Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

skkn tạo hứng thú học lịch sử lớp 12 bằng hệ thống câu hỏi và trò chơi “ vượt chướng ngại vật” trong bài giảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.63 KB, 29 trang )

1


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LAM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TẠO HỨNG THÚ HỌC LỊCH SỬ LỚP 12
BẰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI VÀ TRÒ CHƠI
“VƯỢT CHƯỚNG NGẠI VẬT” TRONG BÀI GIẢNG

Người thực hiện: Nguyễn Thị Bạch Tuyết
Chức vụ:Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch Sử

THANH HÓA NĂM 2016

2


Môc lôc
NỘI DUNG

TRANG

Phần thứ nhất. MỞ ĐẦU

2

1. Lý do chọn đề tài



2

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Đối tượng nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

3

Phần thứ hai. NỘI DUNG ĐỀ TÀI

4

2.1. Cơ sở lý luận của đề tài

4

2.1.1.Cơ sở khoa học

4

2.1.2. Cơ sở thực tiễn

5


2.2. Thực trạng của đề tài

6

2.3. Các giải pháp thực hiện

6

2.3.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi

6

2.3.2. Các giải pháp cụ thể

7

1. Khai thác hệ thống câu hỏi mở

7

2. Khai thác hệ thống câu hỏi từ nội dung bài học

7

3. Khai thác kỹ năng diễn đạt và tự luận

8

2.4. Giới thiệu một số hệ thống câu hỏi khả dụng.


9

2.5. Trò chơi ”Vượt chướng ngại vật”

14

2.6. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

20

Phần thứ ba. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

21

1. Kết luận

21

2. Kiến nghị

22

3. Tài liệu tham khảo

23

4. Phụ lục

24

3


Phần thứ nhất - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nói chung, chất lượng bộ môn
Lịch sử nói riêng theo tình thần Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khoá XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo”... là nhiệm vụ cấp bách mà mỗi thầy, cô giáo chúng ta cần và
phải làm ngay để đáp ứng yêu cầu thực tiễn trước mắt và lâu dài của nền Giáo
dục nước nhà…
Cốt lõi của vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục là phải phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh và lấy học sinh làm trung tâm, phải chuyển đổi từ
việc “Thầy dạy – Trò học” sang “Trò chủ động khám phá, tìm hiểu và chủ động
tiếp thu kiến thức”. Trong đó người thầy là “Kiến trúc sư” tạo tình huống có vấn
đề một cách tự nhiên, gây sự tò mò, tạo hứng thú trong việc nhận thức tình
huống, nhận thức vấn đề và từ đó giúp học sinh tự mình tìm câu giải đáp cho
vấn đề đặt ra, tự mình giải quyết tình huống đó. Tuy nhiên, nếu không thiết kế,
sử lý khéo léo thì rất dễ dẫn đến việc đổi mới một cách hình thức (chỉ là sự “ẩn
đi” của các phương pháp dạy truyền thống mà thôi!). Bên cạnh đó phải chống
việc học nhồi nhét sẽ chỉ làm môn học càng trở nên nặng nề, mất đi tính hấp dẫn
vốn có trong nội tại của chính môn Lịch sử và làm tê liệt sự thông minh sáng
tạo, hứng thú học tập của học sinh.
Để đạt được kết quả tốt trong quá trình dạy và học trong trường phổ thông
nói chung, môn Lịch Sử nói riêng ta phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy
và học. Nhưng đổi mới thế nào? Câu trả lời sẽ đến từ chính đội ngũ giáo viên và
“sự” học của học sinh khi mà thầy và trò cùng phối hợp và cộng hưởng trong
quá trình dạy và học. Trong đó việc thiết kế, xây dựng hệ thống câu hỏi hấp dẫn,
phù hợp đối tượng học sinh, hình thức đa dạng, phong phú, từ vấn đáp gợi mởi,
tạo tình huống có vấn đề hay dự án, bài tập lớn … được kết hợp khéo léo, nhuần

nhuyễn với cách tổ chức trò chơi mô phỏng các Show game “Hot” hiện nay sẽ
giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tự giác chủ động và ngày càng yêu
thích say mê môn học. Biết học Sử, biết tư duy có phê phán, phân tích những sự
kiện của quá khứ và hiện tại, biết khái quát và tranh luận các vấn đề lịch sử.
Một trong những kỹ thuật quan trọng để phát huy tính tích cực và gây
hứng thú cho học sinh trong giờ học nói chung, giờ học lịch sử nói riêng, đó là
kỹ thuật xây dựng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực và gây hứng thú
cho học sinh trong học tập và kết thúc mỗi vấn đề được đề cập đến bởi trò chơi
4


