Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc tìm hiểu các hiện tượng quang học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.5 KB, 22 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Vật lý học ở trường phổ thông chủ yếu là vật lý học thực nghiệm, trong đó
có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa quan sát, thí nghiệm và suy luận lí thuyết để đạt
được sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. Bởi vậy, việc rèn luyện kỹ năng, kỷ
xảo thực hành, thí nghiệm sẽ hỗ trợ tốt cho việc phát hiện những đặc tính đúng đắn
của các kiến thức lí thuyết. Những ứng dụng trong kỹ thuật của vật lý không những
phục vụ cho chính công việc nghiên cứu vật lý học, nâng cao khả năng hoạt động
của chnhs người nghiên cứu, học tập lý thuyết mà còn phục vụ cho chính nhu cầu
đời sống và sản xuất hàng ngày của mỗi chúng ta.
Vật lý học không phải chỉ là các phương trình và con số. Vật lý học là những
điều đang xảy ra trong thế giới xung quanh ta. Nó nói về các màu sắc trong một cầu
vòng, về ánh sáng lóng lánh và tính cứng rắn của viên kim cương. Nó có liên quan
đến việc đi bộ, đi xe đạp, lái ô tô và cả việc điều khiển một con tàu vũ trụ... Việc
học môn Vật lý không chỉ dừng lại ở sự tìm cách vận dụng các công thức Vật lý để
giải cho xong các phương trình và đi đến những đáp số, mà còn phải giải thích
được các hiện tượng Vật lý đang xảy ra trong thiên nhiên quanh ta, trong các đối
tượng công nghệ của nền văn minh mà ta đang sử dụng.
Mặt khác, thực tế việc giảng dạy Vật lý hiện nay, chủ yếu dành nhiều thời
gian dạy học sinh nhận diện các kiểu, loại bài toàn khác nhau và cách thức vận
dụng các công thức Vật lý cho từng kiểu, loại toán đó, mà ít chú trọng giúp học
sinh giải thích các hiện tượng Vật lý xảy ra trong tự nhiên.
Xuất phát từ ý nghĩa và thực tế đó, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài :
“Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc tìm hiểu các hiện tượng
Quang học”, nhằm giúp học sinh yêu thích và hiểu hơn bản chất Vật lý của các
hiện tượng Quang học.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Để hoàn thành đề tài này tôi chọn phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
+ Đọc các sách giáo khoa phổ thông, các sách đại học, sách tham khảo phần
Quang học.


- Phương pháp thống kê:
+ Chọn các hiện tượng có trong chương trình phổ thông và gần gũi với đời
sống hằng ngày.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy
và thực tế đời sống.
Phạm vi nghiên cứu đề tài này là trong phần Quang học của chương trình lớp
11 và một phần lớp 12 hiện hành.
1


* CẤU TRÚC PHẦN NỘI DUNG GỒM:
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CƠ BẢN CỦA QUANG HỌC VÀ MỘT VÀI HIỆN
TƯỢNG QUANG HỌC THƯỜNG GẶP TRONG ĐỜI SỐNG.
II. PHƯƠNG PHÁP CHUNG ĐỂ GIẢI ĐÁP NHANH NHỮNG CÂU HỎI
ĐỊNH TÍNH QUANG HỌC.
III. 20 HIỆN TƯỢNG QUANG HỌC PHỔ BIẾN TRONG TỰ NHIÊN.
----------  ---------PHẦN II: NỘI DUNG
Quang học là một môn học, trong đó người ta nghiên cứu các hiện tượng
liên quan đến ánh sáng; từ sự truyền của ánh sáng đến sự tạo ra các ảnh; từ các
tính chất của ánh sáng đến bản chất của áng sáng.
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CƠ BẢN CỦA QUANG HỌC VÀ MỘT VÀI HIỆN
TƯỢNG QUANG HỌC THƯỜNG GẶP TRONG ĐỜI SỐNG.
1. Cơ sở lý thuyết cơ bản của quang học.
+ Định luật truyền thẳng ánh sáng
- Trong một môi trường trong suốt, đồng tính và đẳng hướng ánh sáng truyền theo
đường thẳng.
+ Nguyên lí về tính thuận nghịch của chiều truyền ánh sáng
- Đường đi của ánh sáng không đổi khi đảo ngược chiều truyền ánh
N
sáng.

S
R
+ Định luật phản xạ ánh sáng
i i’
- Tia phản xạ nằm trong mặt phẳng tới và ở phía bên kia pháp
tuyến so với tia tới.
I

- Góc phản xạ bằng góc tới (i = i)
+ Định luật khúc xạ ánh sáng
- Tia khúc xạ nằm trong mặt phẳng tới và ở bên kia pháp tuyến so với tia tới
- Đối với một cặp môi trường trong suốt nhất định thì tỉ số giữa sin
N
S
của góc tới
i
(sin i) với sin của góc khúc xạ (sin r) luôn luôn là một số không
đổi.
I
Số không đổi này phụ thuộc vào bản chất của hai môi trường và
r
được gọi là chiết suất tỉ đối của môi trường chứa tia khúc xạ (môi
K
trường 2) đối với môi trường chứa tia tới (môi trường 1).
2


Kí hiệu n 21
= n 21
+ Hiện tượng phản xạ toàn phần

- Khi ánh sáng truyền từ mặt phân cách của môi trường chiết quang hơn (n 1) sang
môi trường chiết quang kém (n2) thì góc khúc xạ r lớn hơn góc tới i.
- Góc khúc xạ lớn nhất bằng 90 0; tia khúc xạ nằm là là mặt phân cách hai môi
trường thì góc tới tương ứng gọi là góc giới hạn i gh
- Với các góc tới có giá trị lớn hơn i gh, thì không còn xảy ra khúc xạ, toàn bộ ánh
sáng đều trở lại môi trường chiết quang hơn. Khi đó có hiện tượng phản xạ toàn
phần.
+ Mắt
- Thủy tinh thể của mắt có vai trò như vật kính của máy ảnh, còn võng mạc có vai
trò như phim ảnh.
- Khi nhìn vật đặt ở điểm cực viễn C V, mắt không cần điều tiết. Còn khi nhìn vật
đặt ở điểm cực cận CC mắt phải điều tiết tối đa rất chóng mỏi mắt. Giới hạn nhìn rõ
của mắt là khoảng CVCC. Khoảng cách thấy rõ ngắn nhất là Đ = OCC (O là quang
tâm của mắt). Thường lấy Đ = 25cm. Mắt bình thường có điểm cực viễn ở xa vô
cùng, còn điểm cực cận cách mắt 10cm đến 20cm.
- Mắt cận thị có độ tụ lớn hơn mắt bình thường không có tật, điểm cực viễn của mắt
cận thị ở tương đối gần mắt. Thường sửa tật cận thị bằng cách đeo kính phân kỳ.
- Mắt viễn thị có độ tụ nhỏ hơn mắt bình thường; điểm cực cận của mắt viễn thị ở
tương đối xa mắt. Sửa tật viễn thị bằng cách đeo kính hội tụ.
- Góc trông α của một vật (hoặc ảnh) AB đặt thẳng góc với trục nhìn của mắt O là
α = góc AOB với tgα = .
- Năng suất phân li của mắt bình thường: α ≈ 1’ = rad
+ Các dụng cụ quang học: Kính lúp, hiển vi, thiên văn.
-Độ bội giác G của một số dụng cụ quang học: G = ≈
Trong đó: α là góc trông ảnh của một vật qua dụng cụ, α0 là góc trông vật đặt ở
điểm cực cận của mắt.
+ Tính chất sóng của ánh sáng
- Ánh sáng là sóng điện từ. Ánh sáng đơn sắc nhìn thấy có một bước sóng λ xác
định và có một màu nhất định. Một chùm ánh sáng trắng song song, gồm các ánh
sáng đơn sắc có bước sóng từ 0,4 μm (tia tím) đến 0,76 μm (tia đỏ), đến lăng kính

khi ló ra khỏi lăng kính, bị phân tích thành dãi nhiều màu, từ đỏ đến tím, gọi là
quang phổ của ánh sáng trắng. Tia đỏ bị lệch (về phía đáy lăng kính) ít nhất, tia tím
bị lệch nhiều nhất. Nguyên nhân của sự tán sắc đó là do chiết suất của thuỷ tinh
(môi trường) phụ thuộc vào bước sóng (tần số) ánh sáng.

