được nâng lên rõ rệt.

d. Phát động phong trào làm đồ dùng dạy học của giáo viên và học sinh:
Việc làm đồ dùng dạy học được phân theo nhóm học tập trong lớp. Học sinh
đã làm rất tích cực với số lượng phong phú, những đồ dùng dạy học đạt điểm
cao, chất lượng tốt, được tuyển chọn để đưa vào phòng bộ môn Vật lí của nhà
trường.
- Qua việc tự làm đồ dùng dạy học làm cho học sinh phấn khởi, sáng tạo, hứng
thú trong việc học vật lí . Trong quá trình tự làm, học sinh đã hiểu sâu các
nguyên lí của các hiện tượng, định luật. Chính vì thế kiến thức học sinh đã học
được củng cố, khắc sâu hơn.
e. Với đề tài này :
- Tính mới, tính sáng tạo:
+Tính mới: Phù hợp với nhiều đối tượng học sinh cả học sinh khá giỏi lẫn
học sinh có năng lực còn yếu kém
18


+Tính sáng tạo: Phù hợp với đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay.
Giúp học sinh hứng thú thêm với môn học.
- Khả năng áp dụng, nhân rộng:
- Có thể sử dụng rộng rãi trong tất cả các trường học đặc biệt là những nơi có
điều kiện thiết bị dạy học còn khó khăn, thiếu thốn, cần phát động phong trào tự
làm đồ dùng dạy học.
- Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp
+ Hiệu quả kinh tế: Có thể tận dụng được triệt để các thiết bị có sẵn trong nhà
trường để sử dụng trong các tiết học.
+ Hiệu quả về mặt xã hội: Giúp mọi học sinh tiếp cận được với nền khoa học
hiện đại. cả những nơi có điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn
2. KIẾN NGHỊ.
- Việc xây dựng phòng thí nghiệm, tổ chức thực hiện các tiết thí nghiệm thực
hành phải được xem là một trong những tiêu chí thi đua của các trường THPT,

để chất lượng dạy học bộ môn Vật lí ngày càng nâng cao.
- Đồ dùng dạy học là phương tiện dạy học rất cần thiết, giúp học sinh dễ dàng
chiếm lĩnh kiến thức vật lí trong hoạt động dạy học. Vì vậy cần phát động mạnh
mẽ phong trào tự làm đồ dùng dạy học của giáo viên và học sinh..
- Đối với các tiết thực hành đã được quy định trong chương trình, cần lấy điểm
như kiểm tra viết 1 tiết, để động viên học sinh tích cực tham gia thí nghiệm thực
hành và viết báo cáo thực hàn
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép của người khác

(Ký tên, đóng dấu)
Người viết sáng kiến này
Nguyễn Văn Dũng

19



×