“Vượt chướng ngại vật”–Trích từ Game show “ĐƯỜNG LÊN ĐỈNH
OLIMPIA”. Quá trình hoạt động này cần có sự thống nhất giữa thầy và trò một
cách nhịp nhàng, chủ động sẽ làm học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình
thành kĩ năng và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và nhân cách đạo đức cho các
em.
Từ nhận thức trên và thực tiễn giảng dạy, quá trình tích lũy kinh nghiệm
của bản thân, tôi xin đề xuất một phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học
nói chung và dạy học Lịch Sử nói riêng bằng đề tài: “Tạo sự hứng thú học
Lich sử lớp 12 bằng hệ thống câu hỏi và trò chơi “Vượt chướng ngai vật”
trong bài giảng”.
Hy vọng rằng sẽ giúp được phần nào cho đồng nghiệp khi thực hiện tiết
dạy môn Lịch Sử 12 đạt hiệu quả cao, học sinh tích cực chủ động việc tiếp thu,
lĩnh hội kiến thức một cách sinh động.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu cách thiết kế hệ thống câu hỏi cho mỗi
bài học và vận dụng trò chơi vào bài giảng và học tập của học sinh từ “Tạo sự
hứng thú học Lich sử lớp 12 bằng hệ thống câu hỏi và trò chơi “Vượt chướng
ngai vật” trong bài giảng”.
3. Phạm vi nghiên cứu:

Học sinh khối lớp 12 trường THPT chuyên và không chuyên theo chương
trình chuẩn và chuẩn kiến thức, kỹ năng ở một số bài học cụ thể.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện tốt đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu hổ trợ.
- Kỹ thuật xây dựng hệ thống câu hỏi theo các mức độ nhận thức:
Nhận biết, thông hiểu, vận dụng.
- Nội dung và kỹ thuật xây dựng ô chữ và cách thức dẫn dắt trò chơi.
- Thao giảng, dự giờ trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá
trình giảng dạy.
- Áp dụng kinh nghiệm phương pháp mới trên lớp.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh và làm bài để từ đó có điều
chỉnh và bổ sung.

5


Phần thứ hai - NỘI DUNG ĐỀ TÀI
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài.
Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo học sinh trở thành
những con người năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức
khoa học hiện đại, biết chủ động lĩnh hội kiến thức và vận dụng những kiến thức
đã học vào thực tiễn, biết yêu Lịch sử dân tộc, hiểu biết cơ bản về lịch sử thế
giới góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, chuẩn bị hành trang cho các
em trong cuộc sống sau này như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
"Dân ta phải biết Sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"
là điều mong muốn của tác giả khi thực hiện đề tài này.
2.1.1. Cơ sở khoa học.
Bản thân lịch sử xã hội loài người và bộ môn Lịch Sử có nhiều ưu thế

trong việc giáo dục thế hệ trẻ và tạo cho họ sự tò mò, hứng thú thật sự. Bởi vì
qua môn học này tầm nhìn của họ đối với cuộc sống quá khứ - hiện tại - tương
lai được mở rộng hơn, họ tìm thấy trong dĩ vãng nhiều câu trả lời xác đáng cho
hôm nay và ngày mai.
Bởi mỗi con người, mỗi sự kiện, mỗi đất nước, mỗi vùng lãnh thể ... đều
có nguồn gốc, có quá trình hình thành, phát triển .... Biết được cội nguồn – hiện
tại và hướng tới tương lai vừa là biết người, biết ta, biết được những gì đã có đã
làm được, chưa làm được để điều chỉnh, để phát huy, để tự hào về đất nước về
con người ... mà từ đó hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Như vậy, có thể khẳng định giáo dục lịch sử nói chung, dạy học Lịch Sử ở
trường phổ thông nói riêng luôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền giáo
dục và xây dựng bản sắc dân tộc, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ để hòa nhập trong
sự phát triển của một thế giới phẳng nhưng vẫn không làm mất đi bản sắc độc
đáo của dân tộc.
Do đó, việc phát triển tư duy gây hứng thú học tập cho học sinh, tạo cho
học sinh sự ham mê tìm hiểu, khám phá về đất nước, con người và trước hết là
học tập tốt khi còn ngồi trên ghế nhà trường là một trong những yêu cầu tất yếu
trong sự ”Dạy” và ”Học” môn Lịch sử nói chung và Lịch sử lớp 12 nói riêng.
Để đạt được, đáp ứng được các yêu cầu trên thì trước hết cần gợi cho học
sinh cách phát hiện vấn đề cần tìm hiểu, hay nói một cách khác “Đặt học sinh
vào tình huống có vấn đê” trên cơ sở dẫn dắt kiến thức, dẫn dắt hoạt động để tạo
sự hứng thú, hấp dẫn trong học tập. Có nhiều hình thức và kỹ thuật để tạo tình
6


huống có vấn đề và giải quyết vấn đề như so sánh, phân tích, đặt câu hỏi sử
dụng các loại tư liệu tham khảo, đồ dùng trực quan, công nghệ thông tin… từ
thấp đến cao tùy theo theo đối tượng học sinh, tùy theo yêu cầu cụ thể của bài
giảng và thực tiễn để xây dựng hệ thống câu hỏi cho phù hợp đối tượng, đạt hiệu
quả trong giảng dạy và học tập …