3


- Hai sóng ánh sáng kết hợp, do hai nguồn sáng kết hợp phát ra, giao thoa với nhau
khi gặp nhau, tạo nên vân sáng (cực đại giao thoa) và vân tối (cực tiểu giao thoa)
trên màn quan sát.
+ Lượng tử ánh sáng
- Chùm ánh sáng đơn sắc có bước sóng λ được coi như dòng các phôtôn (lượng tử
ánh sáng), mỗi phôtôn mang năng lượng xác định ε = h f = h (f là tần số ánh sáng,
h là hằng số Plăng; h = 6,625.10 -34 J.s; c = 3. 108m/s). Cường độ ánh sáng tỉ lệ với
số phôtôn.
- Hiện tượng quang điện là hiện tượng các electrôn bị bật ra (gọi là electrôn quang
điện) khi chiếu vào mặt kim loại chùm ánh sáng có bước sóng λ thích hợp.
2. Một vài hiện tượng quang học thường gặp trong đời sống hằng ngày.
Có khi nào ta ngồi suy nghĩ: Tại sao trần nhà lại sơn màu trắng? Còn bốn
vách tường lại không sơn màu trắng? Hay mỗi lần đi trên đường phải dừng lại khi
gặp: “Đèn đỏ” Và tại sao lại phải “Đèn đỏ”? v.v... Những hiện tượng rất thực tế, rất
gần gũi với chúng ta, nhiều lúc chúng ta xem đó là hiển nhiên, ta vô tình không cần
biết. Nhưng khi hiểu được “chúng” thì đúng là thú vị thật.
VÌ SAO TRẦN NHÀ TRONG BUỒNG SƠN MÀU TRẮNG, CÒN BỐN
BỨC VÁCH TỐT NHẤT KHÔNG SƠN MÀU TRẮNG?
Vách tường trong buồng quét vôi thành màu gì hoặc hoa văn ra sao chẳng
những vì mỹ quan, mà còn phải cân nhắc đến vấn đề ánh sáng nữa.
Vật thể màu trắng phản quang rất mạnh. Sơn trần nhà thành màu trắng, ban
ngày nó sẽ phản quang ánh Mặt Trời xuống dưới, còn ban đêm có thể phản xạ ánh

đèn xuống, làm cho gian buồng thêm sáng sủa, mà không ảnh hưởng gì tới mắt
người cả, vì người chẳng mấy khi ngửa cổ nhìn lâu trên trần nhà. Thế thì tại sao
bốn mặt vách tường tốt nhất không sơn thành
màu trắng nhỉ? Đó là vì bốn bức tường nằm
trong trường nhìn của chúng ta.
Bất cứ bạn ngồi hay đứng, nhìn trái,
nhìn phải hoặc nhìn trước nhìn ra sau, mắt đều
gặp phải bức tường. Nếu bốn bức tường cũng
lại sơn thành màu trắng, thế thì ánh Mặt Trời
hoặc ánh đèn chiếu lên vách tường trắng sẽ
sinh ra phản quang rất mạnh, và trực tiếp rọi vào mắt người, làm cho mắt cảm thấy
rất khó chịu. Điều đó không có lợi đối với con mắt.
Mọi người đều có thể nghiệm này: Đọc sách báo dưới ánh Mặt Trời tương
đối chói chang thì mắt sẽ cảm thấy rất mệt mỏi chính là vì lẽ đó. Vì vậy, vách tường
xung quanh phòng tốt nhất là sơn thành màu xanh nhạt, màu vàng lúa hoặc màu
lam nhạt. Ánh sáng phản xạ của chúng tương đối dịu, sẽ không làm cho mắt bị kích
thích.
4


TẠI SAO TRONG GIAO THÔNG, NGƯỜI TA DÙNG ĐÈN ĐỎ ĐỂ BÁO
HIỆU NGUY HIỂM, MÀ KHÔNG DÙNG ĐÈN MÀU KHÁC?
Có hai lý do. Lý do thứ nhất, lý do khách quan, là trong bảy màu quang
phổ, màu đỏ ứng với bước sóng lớn nhất, nên ánh sáng đỏ truyền trong không
khí được xa hơn. Khi một chùm ánh sáng truyền trong không khí, nhất là không
khí có nhiều bụi hoặc hạt nước nhỏ (tức là sương mù), thì một phần năng lượng ánh
sáng bị các phân tử không khí và các hạt đó tán xạ ra mọi phía, nên năng lượng
chùm sáng càng giảm, khi truyền đi càng xa. Phần ánh sáng mất do tán xạ tăng rất
nhanh khi bước sóng giảm, nên ánh sáng có bước sóng dài bị mất mát ít hơn và
truyền được xa hơn ánh sáng các màu khác.

Lý do thứ hai, lý do chủ quan là như sau: Khi đứng rất xa một đèn màu, ta
trông thấy đèn nhưng không nhận ra màu của nó. Phải lại gần thêm, mới phân biệt
màu của ánh sáng đèn. Nghĩa là đối với các màu lục, lam, vàng, tím ngưỡng sáng
(là lượng ánh sáng nhỏ nhất mà mắt phát hiện được) không trùng với ngưỡng
màu (lượng ánh sáng nhỏ nhất để nhận ra màu ánh sáng). Chỉ riêng với màu đỏ, là
hai ngưỡng đó trùng nhau: ban đêm nếu đặt một chiếc đèn đỏ trên đường, thì từ xa
đi lại, lúc bắt đầu trông thấy đèn ta cũng đồng thời nhận ra màu đỏ của nó. Như vậy
dùng đèn đỏ để báo hiệu nguy hiểm thì không sợ nhầm lẫn và lại có thể nhận thấy
được từ xa.
VÌ SAO GIẦY DA BÔI XI VÀO CÀNG LAU CÀNG BÓNG?
Một đôi giầy da vừa cũ vừa bẩn, chỉ cần lau sạch bụi bặm, bôi xi đánh giầy
vào cẩn thận xát nhẹ một lượt thì đã biến thành vừa bóng vừa đẹp mắt rồi. Đó là lý
do gì vậy?
Thì ra, ánh sáng chiếu tới bất cứ trên bề mặt nào cũng đều có thể xảy ra phản
xạ. Giả dụ mặt bằng đó trơn bóng, thế thì có thể sinh ra phản quang rất mạnh, nhìn
vào rất sáng. Có lẽ bạn sẽ hỏi: Vì sao trên bề mặt của các vật thể như tường nhà,
bàn v.v... không nhìn thấy phản quang rất mạnh nhỉ?
Bề mặt các vật thể như tường, bàn v.v... không thực sự trơn bóng đâu. Bạn
cầm một kính lúp quan sát tỉ mỉ một lúc, thì sẽ phát hiện bề mặt của các vật thể đó
đều xù xì, thô ráp, cao thấp không đều. Bề mặt thô ráp cũng có thể phản xạ ánh
sáng. Có điều phản xạ về bốn phương, tám hướng, chứ không phải tập trung vào
một hướng nhất định.

5


Cái đó trong vật lý gọi là sự phản xạ khuếch tán v.v... Vì vậy chúng ta không
trông thấy ánh sáng phản xạ mạnh.
Bề mặt của giầy da cũng không phải rất trơn bóng. Nếu chiếc giầy bẩn thì cố
nhiên trở thành thô ráp hơn. Như vậy nó không thể làm cho tia sáng tập trung về