Khi câu hỏi đặt ra quá đơn giản, chỉ cần trả lời “có” hoặc ”không”,
”đúng” hay ”sai” ... sẽ không giúp ích gì trong việc tạo hứng thú cho hoc sinh.
Trái lại câu hỏi quá khó không vừa sức thì dễ làm các em nản chí, chính vì
vậy hệ thống câu hỏi được lựa chọn phải vừa đóng vừa mở, phải vừa sức, hợp
yêu cầu truyền đạt kiến thức theo hướng lấy học sinh làm trung tâm.
Để đạt được điều đó, giáo viên cần nắm chắc “Lý thuyết tình huống trong
dạy học”, Các “mức độ nhận thức trên cơ sở thang đánh giá của Bloom (1956)”
và ưu, nhược điểm, phạm vi sử dụng của các loại hình câu hỏi tự luận, trắc
nghiệm khách quan …
Tóm lại, mục đích của việc dạy học Lịch sử ở trường THPT không chỉ
giúp cho học sinh hình dung, nhìn nhận quá khứ và ghi nhớ các sự kiện, hiện
tượng của lịch sử mà quan trọng hơn là phải hiểu được lịch sử tức là nắm được
bản chất của sự kiện. Trong phát triển tư duy của học sinh, việc sử dụng các thao
tác lôgic có ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường người giáo viên thường sử
dụng các thao tác chủ yếu như: So sánh để tìm ra sự giống và khác nhau về bản
chất các sự kiện; hay phân tích và tổng hợp giúp học sinh khái quát các sự kiện.
Để thực hiện được các thao tác như vậy có thể dùng nhiều cách, nhiều phương
tiện khác nhau (đồ dùng trực quan, tài liệu giải thích...), song việc hỏi và trả lời
phù hợp với trình độ, yêu cầu của học sinh sẽ đưa lại kết quả khả quan. Đây
cũng chính là một trong những biện pháp rất quan trọng trong giờ dạy học Lịch
sử vì nó phát huy tối đa trí và lực của học sinh.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Là một giáo viên đã dạy học lịch sử lâu năm, tôi đã cố gắng tìm tòi những
cách thức, phương pháp giúp học sinh học bài đạt kết quả. Tôi đề cao việc
hướng dẫn học sinh phương pháp nắm được kiến thức nhanh nhất, sâu sắc nhất
và nhớ lâu bằng những cách thức vừa đơn giản vừa dễ hiểu và có sự gắn kết
logic chặt chẽ; nhờ đó học sinh có thể vận dụng học và làm bài hiệu quả.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc hướng dẫn học sinh xây dựng hệ
thống kiến thức, tổng hợp kiến thức bằng hệ thống câu hỏi và các trò chơi phù
hợp luôn có tác dụng rất lớn, nhất là với một môn học có nhiều sự kiện như môn

Lịch sử. Phương pháp và kỹ thuật ”Xây dựng hệ thống câu hỏi kết hợp nhuần
nhuyễn với trò chơi” sẽ vừa là đòi hỏi, vừa có tác dụng và hiệu quả cao:
- Với giáo viên: Nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học, nâng cao năng lực
7


chuyên môn của mình và đòi hỏi đầu tư nhiều hơn cho chuyên môn, nghiệp vụ.
- Với học sinh: Giúp học sinh nắm được hiểu một cách hệ thống những kíên
thức cơ bản về lịch sử để dễ nhớ, nhớ lâu, hiểu sâu sắc lịch sử và vận dụng làm
bài tập, bài thi hiệu quả.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Thực tế ở các trường THPT hiện nay, đa số học sinh chưa say mê môn
học Lịch Sử mà thường học đối phó, sự say mê và hứng thú thật sự thì chưa có.
Vì vậy, việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu; đa số các
em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời câu hỏi mà phải lệ thuộc vào sách giáo khoa,
hay chỉ nêu một số mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian đó nói lên sự
kiện gì, thậm chí đọc nguyên sách giáo khoa để trả lời câu hỏi. Hoặc các em chỉ
trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản và thường rất lúng túng khi gặp dạng
câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích tại sao hay so sánh .... Vì thế, việc khai
thác tốt hình thức phát vấn đối với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi sẽ khơi
dậy tinh thần tự giác và khả năng sáng tạo của học sinh. Mặt khác, vẫn còn giáo
viên chưa thực sự chú ý đến cải tiến nội dung và phương pháp dạy học. Dẫn đến
sự nhàm chán, học một cách thụ động, dẫn đến chất lượng một số lớp còn thấp,
tỉ lệ học sinh yếu, kém còn nhiều.
Để khắc phục trình trạng trên và nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở
trường, bản thân tác giả đã cố gắng tìm hiểu và áp dụng các phương pháp giảng
dạy, học tập tích cực và mang lại sự hứng thú cho các em. Vấn đề tác giả nghiên
cứu tuy không mới mẻ nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao ý thức
của học sinh trong việc chủ động lĩnh hội kiến thức. Qua đó giúp các em yêu
thích học bộ môn Lịch sử hơn.

Từ những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng của vấn đề nêu trên.
Xuất phát từ mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy học
bộ môn Lịch sử ở trường THPT, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Tạo sự hứng
thú học Lich sử lớp 12 bằng hệ thống câu hỏi và trò chơi “Vượt chướng ngai
vật” trong bài giảng” làm sáng kiến kinh nghiệm dạy học của mình.
Tuy nhiên, vì điều kiện và hạn chế của phạm vi đề tài. Tôi chỉ xin trình
bày nội dung đề tài trong một số bài nhất định.
2.3. Các giải pháp thực hiện đề tài.
2.3.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi.
- Khai thác tốt hệ thống câu hỏi mở;
- Khai thác kho tư liệu từ Intenet, từ tài liệu tham khảo;
- Bám sát lý thuyết hoạt động và các mức độ nhận thức trên cơ sở tâm lý
giáo dục và kiến thức về kỹ năng sống về hiểu biết xã hội;
8


- Nắm chắc sự phát triểm tâm sinh lý lứa tuổi;
- Khái niệm về các mức độ nhận thức Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng;
2.3.2. Các giải pháp cụ thể.
1. Khai thác hệ thống câu hỏi mở.
a. Thiết kế câu hỏi gợi mở để nêu vấn đề trọng tâm của bài học.
Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì
một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào cũng đều xuất phát trong hoàn cảnh lịch sử
nhất định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư
duy của Lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh.
Loại câu hỏi này vừa có thể kiểm tra bài cũ nhanh vừa giúp định hướng
nhận thức cho học sinh. Các câu hỏi đưa ra vào đầu giờ có tác dụng thu hút sự
chú ý, tập trung của học sinh đồng thời huy động năng lực nhận thức của học
sinh vào việc theo dõi bài giảng để tìm câu trả lời của vấn đề đặt ra.
Khi vận dụng khéo léo thì có thể tạo sự định hướng về vấn đề cơ bản,

trọng tâm của của bài học mà học sinh phải nắm được. Đây chính là loại câu hỏi
thường dùng khi dẫn dắt mở đầu cho bài học mới với mục đích là nhằm chuẩn bị
cho việc tiếp thu một sự kiện lịch sử đáng chú ý của bài sắp học.
Mức độ nhận thức của dạng câu hỏi này thường thuộc mức độ Nhận biết.
b. Thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức.
Việc sử dụng loại câu hỏi nêu vấn đề này sẽ làm cho học sinh dễ nhận
thấy bản chất của những sự kiện, hiện tượng lịch sử hay của một giai đoạn Lịch
sử mà các em thấy cần phải chú ý đồng thời cũng tạo ra được tình huống có vấn
đề để học sinh có sự chuẩn bị cho bài học mới và gỡ dần những nút thắt trong
vấn đề được đặt ra.
Mức độ nhận thức của dạng câu hỏi đặt ra ở phần này là Nhận biết mức
cao và thường sử dụng hình thức ”Điền khuyết” hoặc ”Nhiều lựa chọn”
2. Khai thác hệ thống câu hỏi từ nội dung bài học.
a. Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Đây là loại câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ của học sinh. Đồng
thời nó đòi hỏi người Thầy phải biết nhiều sự kiện, địa danh, nhân vật ... và
chuyển đỏi khéo léo để giúp học sinh phát triển trí nhớ.
Đối với loại câu hỏi này cũng cần chia câu hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ,
đồng thời lập các bảng niên biểu và mối liên hệ giữa các sự kiện để học sinh
thuận lợi trong việc theo dõi bài học.
Hình thức câu hỏi thường ở dạng ”Điền khuyết” hoặc câu hỏi ”Ghép đôi”
và mức độ nhận thức được xác định là Thông hiểu mức thấp.
b. Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý
nghĩa lịch sử của sự kiện.
9


Dạng câu hỏi được dùng ở đây thường dành cho đối tượng học sinh trung
bình trở lên. Tuy nhiên, qua quá trình thảo luận nhóm loại câu hỏi này cũng có
thể áp dụng cho đối tượng học sinh yếu, kém và có tính ”Phổ thông”.

Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen nhau giữa các sự
kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Giáo viên cần cho
học sinh thấy rõ được kết quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay
thất bại và ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển của lịch sử.
Hình thức câu hỏi thường được sử dụng là ”Câu đúng – sai”, ”Câu trả lời
ngăn” hoặc ”Câu có nhiều lựa chọn”. Mức độ nhận thức có thể xác định từ Nhận
biết đến Thông hiểu (căn cứ vào nội dung bài học và đối tượng học sinh).
c. Loại câu hỏi so sánh, đối chiếu và liên hệ.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết đặt ra và giúp học sinh giải
quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu
ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, có tác dụng
kích thích tư duy phát triển. Đồng thời với việc hỏi và trả lời câu hỏi phải tạo ra
được mối liên hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là
khi mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời
được? Vì sao không trả lời được? Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu
để các em trả lời. Và lúc đó người giáo viên phải làm nhiệm vụ hướng dẫn học
sinh, khơi gợi tư duy cho học sinh về câu hỏi đưa ra. Làm được điều này cũng là
thành công của người giáo viên trong việc phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả của
quá trình làm việc tích cực giữa thầy và trò.
Hình thức câu hỏi thường sử dụng là ”Câu đúng – sai”, ”câu điền khuyết”,
”Câu ghép đôi”. Mức độ nhận thức thường ở mức Thông hiểu.
3. Khai thác kỹ năng diễn đạt và tự luận.
a. Loại câu hỏi phân tích, giải thích.
Vì đây là loại câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các sự kiện, hiện
tượng lịch sử bao gồm sự giải thích, phân tích có thêm cả những đánh giá nhận
định của học sinh đối với sự kiện hiện tượng lịch sử nào đó. Loại câu hỏi này
thường áp dụng cho những học sinh khá giỏi. Tuy nhiên trong quá trình thảo
luận để đưa ra ý kiến, những học sinh khá giỏi có thể bổ trợ kiến thức cho đối
tượng học sinh trung bình và yếu kém.
Về hình thức thường được sử dụng ở các dạng câu hỏi ”Nhiều lựa chọn” ,