một hướng nhất định. Cho nên nhìn vào không thấy bóng lộn. Mục đích của việc
bôi xi đánh giầy là để những hạt li ti trong xi lấp vào những chỗ trũng thấp trên
bề mặt giầy da, làm cho nó trở nên bằng phẳng, và xi đánh giầy có một loại năng
lực thẩm thấu. Nó có thể lấp kín mọi lỗ nhỏ, sau đó dùng vải xát lên để xi được
phủ đầy khắp, tình trạng thô ráp của bề mặt giầy da được cải thiện lên nhiều,
ánh sáng phản xạ về một hướng nào đó, chiếc giầy liền bóng lộn lên nhiều . Cho
nên sau khi bôi xi lên giầy, càng xát nó càng bóng lên.
CHẬU THAU ĐỰNG ĐẦY NƯỚC, VÌ SAO KHI NHÌN NGHIÊNG THẤY
NƯỚC TRỞ THÀNH NÔNG HƠN?
Khi chậu thau đựng đầy nước, nhìn nghiêng từ bên cạnh, độ sâu từ mặt nước
tới đáy chậu có vẻ như trở thành nông hơn. Hiện tượng kì lạ này, rốt cuộc đã xảy ra
như thế nào?
Muốn làm sáng tỏ chân tướng của một cách triệt để thì cần phải hiểu rõ một
số tính khí của ánh sáng trước đã. Thì ra trong cùng một loại môi trường, ánh sáng
bao giờ cũng truyền theo đường thẳng-đường
ngắn nhất. Song nó từ một loại môi trường đi
vào một môi trường khác, ví dụ như từ không
khí vào nước, hoặc từ nước vào không khí, do
tốc độ truyền của ánh sáng trong hai loại môi
trường đó khác nhau, trên mặt phân cách của
hai môi trường, ánh sáng sẽ bị cong lại, đi
theo một đường gấp khúc. Loại hiện tượng
này của ánh sáng gọi là khúc xạ ánh sáng. Chậu nước của bạn trông thấy biến thành
nông đi chính là do khúc xạ của ánh sáng gây nên.
Bạn xem kìa, dưới khe suối có con cá nhỏ, tia sáng từ thân cá phản xạ ra, đến
mặt phân cách giữa nước và không khí liền đổi hướng truyền theo đường thẳng, nó
gấp nghiêng với mặt nước một góc. Cái đập vào mắt chúng ta chính là tia sáng đã
gấp khúc đổi hướng. Song con mắt không cảm nhận được, vẫn cứ tưởng rằng tia
sáng đó theo đường thẳng chiếu tới, và ngộ nhận ảnh ảo do tia sáng đã bị đổi hướng
đó tạo ra con cá thật. Như vậy vị trí của cá trong nước nhìn có vẻ nông hơn. Lí lẽ

khiến cho chậu nước trở thành nông hơn cũng như thế đấy.
6


Trò đùa nghịch của tia sáng cũng giống như cách biến hoá của nhà ảo thuật
thế thôi. Khi chúng ta nhận biết rõ đủ loại tính khí của tia sáng, thì sẽ không bị nó
“lừa gạt” nữa. Người đánh cá có kinh nghiệm khi dùng cái xiên để xỉa cá, người
ấy quyết không xỉa thẳng vào con cá, vì rằng đó chẳng qua chỉ là ảo ảnh của cá.
Chắc chắn anh ta nhằm vào chỗ hơi xa và sâu hơn một chút dùng sức đâm tới.
Như vậy, một con cá giãy giụa tứ tung đã bị xiên chặt. Đó đúng là kinh nghiệm
phong phú mà người đánh bắt cá tích luỹ được qua thực tiễn lâu dài của mình.
II. PHƯƠNG PHÁP CHUNG ĐỂ GIẢI ĐÁP NHANH NHỮNG CÂU HỎI
ĐỊNH TÍNH QUANG HỌC.
Những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra xung quanh ta rất đa dạng, phong
phú, muôn hình muôn vẻ. Tuy nhiên, tất cả mọi hiện tượng đếu có nguyên nhân của
nó. Dùng tư tưởng khoa học, phương pháp khoa học và tri thức khoa học chính xác
sẽ giúp ta trả lời chính xác bản chất của các hiện tượng này.
Những hiện tượng Quang học cũng vậy, chúng đều có nguyên nhân cả. Để
trả lời đúng, chính xác và nhanh chóng hiện tượng xảy ra, ngoài việc phải nắm
vững kiến thức phần Quang học, ta còn phải xác định ‘‘mấu chốt’’ của vấn đề, xem
những hiện tượng xảy ra đó thuộc mảng kiến thức nào của phần Quang học: Quang
hình học, giao thoa, nhiễu xạ hay hiện tượng phát quang v.v... để giới hạn kiến thức
và giải thích chính xác bản chất hiện tượng.
III. 20 HIỆN TƯỢNG QUANG HỌC PHỔ BIẾN TRONG TỰ NHIÊN.
1. CÓ THỂ DẪN ÁNH SÁNG ĐI THEO NHỮNG ỐNG CONG, NHƯ DẪN
NƯỚC, ĐƯỢC KHÔNG?
Ánh sáng truyền theo đường thẳng, nhưng khi gặp
một tấm gương, thì tia sáng bị hắt theo hướng khác. Nếu ta
đặt một dãy nhiều gương phẳng, sao cho cái nọ nối tiếp cái
kia (hình a) thì khi rọi một tia sáng vào gương thứ nhất tia

sáng sẽ lần lượt phản xạ trên các gương của dãy và đi theo
một đường gấp khúc. Muốn cho đường gấp khúc trở thành
một đường cong, thì các gương phải nhỏ, nhiều vô hạn, và
đặt nối tiếp nhau thành đường cong mà ta muốn tia sáng đi theo. Có thể thực hiện
được điều đó bằng cách dùng một mặt kim loại, nhẵn bóng, uốn thành một mặt trụ.
Nhưng biện pháp tốt nhất là dựa vào sự phản xạ toàn phần.
Ta xét thanh trong suốt bằng thuỷ tinh, hoặc chất dẻo, uống cong (hình b) và
rọi một chùm tia sáng hẹp vào một đầu ống.
Chiết suất và độ cong của thanh đã được lựa chọn để cho các tia sáng tới
thành bên của thanh dưới những góc lớn hơn góc giới hạn phản xạ toàn phần. Do
đó, tới chỗ cong, tia sáng liên tiếp bị phản xạ toàn phần và cuối cùng, đi theo thanh
7


mà ló ra ở đầu kia. Thanh như thế đã hướng chùm sáng đi theo nó, và được gọi là
ống dẫn sáng.
Trong thực tế, ống dẫn sáng được làm bằng một bó sợi chất dẻo, để cho mềm
và dễ uốn theo ý muốn. Nó được dùng trong y học để rọi sáng vào miệng khi chuẩn
đón các bệnh về răng, miệng, họng, để soi sáng các phần trong cơ thể, chẳng hạn
các bộ phận của cơ quan tiêu hoá.
2. BẢNG ĐO THỊ LỰC ĐƯỢC CẤU TẠO NHƯ THẾ NÀO? ĐO THỊ LỰC
THẾ NÀO CHO ĐÚNG?
Thị lực là con số đánh giá khả năng phân ly của mắt. Võng mạc của mắt
được cấu tạo bởi hai loại tế bào: tế bào nón và tế bào que. Giữa võng mạc có một
vòng tròn đường kính chừng 1mm gọi là điểm vàng, tâm hơi trũng xuống. Trong
điểm vàng chỉ có toàn tế bào hình nón, nên điểm vàng là điểm nhạy sáng nhất của
võng mạc. Mỗi tế bào nón được nối với đầu một dây thần kinh thị giác. Khi nhìn
một vật bao giờ ta cũng hướng trục nhìn của mắt vào vật, để ảnh của vật vào đúng
điểm vàng. Nếu ảnh của hai điểm khác nhau A và B rơi vào hai tế bào nón khác
nhau trên điểm vàng, thì hai dây thần kinh ghi được hai cảm giác khác nhau, và mắt

nhận biết được rằng đấy là hai điểm khác nhau. Nhưng nếu vì vật ở xa, hoặc vì A
và B quá gần nhau đến mức ảnh của hai điểm rơi vào cùng một tế bào nhạy sáng
của võng mạc thì mắt chỉ ghi được một cảm giác độc nhất, tức là mắt sẽ thấy hai
điểm đó trùng nhau.
Vậy, muốn phân biệt hai điểm A và B thì góc trông đoạn AB phải lớn hơn
hay ít nhất là bằng một trị số giới hạn α, gọi là năng suất phân ly của mắt. Đối với
người bình thường trong phòng sáng vừa phải, α có trị số chừng 1 phút, tức là
chừng 3/10000rad. Mắt có α đúng bằng 1 phút, thì có thị lực 10, thị lực 9 ứng với α
= 2’, thị lực 8 ứng với α = 3’v.v..
Bảng đo thị lực gồm hơn một chục hàng chữ. Chữ ở hàng số 10 thì nét rộng
2mm, để khi đứng bảng 5m ta nhìn các chữ số của hàng ấy dưới góc 1’. Chữ hàng
số 9 thì lớn gấp đôi, ở hàng số 8 thì lớn gấp 3 ... hàng số 10. Hàng chữ trên cùng, số
1, có nét rộng 22m, hàng số 11, 12 nhỏ hơn hàng số 10.
Muốn đo thị lực phải đứng cách bảng 5m và bảng phải có độ rọi tiêu chuẩn
50lux, và thử đọc chữ ở các hàng, bắt đầu từ hàng số 1, bằng từng mắt một. Nếu
đọc được đến hàng số 9, nhưng không đọc được hàng số 10, thì ghi thị lực của mắt
là 9. Để phép đo được đúng, ngoài việc đảm bảo cho bảng có độ rọi chuẩn, nên
đứng một lát cho quen mắt rồi thử và thử đi thử lại một vài lần.
3. TẠI SAO CÁC VÌ SAO LÁP LÁNH?
Những đêm hè quang mây không Trăng ngồi hóng mát ngoài sân, chúng ta
thường say mê ngắm bầu trời, với muôn vàng ngôi sao lấp lánh. Nếu qua sát kỹ,
chúng ta sẽ thấy rằng, những ngôi sao ở thấp gần chân trời lấp lánh mạnh hơn, còn
những ngôi sao ở cao, giữa vòm trời, thì không lấp lánh.
8