”Câu trả lời ngắn” và ”Tự luận”. Mức độ nhận thức của loại câu hỏi này thường
ở mức Thông hiểu và Vận dụng mức thấp.
b. Loại câu hỏi tổng hợp, đánh giá.
Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi tổng kết một bài học, một
chương hay một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đây cũng loại câu hỏi khó dùng cho
10


học sinh khá, giỏi hay quá trình ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi, ôn thi THPT
Quốc gia. Những dạng câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải độc lập tư duy để tìm ra
hướng giải quyết. Loại câu hỏi này sẽ phát huy được tối đa năng lực sáng tạo
của học sinh.
Hình thức câu hỏi có thể sử dụng hiệu quả là câu hỏi ”Trả lời ngắn”, ”Câu
hỏi điền khuyết”, ”Câu hỏi tự luận” và có thể kết hợp để tạo ra những câu hỏi
mang tính suy luận logic ...Mức độ nhận thức thường được xác định ở mức từ
Thông hiểu mức cao đến Vận dụng mức cao.
Tuy nhiên, bằng cách sắp đặt, thiết kế nội dung một cách hợp lý có thể sử
dụng trong các trò chơi dành cho tất cả các đối tượng học sinh.
2.4. Giới thiệu một số hệ thống câu hỏi khả dụng.
Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài đều có một số câu
hỏi, những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trọng tâm của
phần học, bài học. Đồng thời trên cơ sở của những câu hỏi đó, giáo viên xây
dựng thêm hệ thống câu hỏi của bài học. Để làm được điều này, giáo viên phải
có sự chuẩn bị từ khâu soạn giáo án, phải có dự kiến nêu câu hỏi ra khi nào?
Học sinh sẽ trả lời được đến mức độ nào? Giáo viên phải định hướng và giải
thích cụ thể ra sao?... Như vậy, rõ ràng việc khai thác hệ thống câu hỏi và hình
thức phát vấn trong dạy học là cả một nghệ thuật trong giảng dạy.
Chương trình lịch sử lớp 12 gồm 2 phần: Lịch sử thế giới hiện đại (19452000), lịch sử việt nam 1919-2000. Các phần này kế tiếp chương trình lớp 11, vì
thế khi học tập học sinh không chỉ cần nắm những kiến thức từng giai đoạn,
từng nội dung cụ thể, mà còn phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự kiện trong

sự phát triển chung. Học sinh phải biết sử dụng kiến thức đã học để tiếp nhận
kiến thức mới, biết quá khứ để tìm hiểu hiện tại. Yêu cầu học sinh phải nắm
vững kiến thức cơ bản, bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử, không gian,
thời gian …
2.4.1. Hệ thống câu hỏi Bài 1 (Lịch sử 12): ”Sự hình thành trật tự mới sau
chiến tranh Thế giới thứ hai (1945 – 1949)”;
+ Giáo viên thiết kế hệ thống câu hỏi (Phần I. Hội nghị Ianta (2/1945) và
những thỏa thuận của ba cường quốc) theo trình tự sau:
Câu 1: Trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ hai được hình thành
như thế nào?
(Câu gợi mở - dẫn dắt)
Câu 2: Hội nghị Ianta được triệu tập trong bối cảnh lịch sử nào?
Câu 3: Hội nghị Ianta đã đưa ra những quyết định quan trọng nào?
(Câu trả lời ngắn)
Câu 4: Hãy cho biết nhứng nhận xét của mình vê Hội nghị Ianta?
(Câu tìm hiểu kết quả)
11


Câu 5: Tên thường gọi trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ 2 là gì?
+ Giáo viên thiết lập sơ đồ sau để xây dựng hệ thống câu hỏi giúp học
sinh nắm được toàn bộ kiến thức về tổ chức Liên Hợp Quốc. (Phần II. Sự thành
lập Liên Hợp Quốc)
TỔ CHỨC LIÊN HỢP QUỐC

Hoàn cảnh
- Từ 25 tháng 4
đến 26 tháng 6
năm 1945, 50
nước họp tại Xan

Phranxisco của
Mỹ đã...
- Ngày 24 tháng
10 năm 1945
Hiến chương
chính thức có
hiệu lực và ngày
24/10 hàng năm
là ngày LHQ

Mục đích
- Duy trì hòa
bình an ninh thế
giới.
-Thúc đẩy quan
hệ hữu nghị,
hợp tác giữa các
quốc gia…

Nguyên tắc
hoạt động
- Tôn trọng quyền
bình đẳng giữa
các quốc gia và…
- Tôn trọng toàn
vẹn lãnh thổ và
độc lập chính trị..
- Giải quyết tranh
chấp bằng …
- Không can thiệp

nội bộ…
- Chung sống hòa
bình…

Vai trò
- Là diễn đàn
quốc tế vủa hợp
tác,vừa đấu
tranh nhằm…
- Thúc đẩy hợp
tác trên các lĩnh
vực…
- Giải quyết
tranh chấp giữa
các quốc gia,
khu vực…

Sơ đồ kiến thức về sự thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc
Câu 6: Hoàn cảnh ra đời của tổ chức Liên Hợp Quốc? hay Nguyên nhân nào
dẫn đến sự ra đời của tổ chức Liên Hợp Quốc?
(Câu trả lời ngắn)
Câu 7: Mục đích của Liên Hợp Quốc là gì? hay Tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời
nhằm những mục đích gì? hay Mục đích cao cả của LHQ là gì?
Có thể lựa chọn câu hỏi dạng Nhiều lựa chọn sau: Trong các phương án
sau, phương án nào nêu lên mục đích thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc?
A. Duy trì hòa bình an ninh thế giới.
B. Thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các quốc gia…
C. Phục vụ cho mục tiêu của một cường quốc
D. Hỗ trợ các nước châm phát triển vê kinh tế
(Câu nhiều lựa chọn)