Hẳn bạn đã nhiều lần nhìn thấy rằng, khi nhìn qua phía trên đầu máy xe lửa,
vào một vật ở xa, thí dụ như vào cửa sổ của một ngôi nhà, thì thấy đường nét của
ngôi nhà thành ngoằn ngoèo, lung linh. Đó là vì lớp không khí gần đầu máy nóng
lên và chuyển động lên phía trên (tạo thành dòng đối lưu trong không khí). Dòng

khí nóng có tỉ trọng nhỏ hơn, do đó có chiếc suất nhỏ hơn không khí xung quanh.
Tia sáng từ vật tới mắt bạn khi đi qua dòng khí đó bị khúc xạ trở thành hơi cong
nên nhìn thấy vật ở một vị trí hơi khác so với khi tia sáng không bị cong. Vì dòng
khí không đều và không ổ định nên những điểm khác nhau của vật bị dich chuyển
không đều nhau và vật bị “biến dạng”, mép cửa trở thành ngoằn ngoèo. Và những
chổ ngoằn ngoèo lại thay đổi liên tục, nên ta thấy vật như lay động nhẹ. Sao trên
trời lấp lánh cũng do cùng một nguyên nhân. Các tia sáng từ sao đến mắt ta cũng
qua một lớp khí quyển dày. Ban ngày mặt đất bị Mặt Trời nung nóng nên trong khí
quyển luôn luôn có dòng khí đối lưu nhỏ, chiếc suất khác nhau. Tia sáng từ vì sao
tới mắt ta, khi đi qua những dòng khí ấy, bị khúc xạ thành hơi cong, lúc cong về
phía này, lúc cong về phía khác. Do đó một mặt vị trí của ngôi sao hình như bị thay
đổi liên tục, mặt khác số tia sáng rọi vào mắt cũng không đều, lúc nhiều, lúc ít
khiến ta thấy sao có lúc sáng hơn, có lúc tối hơn, tức là thấy nó lấp lánh.
Sao càng ở gần chân trời, lớp không khí mà tia sáng phải đi qua càng dày,
sao càng lấp lánh mạnh. Khi sao ở giữa đỉnh đầu, lớp không khí mà ánh sáng đi qua
mỏng hơn, tia sáng lại đi cùng phương với dòng khí, nên tia sáng không bị cong và
hầu như không lấp lánh.
Nếu bạn qua sát kỹ, thì thấy rằng sao Hôm (hay Sao Mai), và nói chung hành
tinh thì không lấp lánh. Đó là vì góc trông của hành tinh tương đối lớn (góc trông
của các sao đều bằng không), chùm sáng từ hành tinh rọi vào mắt tương đối rộng
nên thăng giáng trong chùm không rõ rệt.
4. TẠI SAO XẢY RA HIỆN TƯỢNG ẢO ẢNH?
Chắc là mọi người đều biết nguyên nhân vật lý của hiện tượng ảo ảnh thông
thường. Lớp không khí nông ở kề sát mặt cát bị hun nóng trên sa mạc có những
tính chất của gương phẳng, đó là do lớp không khí này có mật độ nhỏ hơn lớp
không khí nằm trên. Tia sáng từ một vật ở xa rọi nghiêng, khi tới lớp không khí này
sẽ uống cong đường đi, rồi lại rời khỏi mặt đất và đạp vào mắt người quan sát, tựa
hồ như được phản xạ từ gương dưới một góc tới rất lớn. Và đối với người quan sát,
dường như trước mặt mình có một mặt nước phẳng lặng trải ra trong sa mạc (hình
vẽ).


9


Chú thích: Trên hình vẽ đường đi của tia sáng nghiêng so với mặt đất được
phóng đại, vì đường của tia sáng chếch xuống mặt đất không dốc đến thế.
Tuy vậy, đúng hơn phải nói rằng, lớp không khí bị hun nóng ở gần mặt đất
nóng phản xạ các tia sáng không giống như các gương phẳng, mà giống như một
mặt nước, được khảo sát từ độ sâu của nước. Ở đây đã xảy xa hiện tượng phản xạ
toàn phần.
Các hiện tượng tương tự đặt biệt xảy ra vào mùa hè tên các đường nhựa. Các
đường này có màu thẫm, nên bị hun nóng dưới ánh nắng Mặt Trời. Mặt đường mờ
đục từ xa trông tựa như một mặt nước đánh bóng và phản chiếu các vật ở xa.
Đường đi của tia sáng đó được trình bày trên hình vẽ bên.
Chỉ cần quan sát một chút, bạn có thể thấy các hiện tượng tương tự không
đến nỗi hiếm xảy ra như bạn vẫn thường nghĩ đâu.
5. MẶT TRĂNG, MẶT TRỜI LÚC MỚI MỌC, HOẶC SẮP LẶN CÓ ĐÚNG
LÀ TO HƠN LÚC Ở ĐỈNH ĐẦU KHÔNG?
Khi nói Mặt Trăng, Mặt Trời to, nhỏ ta phải hiểu là góc trông của các thiên
thể ấy to, hay nhỏ. Và hiểu như thế, thì góc trông Mặt Trời, từ sáng đến trưa, và từ
trưa đến chiều không thay đổi hay nói cho đúng hơn chỉ thay đổi một trị số cực
nhỏ, không đáng kể so với góc ấy. Và như thế có nghĩa là Mặt Trăng, Mặt Trời lúc
mới mọc cũng chỉ to như lúc ở trên đỉnh đầu thôi. Và thực sự thì chụp ảnh hoặc đo
góc trông hai thiên thể ấy, người ta thấy đúng là chúng không thay đổi.
Thế thì tại sao khi Trăng mới mọc ta thấy nó “to như cái mâm” để khi lên cao
chỉ còn “ nhỏ bằng cái đĩa”? Đó là vì mắt bị lừa chỉ là một ảo giác mà thôi. Khi
trăng lên cao giữa Mặt Trăng và mắt không có vật gì khác để so, nên ta thấy Mặt
Trăng có vẻ như gần. Nhìn một vật ở gần, dưới một góc nhỏ ta cho nó là bé. Khi
trăng ở gần chân trời, giữa Trăng và mắt có xen nhiều vật: nhà, cây cối, nước,
sông ..., ta có cảm giác là mặt trăng ở rất xa. Cho là trăng ở xa mà góc trông lại

không giảm, nên ta tưởng như nó to ra. Để rứt khỏi ảo giác này, ta nên làm thí
nghiệm nhỏ sau đây: Lấy một tấm kính hơ lên ngọn đèn dầu hoả cho muội bám vào
thành một lớp đều. Và nhìn Mặt Trời lúc mọc qua tấm kính đó. Qua tấm kính đen
bạn không trông thấy vật gì khác ngoài Mặt Trời, và sẻ thấy nó cũng nhỏ như lúc ở
đỉnh đầu.
6. CÓ PHẢI MUỐN NHÌN THẤY NHỮNG CON VI TRÙNG CỰC NHỎ CHỈ
CẦN CHẾ TẠO NHỮNG KÍNH HIỂN VI PHÓNG ĐẠI NHIỀU LẦN LÀ
ĐƯỢC KHÔNG?
Khi mới sản suất được kính hiển vi, người ta cũng đã nghĩ rằng, cứ tăng độ
phóng đại lên càng nhiều lần, thì vật nhỏ đến mấy, cuối cùng cũng bị “ lôi ra ngoài
ánh sáng”.
10


Chẳng hạn, cho kính phóng đại lên mười vạn lần, thì sẽ trông thấy con vi
trùng dài một phần vạn milimet to thành 1cm. Thực sự thì, do ánh sáng có tính chất
sóng, nên dự định trên không thực hiện được.
Hãy quan sát mặt nước hồ, khi có những gợn sóng nhấp nhô: ngọn sóng nọ
cách ngọn sóng tiếp theo một khoảng không thay đổi chừng vài chục centimet. Khi
sóng gặp cái thuyền, thì nó bị thuyền cản không cho truyền đi tiếp. Nhưng cái sào
cắm dưới nước lại không gây ảnh hưởng gì: sóng nước lướt qua cái sào, mà không
hề bị suy yếu chút nào. Ta gọi khoảng cách giữa hai ngọn sóng liên tiếp là bước
sóng. Kích thước cái thuyền lớn hơn bước sóng, nên thuyền chắn được sóng, và sau
thuyền không có sóng truyền tới. Còn kích thước cái sào nhỏ hơn bước sóng, nên
sào không cản được sóng.
Ánh sáng mà mắt ta nhìn thấy cũng là một loại sóng, nhưng bước sóng rất
nhỏ, từ 0,4 đến 0,8 phần nghìn milimet. Khi cho một chùm ánh sáng chiếu qua tiêu
bản đặt trên kính hiển vi, thì chỉ chi tiết nào trên tiêu bản lớn hơn hay bằng bước
sóng ánh sáng, mới cản được ánh sáng và sinh ra một bóng tối. Khi nhìn trong kính
hiển vi, ta trông thấy bóng tối ấy và nhận ra hình dáng của chi tiết. Nhưng nếu chi

tiết ấy nhỏ hơn một nữa bước sóng, thì nó không cản được ánh sáng, không sinh ra
được bóng tối, và ta sẽ không nhìn thấy nó, dù kính phóng đại bao nhiêu lần. Vì
vậy kính hiển vi, nhìn bằng mắt, chỉ giúp ta trông thấy những vi trùng lớn hơn 0,2
phần nghìn milimet mà thôi. Những sinh vật có kích thước nhỏ hơn không trông
thấy được trên kính hiển vi thường được gọi là siêu vi trùng. Với kính hiển vi điện
tử, người ta đã chụp được nhiều siêu vi trùng.
7. CHỤP ẢNH NGOÀI TRỜI NẮNG, NHỮNG NGƯỜI CHƠI ẢNH GIÀU
KINH NGHIỆM THƯỜNG LẮP THÊM KÍNH LỌC MÀU VÀNG HOẶC
MÀU ĐỎ NHẰM MỤC ĐÍCH GÌ?
Phim ảnh dù đã được nhạy hoá, vẫn có độ nhạy lớn đối với ánh sáng màu
tím, màu lam, và nhỏ đối với màu vàng, màu đỏ.Vì thế nên độ tương phản của các
phần trên phim không hoàn toàn phù hợp với độ tương phản trên vật, đặt biệt là khi
chụp ngoài nắng. Chẳng hạn, một lá cờ đỏ đang tung bay với mắt thì nổi hẳn trên
nền trời xanh, nhưng khi chụp trên phim rồi in trên ảnh, ta thấy lá cờ bị tối, và nền
trời sáng hơn nhiều. Để loại trừ ảnh hưởng này, người ta làm yếu bớt các tia sáng
màu lam, màu tím, bằng cách bắt chùm sáng đi qua một kính lọc, trước khi rọi vào
máy.
Kính lọc màu vàng nhạt để các tia đỏ, vàng và da cam qua được gần hoàn
toàn, và hấp thụ một phần các tia lam và tím, nên làm cho ảnh chụp giống như thật.
Kính lọc màu vàng sẫm vẫn cho các tia đỏ và vàng qua gần hết, nhưng hấp thụ các
tia lam và tím mạnh hơn, làm cho ảnh tương phản hơn vật, chẳng hạn làm cho nền
trời tối bớt, và các đám mây hiện rõ hơn. Kính lọc màu da cam, và nhất là kính màu
đỏ hấp thụ hết ánh sáng màu lam, màu tím, nên cho những ảnh thật tương phản,
khác hẳn thật, chẳng hạn, vật màu đỏ hiện rất sáng, vật màu lam, tím trở thành tối,
11


trời
mây
bình


thường mà hiện trên ảnh như sắp có giông. Người sử dụng thành thạo kính lọc có
thể gây được nhiều hiệu quả đặc sắc. Khi chụp ảnh với kính lọc màu, phải chú ý lấy
tăng ánh sáng một cách thích hợp.
8. VÌ SAO DƯỚI ÁNH SÁNG BAN NGÀY, NHÌN BONG BÓNG XÀ PHÒNG
HAY VẾT DẦU LOANG TRÊN VŨNG NƯỚC, TA THẤY CÓ NHIỀU MÀU
SẶC SỠ?
Những vân màu sặc sỡ trên bong bóng xà phòng hoặc trên vết dầu loang trên
mặt nước là kết quả của sự giao thoa ánh sáng.
Màng bong bóng xà phòng là một lớp nước mỏng-cỡ phần nghìn milimettrong suốt, vết dầu loang cũng là một màng như vậy. Hai mặt của màng cùng phản
xạ ánh sáng như hai mặt của tấm cửa.
Ta xét một điểm I trên màng mỏng M mà độ dày được vẽ to gấp nghìn lần độ
dày thật. Tia sáng SIR1 phát đi từ một điểm S của nguồn, phản xạ ở mặt trên của
màng và rọi vào mắt. Trong số rất nhiều tia sáng phát đi từ S, có một tia SKR 2 phản
xạ ở mặt dưới của màng và cũng rọi vào mắt. Vì màng rất mỏng, nên đối với mắt,
hai tia IR1 và KR2 như là được phát đi từ cùng một điểm I. Khi hai tia này được
thuỷ tinh thể của mắt hội tụ lên võng mạc, chúng gặp nhau và giao thoa với nhau.
Hai tia sáng đi từ điểm I, mà gặp nhau trên võng mạc của mắt, thì mắt nhìn rõ điểm
I: ta nói là mắt điều tiết để nhìn vào mặt bản. Hai tia sáng giao thoa với nhau, có thể
hoặc tăng cường lẫn nhau, hoặc triệt tiêu nhau, tuỳ theo độ dày của màng và tuỳ
theo bước sóng ánh sáng. Chùm ánh sáng rọi vào màng là ánh sáng trắng, có đủ các
màu, ứng với nhiều bước sóng khác nhau, nên cùng một lúc, ở cùng một điểm I,
sóng ánh sáng màu này bị triệt tiêu, sóng ánh sáng màu khác lại được tăng cường,
và ánh sáng phản xạ thành có màu sắc, và màu sắc đó thay đổi theo chỗ dày, chỗ
mỏng trên màng.