Câu 8: Em biết gì vê những nguyên tắc hoạt động của Liên Hợp Quốc?
- Có bao nhiêu nguyên tắc hoạt động của LHQ?
- Hãy nêu các nguyên tắc mà em biết?
Hoặc lựa chọn cách hỏi sau: Trong các nguyên tắc sau đây, nguyên tắc
nào là nguyên tắc hoạt động của LHQ?
A. Tôn trọng quyên bình đẳng giữa các quốc gia và…
B. Tôn trọng độc lập chính trị và…
C. Giải quyết tranh chấp bằng...
12


D. Không can thiệp nội bộ…
E. Chung sống hòa bình…
F. Giải quyết tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình và thượng tôn
pháp luật
(Câu nhiều lựa chọn)
Câu 9: Nguyên tắc đảm bảo sự nhất trí giữa 5 nước lớn (Liên Xô, Mỹ, Anh,
Pháp, Trung Quốc) có tác dụng gì?
(Câu Phân tích)
Câu 10: Hãy nêu các vai trò của tổ chức LHQ? hay Tổ chức LHQ có những vai
trò gì? Hoặc sử dụng câu hỏi dạng Đúng – Sai sau: Hãy điên Đ vào những câu
nói vê vai trò của LHQ và S vào những câu bạn xác định không phải là vai trò
của LHQ trong các câu được nêu ra dưới đây?
1/ Là diễn đàn quốc tế vủa hợp tác,vừa đấu tranh nhằm…
2/ Thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực…
3/ Giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, khu vực…
4/ Giúp đỡ các dân tộc vê kinh tế, Văn hóa, giáo dục, y tế, nhân đạo ...
5/ Giáo viên chủ động chọn phương án gây nhiễu
+ Giáo viên thiết lập hoạt động nhóm (Phần III. Sự hình thành hai hệ
thống TBCN và XHCN);

Các câu hỏi sau cần sự hoạt động tập thể và kiểm tra khả năng phân tích,
giải thích, tổng hợp kết quả và diễn thuyết (Cho phép kiểm tra KNS của HS).
Câu 11: Việc giải quyết vấn đê nước Đức sau chiến tranh được thực hiện như
thế nào? Tại sao ở Đức lại hình thành 2 nhà nước riêng biệt theo 2 chế độ chính
trị đối lập nhau?
Câu 12: CNXH đã vượt ra khỏi phạm vi một nước (Liên Xô) và trở thành hệ
thống thế giới như thế nào?
Câu 13: Các nước Tây Âu TBCN đã bị Mỹ khống chế như thế nào?
+ Giáo viên điều hành củng cố bài học bằng câu hỏi ghép đôi sau:
Câu 14: Hãy nối thời gian với sự kiện sao cho đúng?
Sự kiện
Thời gian
1- Hội nghị Ianta
a. 10/2/1947
2- Hội nghị San Phranxixcô
b. 17/7 đến 2/8/1945
3- Hội nghị Pốtxđam
c. 4/2 đến 11/2/1945
4- Hội nghị Pari
d. 25/4 đến 26/6/1945
e. 24/10/1945
2.4.2. Hệ thống câu hỏi Bài 17 (Lịch sử 12): "Nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa từ sau ngày 2 - 9 - 1945 đến trước ngày 19 - 12 - 1946";
+ Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức sau:
Câu 1: Thành quả nhân dân ta giành được trong Cách mạng tháng Tám là gì?
Đảng ta, nhân dân ta đã tiến hành xây dựng và bảo vệ chính quyên như thế nào
13


sau Cách mạng tháng Tám?

(Câu hỏi đặt vấn đề - gợi mở)
+ Giáo viên dặt câu hỏi dẫn dắt vào Phần 1. ”Tình hình nước ta sau Cách
mạng tháng Tám 1945”;
Câu 2: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với
những khó khăn gì?
(Câu trả lời ngắn)
Câu 3: Hãy nêu những thuận lợi cơ bản mà ta có được sau Cách mạng tháng
Tám? Thuận lợi nào là quan trọng nhất?
(Câu trả lời ngắn)
Câu 4: Từ những thuận lợi và khó khăn, Đảng-Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân
dân vượt qua khó khăn thử thách như thế nào?
(Câu phân tích-chuyển tiếp)
Câu 5: Theo em, đâu là nhiệm vụ trước mắt cần phải giải quyết cấp bách của
cách mạng nước ta lúc này?
A. Xây dựng chính quyên cách mạng;
B. Giải quyết nạn đói, nạn dốt;
C. Giải quyết khó khăn vê tài chính;
D. Đấu tranh với Trung Hoa Dân quốc và bọn phản động ở miên Bắc.
Câu 6: Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm gì để xây dựng và giữ vững chính
quyên cách mạng?
(Câu hỏi diễn biến)
Câu 7: Kết quả của công tác xây dựng chính quyên có ý nghĩa gì?
Câu 8: Những thành quả đạt được trong việc giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó
khăn vê tài chính?
(Câu hỏi dùng cho hoạt động nhóm)
Câu 9: Bên cạnh việc giải quyết các vấn đê cấp bách trước mắt, Đảng và Nhân
dân ta còn phải đối mặt với những khó khăn, thử thách nào khác? Hãy khoanh
tròn vào kết quả đúng:
A. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ;
B. Đấu tranh với Trung Hoa Dân quốc;