12


Chú thích: Tia SIR1 phản xạ ở mặt trên, tia SKR2 phản xạ ở mặt dưới của màng

gặp nhau ở điểm I’ trên võng mạc và giao thoa với nhau
Chùm sáng rọi vào điểm I rất rộng, nhưng con ngươi của mắt lại nhỏ, nên
chùm tia lọt vào mắt vẫn chỉ là một chùm hẹp, nên có thể quan sát được vân giao
thoa, mà không cần dùng khe hẹp, như trong thí nghiệm Y-âng.
9. CÓ TÀNG HÌNH ĐƯỢC KHÔNG? MUỐN TÀNG HÌNH PHẢI THỰC
HIỆN NHỮNG ĐIỀU KIỆN GÌ?
Ngụy trang trong chiến tranh cũng có thể coi là hình thức đơn giản của tàng
hình. Ta đội mũ cài lá, mặc áo đốm xanh để màu sắc của ta không khác biệt với
rừng cây. Một số sinh vật vì lý do sinh tồn cũng có màu sắc giống môi trường sống
để ngụy trang.
Ta cũng đã biết chỉ cần thay đổi màu ánh sáng của đèn chiếu cũng có thể làm
cho diễn viên trên sân khấu “ biến mất”.
Nhưng tất cả các kiểu “tàng hình” nói trên đều chưa phải là tàng hình thực
sự. Ở đây ta muốn nói đến tàng hình thực sự, nghĩa là dưới ánh sáng ban ngày
người tàng hình đứng tại bất cứ chỗ nào cũng không ai có thể nhìn thấy. Muốn thế
người định tàng hình phải làm thế nào khử được tất cả những điều kiện để người
khác nhìn thấy mình.
Ta nhìn thấy một vật nhờ sự tương phản về độ sáng hoặc màu sắc của
vật đối với nền. Nếu vật trong suốt ta có thể nhìn thấy được nhờ ánh sáng
phản xạ và tán xạ từ vật do chiếc suất của vật khác của môi trường xung
quanh.
Như vậy, muốn trở thành vô hình thực sự, điều kiện duy nhất phải thực hiện
là làm cho cơ thể hoàn toàn trong suốt và có chiết suất bằng chiết suất của môi
trường (không khí). Lúc đó ánh sáng chiếu tới và ánh sáng truyền qua không cho
một dấu hiệu nào về cơ thể đó. Để làm được như vậy, chỉ có một cách là làm cho
mọi bộ phận cơ thể cũng loãng và nhẹ... như không khí. Nói một cách khác là
không thể nào tàng hình trong không khí được.
Nhưng đối với môi trường có chiết suất lớn như nước chẳng hạn thì điều
kiện trên có thể thực hiện được. Nếu chưa thực hiện được với cơ thể con người, thì
ít nhất người ta cũng đã thực hiện được đối với một số vi sinh vật. Nhưng giả sử có

người nắm được bí quyết tàng hình, thì anh ta cũng không gây được náo động bất
ngờ như trong một vài truyện hoặc phim khoa học viễn tưởng. Vì các lý do sau đây:
1. Người tàng hình vẫn bị lộ nguyên hình khi người ta dùng các phương tiện quan
sát khác như dùng ống nhòm hồng ngoại. Cơ thể người tàng hình có nhiệt độ 37 0C,
đó là nguồn phát ra hồng ngoại.
13


2. Người tàng hình sẽ trở thành người mù, vì thuỷ tinh thể của mắt không còn có
tác dụng hội tụ ánh sáng như một thấu kính nữa.
3. Người tàng hình không được ăn uống gì ở chỗ có người, vì thức ăn chưa tiêu
hoá, chưa tàng hình được với người.
4. Người tàng hình mà gặp trời mưa, chân giẫm phải bùn, bùn bám vào chân, thì
cũng bị lộ như trong một cuốn phim truyện về người tàng hình. Vì anh ta để dấu
chân trên tuyết mà bị lộ.
Vậy dù có người tàng hình thật đi nữa, cũng chẳng sợ anh ta “đột nhập” vào
phòng bạn.
10. VÌ SAO MẶT TRỜI, MẶT TRĂNG LÚC MỌC VÀ LẶN CÓ MÀU ĐỎ?
Ánh sáng từ Mặt Trời, Mặt Trăng tới chúng ta phải đi qua khí quyển Trái
Đất. Gặp các phân tử không khí, và nhất là các bụi bậm lơ lửng trong không khí,
ánh sáng đó bị tán xạ, và phần ánh sáng tán xạ đó không tới mắt chúng ta.
Ta đã biết, các thành phần màu (đỏ, vàng, lục, lam, tím) trong ánh sáng trắng
bị tán xạ không đều: ánh sáng đỏ ít nhất, xong đến ánh sáng vàng; ánh sáng lam và
tím bị tán xạ nhiều hơn cả. Do đó, sau khi qua khí quyển, tới mắt ta, thì ánh sáng
lam và tím bị mất do tán xạ nhiều hơn ánh sáng đỏ, vàng và trong ánh sáng nhận
được, các thành phần đỏ, vàng thành trội hơn, so với ánh sáng tới.
Lúc giữa trưa (hay nửa đêm) Mặt Trời (hay Mặt Trăng)-chiếu sáng vuông
góc với mặt đất, các tia sáng đi qua một lớp không khí tương đối mỏng, nên phần
ánh sáng mất do tán xạ là nhỏ, và ánh sáng vẫn có đủ các thành phần của ánh sáng
trắng: ta thấy Mặt Trời, Mặt Trăng vẫn có màu trắng. Nhưng lúc Mặt Trời mới mọc

hoặc sắp lặn các tia sáng đi là mặt đất nên phải qua một lớp không khí dày gấp
hàng chục lần, lớp không khí ở gần mặt đất này lại đầy bụi nên tán xạ ánh sáng rất
mạnh. Trong ánh sáng tới mắt ta các thành phần lam, tím bị yếu đi rất nhiều, các
thành phần đỏ và vàng trở thành trội, và làm cho ánh sáng ngả sang màu vàng, màu
đỏ. Vì vậy ta thấy, khi Mặt trời ở sát chân trời, thì có màu đỏ, lên cao một chút thì
chuyển sang màu hồng, rồi màu vàng, vì lớp không khí mà ánh sáng đi qua càng
mỏng dần và cuối cùng có màu trắng.
Màu sắc vàng, hồng của các đám mây chiều cũng xuất hiện do nguyên nhân
này. Ánh sáng Măt Trời khi tới đám mây đã phải qua một lớp không khí dày nhiều
bụi, rồi từ đám mây tới mắt ta lại qua lớp không khí ấy lần nữa, nên càng bị tán xạ
nhiều hơn. Vì vậy mây có thể có màu vàng, ngay cả khi Mặt Trời còn khá cao.
11. VÌ SAO BAN NGÀY NHÌN NGỌN ĐÈN ĐIỆN NGOÀI PHỐ (CÒN THẮP
SÁNG) TA KHÔNG THẤY LÓA MẮT NHƯ VỀ BAN ĐÊM, MẶC DẦU
CƯỜNG ĐỘ SÁNG CỦA ĐÈN KHÔNG THAY ĐỔI?
Hiện tượng lóa mắt thường gặp, khi điều kiện chiếu sáng thường thay đổi đột
ngột, khiến mắt không kịp thích nghi. Chẳng hạn, trong rạp chiếu bóng, khi hết
phim, nếu đèn điện nhất loạt bật sáng, thì mắt bị lóa; mùa hè đang đi ngoài đường
14


nắng, vén mành mành bước vào nhà, ta cũng bị lóa mắt, và phải đứng định thần vài
phút mới trông rõ mọi vật trong buồng.
Nguyên nhân sự lóa mắt, là do các tế bào nhạy sáng của mắt thay đổi độ
nhạy chậm hơn điều kiện chiếu sáng. Mắt được cấu tạo để nhìn trong những điều
kiện chiếu sáng rất khác nhau, từ những chỗ rất sáng, như đường phố lúc trưa hè,
đến những chỗ tối như “ đêm ba mươi ”: võng mạc của mắt có hai loại tế bào: tế
bào nón hoạt động khi đủ ánh sáng (ban ngày), tế bào que chỉ hoạt động khi thiếu
ánh sáng (chiều, tối).
Cả hai loại tế bào này lại có độ nhạy tăng dần, khi lượng ánh sáng rọi vào
mắt giảm. Trước thuỷ tinh thể của mắt, lại còn có con ngươi, tự động mở rộng khi

thiếu ánh sáng, và tự động thu hẹp khi ánh sáng bên ngoài quá mạnh. Nhờ phối hợp
khéo léo ba quá trình trên, mắt có thể hoạt động ở chỗ tối cũng tốt gần như ở chỗ
sáng.
Nhưng, nếu con ngươi của mắt mở rộng hay thu hẹp một cách tự động và
nhanh chóng, thì các tế bào nhạy sáng của mắt chỉ thay đổi từ từ. Khi ta đi ngoài
đường sáng, con ngươi khép nhỏ hết sức, và tế bào nón hoạt động với độ nhạy thấp,
còn tế bào que không hoạt động. Nếu ta đột ngột bước vào căn nhà tối, thì con
ngươi lập tức mở ra rộng, để lượng ánh sáng rọi vào mắt được nhiều hơn, nhưng tế
bào nhạy sáng của mắt chưa kịp tăng độ nhạy. Do đó, ta chưa nhìn rõ các vật trong
nhà. Phải một, hai phút sau, độ nhạy của các tế bào nón mới tăng đến mức đủ giúp
cho mắt nhìn rõ mọi vật. Trong một, hai phút chờ đợi ấy, mắt ta bị loá. Ngược lại
cũng vậy, từ trong nhà bước ra ngoài sân nắng, độ nhạy của các tế bào nhạy sáng
chưa kịp giảm, ta cũng bị lóa.
Ban ngày mọi vật đều sáng, sáng gần ngang với bóng đèn điện đang thắp,
mắt hoạt động với độ nhạy thấp, nên khi nhìn bóng đèn cũng như nhìn mọi vật
khác, không cần thay đổi độ nhạy, mắt không bị lóa. Buổi tối, mọi vật đều tối, trừ
các bóng đèn trên cao. Nhìn mọi vật mắt phải tăng độ nhạy lên nhiều lần. Nếu
đang lúc ấy, mắt chợt nhìn vào bóng đèn, sáng như các vật ban ngày mắt sẽ bị lóa
vì độ nhạy của mắt chưa giảm kịp.

12. VÌ SAO CÔNG NHÂN HÀN ĐIỆN PHẢI CHE MẶT BẰNG MỘT CÁI
MẶT NẠ CÓ TẤM KÍNH TÍM?
Ánh lửa hàn phát ra rất nhiều tia tử ngoại, một loại “ánh sáng đen” có bước
sóng ngắn hơn 3800A0. Trong quang phổ vị trí của những tia này ngoài vùng tím, vì
thế gọi là tia tử ngoại (tử là tím). Tia náy có tác dụng hoá học rất mạnh, có thể phân
huỷ tế bào. Phải làm thế nào để ngăn cản những tia tử ngoại tác dụng tới mắt công
nhân trong quá trình làm việc. Tấm kính tím có công dụng như vậy. Mặt khác nó
15



còn có tác dụng làm giảm độ chói của nguồn sáng để công nhân có thể nhìn rõ vật
phải hàn, không bị lóa mắt.
13. “TẮM ĐIỆN” LÀ THẾ NÀO? TẮM ĐIỆN CÓ TÁC DỤNG GÌ?
Tắm điện là phơi mình dưới ánh đèn giàu tia tử ngoại. Tia tử ngoại có tác
dụng tổng hợp sinh tố D cần thiết cho cấu tạo xương và có tác dụng diệt một số
nấm. Vì thế trẻ em còi xương hoặc người mắc bệnh nắm ngoài da thường được điều
trị bằng phương pháp "tắm điện”.
Mặc dầu khí quyển hấp thụ rất nhiều tia tử ngoại, nhưng trong ánh nắng vẫn
còn ít nhiều tia này. Do đó, “tắm nắng” cũng là một biện pháp chống còi xương.
14. “MA TRƠI” LÀ GÌ?
Những đêm tối trời, khô ráo, trên các bãi tha ma thường xuất hiện những
khối sáng xanh chập chờn trong gió.
Hiện tượng này được những người mê tín gọi là “ma trơi”. Chúng ta biết,
một số phản ứng hoá học, nhất là những phản ứng ôxy hoá thường kèm theo sự
phát quang. Chất hoá phát quang “cổ điển” nhất là chất lân tinh (phốt pho) mà
người ta đã phát hiện từ 1669.
Ở các bãi tha ma, phốt pho, từ các hài cốt bốc ra thành hơi qua kẽ đất bay
lên, phản ứng với ôxy trong không khí tạo thành những khối sáng xanh chập chờn
trong gió. Đó chính là bản chất của “ma trơi”.
Hiện tượng hơi phốt pho phát quang trong không khí còn nhiều trường hợp
kì lạ nữa. Giracđin kể rằng (1861) những lúc chập tối, sau một ngày lao động trong
một môi trường đầy hơi phốt pho, những người thợ ra về với những hơi thở xanh lè
trong bóng tối. Họ đã chứa đầy trong bụng, trong phổi hơi phốt pho. Magenđi cũng
đã thử tiêm dầu phốt pho cho một con chó và nhận thấy trong hơi thở của nó có ánh
sáng xanh trong bóng tối.
15. VÌ SAO CÓ MỘT SỐ CÁ CHẾT BỊ SÓNG BIỂN HẮT LÊN BỜ LẠI
PHÁT QUANG TRONG ĐÊM TỐI?
Con đom đóm quen thuộc trong những đêm hè ở nông thôn nước ta là loại
sinh vật có khả năng phát quang trong đêm tối. Nếu đom đóm chết, khả năng phát
quang của nó cũng mất. Hiện tượng phát quang này liên quang đến quá trình sống

của sinh vật. Đó là hiện tượng phát quang sinh vật.
Nhưng những con cá chết trên bờ biển phát quang và những người đánh cá
cho biết chúng không phát quang khi còn sống. Nhưng khi chúng đã chết, có một
16


loại quang vi khuẩn bắt đầu sinh sống và phát triển trong cơ thể gần thối rữa của
chúng làm cho ta tưởng cá phát quang.
Chính do những quang vi khuẩn mà một số thịt, rau, xác người chết thối rữa
cũng phát ánh sáng xanh. Cũng do vi khuẩn mà đôi khi mồ hôi, nước tiểu, những
vết thương cũng phát ánh sáng xanh trong đêm tối.
16. NGƯỜI TA LÀM THẾ NÀO ĐỂ KIM VÀ CHỮ SỐ Ở MẶT ĐỒNG HỒ
CÓ THỂ PHÁT SÁNG TRONG ĐÊM TỐI?
Một số tinh thể như tinh thể kẽm sunfua, kẽm silicat hoặc kẽm catmi có tính
chất phát quang rất mạnh khi bị kích thích bằng ánh sáng có bước sóng ngắn như
tia tử ngoại, tia X (tia rơnghen) v.v...
Áp dụng hiện tượng trên, người ta phủ lên mặt kim và chữ số của đồng hồ
một lớp kẽm sunfua hoặc kẽm catmi trộn lẫn một lượng rất nhỏ chất phóng xạ như
muối rađi hoặc muối mêsôtôri. Nhờ tia phóng xạ (trong đó có tia γ bước sóng rất
ngắn) kẽm sunfua bị kích thích và phát ánh sáng lục rất rõ trong đêm tối. Sau một
thời gian chất phóng xạ rã hết, tia phóng xạ tắt, kim và chữ số đồng hồ cũng hết
sáng.
Lượng chất phóng xạ pha thêm phải rất nhỏ, dưới mức gây nguy hiểm.
17. VÌ SAO ÁNH SÁNG ĐÈN ỐNG LẠI TỎA RA TỪ LỚP CHẤT MÀU
TRẮNG PHỦ Ở THÀNH ỐNG?
Đèn ống thường dùng là đèn chứa hơi thuỷ ngân. Khi xảy ra hiện tượng
phóng điện, hơi thuỷ ngân phát sáng và cho một quang phổ giàu tia tử ngoại.
Những tia tử ngoại này sẽ bị thuỷ tinh hấp thụ gần hết, vả chăng chúng cũng không
có tác dụng trong sự chiếu sáng. Phải làm thế nào để biến đổi tia tử ngoại này thành
ánh sáng nhìn thấy. Người ta phủ kín mặt trong của ống bằng lớp chất huỳnh

quang. Khi bị tia tử ngoại tác dụng chất này sẽ phát quang cho ánh sáng nhìn thấy.
Do đó ta thấy ánh sáng đèn ống tỏa ra từ khắp bề mặt của ống.
Hình vẽ giải thích sự phát sáng của đèn ống.

17


Chú thích : 1. Điện tử phát ra từ điện cực chuyển động với vận tốc lớn cho
tới khi đập vào một nguyên tử thuỷ ngân.
2. Sự va chạm làm bật nguyên tử của thuỷ ngân ra khỏi quỹ đạo bình
thường. Khi trở về quỹ đạo cũ nguyên tử phát xạ tử ngoại.
3. Bức xạ tử ngoại tác dụng vào chất huỳnh quang ở thành ống làm
chất huỳnh quang phát ra ánh sáng nhìn thấy.
Tuỳ theo chất huỳnh quang ta có thể thu được ánh sáng màu sắc khác nhau.
Kẽm silicat phát quang màu lục
Cađimi-borat phát quang màu hồng
Cađimi-silicat phát quang màu đỏ
Magiê-tungxtat phát quang lam nhạt
Canxi-tungxtat phát quang lam
Màu sắc ánh sáng huỳnh quang còn có thể thay đổi nếu pha thêm một lượng
nhỏ chất kích hoạt. Chẳng hạn kẽm-silicat kích hoạt bằng mangan sẽ cho màu
huỳnh quang từ lục đến vàng nếu nồng độ mangan tăng dần.
Người ta có thể pha trộn những chất huỳnh quang trên (theo nguyên tắc trộn
màu ánh sáng) để được những đèn ống đủ loại màu sắc, kể cả màu trắng ứng với
ánh sáng ban ngày.
18. VÌ SAO DÂY TÓC ĐÈN ĐIỆN PHẢI QUẤN XOẮN ỐC ?
Hiệu suất của đèn điện dây tóc tăng theo nhiệt độ của dây tóc. Trong bóng
đèn chân không điện năng tiêu thụ hầu như cân bằng với năng lượng bức xạ.
Nhưng trong các bóng đèn có khí trơ thường dùng hiện nay, một phần quan trọng
điện năng bị mất đi dưới dạng nhiệt do dòng đối lưu của chất khí trong ống.