C. Đấu tranh với bọn phản động ở miên Bắc:
D. Kí hòa ước với Pháp để đẩy quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi nước ta;
E. Phương án gây nhiễu khác (giáo viên chọn cho phù hợp)
Câu 10: Trong số các kẻ thù có mặt trên đất nước ta lúc này thì đâu là kẻ thù
nguy hiểm nhất? Vì sao?
Câu 11: Với từng kẻ thù ta đã đối phó như thế nào?
Câu 12: Tại sao ta lại chủ trương tạm thời hòa haonx với quân tưởng?
Câu 13: Nguyên nhân nào dẫn đến Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946? Giải pháp này có
lợi gì cho ta? Tại sao?
Câu 14: Em hãy nêu ý nghĩa của việc ta kí Hiệp định sơ bộ với Pháp?
Câu 15: Trong các câu sau, đâu là sách lược của Đang, Hồ Chí Minh với
Tưởng và Pháp trước và sau 6/3/1946?
14


+ Giáo viên nên sử dụng sơ đồ sau đây để xây dựng hệ thống câu hỏi. Tùy
theo điều kiện, có thể trình bày theo dạng bảng biểu nhằm giúp học sinh sau khi
trả lời được hệ thống câu hỏi sẽ ghi nhớ nhanh hơn, dề dàng hơn.
C©u hái nhËn thøc

Vì sao Đảng, Chính
phủ và Hồ Chí Minh
kí với thực dân Pháp
Hiệp định Sơ bộ
6.3.1946?.

Một là: Đánh Pháp
trước khi Pháp đưa
quân ra Bắc. Như
vậy cùng một lúc

phải đánh cả Pháp
lẫn Tưởng
(cộng với quân Anh,
Mỹ nên đây sẽ là
cuộc chiến rất bất lợi
cho quân ta)

Dù kiÕn tr¶ lêi

C©u hái gîi më

Vì Pháp và Trung
Hoa Dân quốc đã kí
thỏa hiệp chính trị
(28.2.1946). Việc
làm này buộc Đảng
ta phải lựa chọn 1
trong 2 con đường
hành động

1. Việc Pháp và
Tưởng kí hiệp định
chính trị Hoa - Pháp
đặt ra cho Đảng ta
lựa chọn 1 trong 2
con đường nào?
2. Đảng ta lựa chọn
con đường nào? Vì
sao?


Hai là: Hòa với
Pháp để đuổi
Tưởng về nước,
loại bớt một kẻ thù
nguy hiểm, kéo dài
thời gian hòa bình
để chuẩn bị lực
lượng về mọi mặt
chống Pháp sau này

Đảng ta đã lựa chọn
con đường thứ 2 vì
đất nước ta lúc này
vô cùng khó khăn
không thể một lúc
đánh nhau với nhiều
kẻ thù.Bởi lúc này
Pháp đã đưa quân ra
Bắc với danh nghĩa
chính thống

Chẳng hạn việc tổ chức hoạt động nhịp nhàng, có điểm nhấn, cuốn hút
người tham gia khi dạy mục III - Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo
vệ chính quyền cách mạng. Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay
hòa hoãn giữa quân Trung Hoa Dân quốc và Pháp thông qua Hiệp ước Hoa Pháp (28.2.1946). Theo Hiệp ước này Pháp nhường cho Trung Hoa Dân quốc
một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc. Ngược lại Pháp sẽ đưa quân ra
Bắc thay thế quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật
Bản. Điều này đã vi phạm trắng trợn đến chủ quyền của dân tộc Việt Nam.
Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ ta phải có chủ trương, sách lược mềm
dẻo để đối phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù.

Hay khi đưa ra câu hỏi 10, giáo viên có thể cho học sinh thời gian để thảo
luận và hỏi nhiều học sinh để lấy các câu trả lời và giải thích khác nhau của các
em. Tuy nhiên, sau đó giáo viên phải phân tích giúp các em hiểu được:
15