Theo Langmuya, một trong những những người phát minh đèn điện có khí
trơ, thì sự mất mát nhiệt của sợi dây nung nóng tăng chủ yếu theo chiều dài và tăng
rất ít theo đường kính nung nóng cuả nó. Quấn xoắn ốc dây tóc, đường kính nung
nóng của nó dường như to ra cò chiều dài thì giảm đi. Người ta đã tính rằng, khi
chiều dài của dây quấn xoắn ốc bằng 1/6 chiều dài khi dây duỗi thẳng, sự mất mát
nhiệt do đối lưu giảm đi từ 10 đến 20%.
Một điểm khác cũng quan trọng, là khi quấn dây tóc xoắn ốc, độ sáng của
phần bên trong các vòng dây sáng gấp đôi độ sáng bên ngoài, vì ở bên trong, ngoài
ánh sáng do chính sợi dây phát ra còn có ánh sáng phản xạ từ phần đối diện. Có thể
nói phần bên trong các vòng dây bức xạ như một vật đen. Do đó hiệu suất phát
sáng tăng lên.
Để tăng hiệu suất thêm nữa, người ta còn quấn hai lần xoắn ốc.

18


19. HAI BÓNG ĐIỆN CÙNG MỘT CÔNG SUẤT CÓ CƯỜNG ĐỘ SÁNG
BẰNG NHAU HAY KHÔNG ?
Đèn ống huỳnh quang có hiệu suất lớn gấp vài lần (3-5lần) đèn dây tóc,
nghĩa là khi tiêu thụ cùng một công suất điện như đèn dây tóc, thì phát ánh sáng
nhiều gấp bấy nhiêu lần. Đèn điện dây than có cường độ sáng chỉ bằng 1/3 cường
độ sáng của đèn dây tóc kim loại cùng một công suất. Đèn dây tóc vonfram chứa
khí trơ có cường độ sáng gần gấp đôi đèn không chứa khí, cùng công suất.
Nhưng hai đèn cùng dùng dây tóc vonfram, chứa cùng một khí trơ, dưới
cùng một áp suất, cũng có cường độ sáng khác nhau khi tiêu thụ cùng một công
suất điện, dưới hai hiệu điện thế khác nhau.
Khi hiệu điện thế tăng gấp đôi, chẳng hạn từ 110 vôn lên 220 vôn, muốn giữ
nguyên công suất của đèn phải tăng điện trở của đèn lên gấp bốn lần, đồng thời
giảm một nửa cường độ của đèn. Tăng điện trở của dây, phải làm cho dây nhỏ đi.
Nhưng nếu dây nhỏ mà nhiệt độ của dây vẫn như cũ, thì dây chóng đứt. Để cho đèn

vẫn bền như cũ, phải cho nhiệt độ dây thấp hơn, tức là làm cho cường độ sáng của
đèn nhỏ hơn. Vậy đứng về phương diện thắp sáng, đèn hoạt động dưới hiệu điện
thế thấp lại có hiệu suất cao hơn (tức là phát được nhiều ánh sáng, và ánh sáng
trắng hơn) đèn hoạt động dưới hiệu điện thế cao. Điều này thấy đặc biệt rõ, đối với
đèn công suất nhỏ (dưới 50 W). Vì vậy trong các dụng cụ quang học, như kính hiển
vi, đèn chiếu v.v... người ta thường dùng đèn 6 vôn, 12 vôn.
20. VÌ SAO MẮC MỘT NGỌN ĐÈN Ở GIỮA SÂN ĐỂ ĐỌC SÁCH TA
THẤY KÉM SÁNG HƠN KHI NGỒI ĐỌC SÁCH TRONG PHÒNG VỚI
CÙNG NGỌN ĐÈN ẤY MẶC DẦU KHOẢNG CÁCH GIỮA ĐÈN VÀ SÁCH
NHƯ NHAU ?
Muốn đọc sách ta phải bảo đảm một độ rọi cần thiết. (Độ rọi cần thiết để đọc
sách khoảng 30 lux). Thắp đèn ở ngoài sân để đọc sách thì độ rọi của đèn chỉ do
ánh sáng từ đèn trực tiếp chiếu tới. Nếu thắp đèn trong nhà, thì ngoài ánh sáng trực
tiếp từ đèn, còn ánh sáng tán xạ từ trần nhà, tường cũng ” rọi ” tới trang sách. Do
đó, độ rọi lớn hơn mặc dầu cường độ sáng của ngọn đèn, khoảng cách từ đèn tới
trang sách như nhau.
Chính vì vậy trần nhà thường được quét vôi trắng để tán xạ ánh sáng tốt hơn,
tức là để làm tăng độ rọi trong phòng. Còn tường nhà thường được quét vôi vàng
hoặc lục nhạt để tán xạ ánh sáng vàng, lục dịu mắt (mắt ta dễ nhạy cảm với ánh
sáng vàng hoặc lục nhạt
PHẦN III: KẾT LUẬN
19


Trong điều kiện lịch sử mới, nếu lạc hậu, thiếu những tri thức văn hoá khoa
học tối thiểu, thì có thể bị bưng bít bởi các thứ khoa học giả dối, ngụy tạo, rơi vào
con đường mê tín, mù quáng. Một số hiện tượng Quang học trong đề tài đã được
khoa học giải thích chính xác, giúp ta có thể hiểu đúng bản chất các hiện tượng xảy
ra trong tự nhiên và ứng dụng để giải thích các hiện tượng Quang học tương tự.
Với những kiến thức vốn có và tiếp thu được trong quá trình giảng dạy tôi đã

cố gắng trình bày tương đối hoàn chỉnh cơ sở lý thuyết đề tài.
Do còn thiếu kinh nghiệm và khả năng có hạn, nên chắc chắn đề tài không
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy,
cô giáo. Và hy vọng rằng, đề tài này sẽ là tài liệu giúp các em học sinh yêu thích
môn Vật lý nói chung và phần Quang học nói riêng./.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị :

Thanh Hóa, ngày 02 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Trịnh Thị Hà

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hỏi đáp về những hiện tượng Vật lý, tập IV (phần quang học) - NXB Khoa học
và kỹ thuật. Tác giả : Ngô Quốc Quýnh, Nguyễn Đức Minh.
2. Vật lý vui, quyển 1,2. NXB-GD. Tác giả : IA.I. PÊ-REN-MAN.
3. Vật lý thật lý thú, tập 1,2 . NXB THANH NIÊN. Tác giả: Vũ Bội Tuyền.
4. Bộ sách tri thức tuổi hoa niên. NXB VĂN HOÁ THÔNG TIN.
5. Phương pháp dạy học Vật lý ở trường phổ thông. Tác giả: Nguyễn Đức Thâm
(Chủ biên), Nguyễn Ngọc Hưng, Phạm Xuân Quế.
20


MỤC LỤC
Trang
Phần I: Mở đầu
1/ Lý do chọn đề tài ..............................................................................................1
2/ Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................1

Phần II: Nội dung
I. Cơ sở lý thuyết cơ bản của Quang học và một vài hiện tượng Quang học trong
đời sống ................................................................................................................2
a/ Cơ sở lý thuyết cơ bản ......................................................................................2
b/ Một vài hiện tượng Quang học thường gặp trong đời sống .............................4
II. Phương pháp chung để giải đáp nhanh những câu hỏi điịnh tính Quang học . 7
21


III. 20 hiện tượng Quang học phổ biến trong tự nhiên .........................................7
Phần III. Kết luận .............................................................................................20
Tài liệu tham khảo ..............................................................................................21

22



×