- Đối với 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc: Vào nước ta với danh nghĩa
quân đội Đồng minh để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản. Vì thế,
chúng không dám công khai đánh ta mà chỉ mượn tay sai Việt Quốc, Việt Cách
để kiếm cớ lật đổ chính quyền và tiêu diệt Đảng Cộng sản của ta. Đặc biệt, trong
thời gian này Trung Hoa Dân quốc cũng đang phải lo đối phó với Đảng Cộng
sản Trung Quốc và phong trào cách mạng trong nước nên sớm muộn cũng muốn
rút quân về nước. Vì thế, dù đông nhất nhưng Trung Hoa Dân quốc không phải
là kẻ thù nguy hiểm nhất của cách mạng nước ta lúc này.
- Đối với 6 vạn quân đội Nhật Bản: dù lúc này chúng còn nguyên vũ khí
nhưng tinh thần rệu rã, tê liệt như rắn mất đầu nên cũng không phải là kẻ thù
nguy hiểm nhất.
- Hơn 1 vạn quân Anh ở miền Nam đã đồng lõa và tạo điều kiện cho quân
Pháp tìm mọi cách quay trở lại xâm lược nước ta. Vì vậy, Pháp chính là kẻ thù
nguy hiểm nhất của cách mạng nước ta sau năm 1945.
2.5. Trò chơi ”Vượt chướng ngại vật”.
2.5.1. ”Vượt chướng ngại vật” bằng ”Bí ẩn lịch sử” Bài 11. Tổng kết lịch
sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000.
Trong ôn tập chương hoặc ôn một giai đoạn lịch sử thì việc sử dụng sơ đồ
kết hợp cùng việc tạo dựng trò chơi là rất cần thiết, vì khi đó học sinh có thể
củng cố được kiến thức cơ bản, giúp học sinh hiểu một cách sâu sắc và có hệ
thống. Việc tham gia trò chơi sẽ làm ”mềm hóa” những số liệu cứng nhắc ...
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lý, cần kết hợp với tổng kết
bài học bởi sơ đồ tư duy sau:


Sơ đồ tư duy: Những nội dung chủ yếu của lịch sử Thế giới sau 1945
16


Xu thế hòa hoãn, hòa
dịu trong quan hệ đối
ngoại .
Các nýớc đang ra sức
điều chỉnh chiến lýợc
phát triển lấy kinh tế
làm trọng điểm

Trật tự thế giới đa
cực nhiều trung tâm
đang hình thành.
Xu thế
phát triển
của thế giới
sau chiến
tranh lạnh.

Nhiều khu vực diễn
ra xung đột nội
chiến, tranh chấp
lãnh thổ

Xu thế chung : Hòa bình ổn định, hợp tác phát triển
Giáo viên nên sử dụng trò chơi “Vượt chướng ngại vật” – Trích từ game
show “ĐƯỜNG LÊN ĐỈNH OLIMPIA” (hoặc trò chơi khác có tính tương tự)
để tạo hứng thú cho học sinh đồng thời gây ấn tượng (tạo điểm nhấn) để giúp

học sinh ghi nhớ bài học tốt hơn.
Trò chơi này áp dụng cho phần củng cố bài học. Giúp học sinh nắm lại
một số sự kiện, thời gian trong bài học, đồng thời tạo không khí vui chơi, giảm
căng thẳng của giờ học.
a. Công tác chuẩn bị.
Công tác chuẩn bị là khâu đầu tiên đảm bảo cho sự thành công của một trò
chơi (hay cuộc thi). Công tác chuẩn bị cần đảm bảo những yếu tố:
- Xây dựng kế hoạch tổ chức trò chơi: Kế hoạch phải thật chi tiết, xác định
rõ chủ đề, mục đích – yêu cầu, quy mô thời gian, địa điểm, đối tượng, thành
phần tham gia. Cũng như nội dung chính, thể lệ trò chơi, ban giám khảo, giải
thưởng (nếu có).
- Dựa trên giáo án bài dạy giáo viên xác định rõ phần nào giảng dạy và phần
nào cho các em chơi để học. Giáo viên phải thiết lập hệ thống câu hỏi sao cho
khoa học hợp lí mà học sinh vẫn có thể trả lời nhanh nhất, tiếp thu dễ dàng nhất.
- Giáo viên cần báo cho học sinh biết trước, hướng dẫn cho các em chuẩn bị
bài học ở nhà để khi lên lớp học sinh chủ động tích cựu tham gia vào quá trình
giảng dạy hay các trò chơi mà giáo viên thiết kế. Nên thiết kế trên PowerPoint sẽ
mang lại hiệu quả cao hơn.
b. Tổ chức trò chơi. Thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Hướng dẫn - Giáo viên giới thiệu trò chơi và lựa chọn đội chơi.Chia
lớp làm hai đội (mỗi dãy một đội) hoặc nhiều hơn và đặt tên cho mỗi đội (tên
của mỗi đội cũng cần lựa chọn để phản ánh một cách hình thức nội dung của bài
17


học) đồng thời giới thiệu, phổ biến luật chơi (về thời gian, quyền trả lời, số điểm
cho dòng hàng ngang, điểm từ khóa, cách xác định đội thắng ...);
Bước 2: Tổ chức trò chơi
+Mật mã lịch sử: Có một bức tranh ẩn sau 6 miếng ghép nói về một
sự kiện đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới.

Mỗi miếng ghép tương ứng với một sự kiện lịch sử được nêu ra có chố sai
cần sửa cho đúng hoặc trả lời đúng thông tin lịch sử. Mỗi câu trả lời đúng được
1 điểm và miếng ghép mở ra. Trả lời đúng sự kiện sau 3 miếng ghép được 5
điểm, sau 4 miếng được 4 điểm, sau 5 miếng được 3 điểm. Các câu hỏi gợi ý:
* Câu hỏi 1: Hội nghị Ianta được triệu tập với sự tham gia của 3 cường
quốc trụ cột đã đưa ra nhiêu quyết định quan trọng là tiên đê cho sự hình thành
2 hệ thống chính trị. Đó là các hệ thống chính trị nào?
Đáp án: Hệ thống XHCN và hệ thống TBCN

* Câu hỏi 2: Hãy sử lại câu sau cho đúng: “Sau Chiến tranh lạnh, Mĩ ra
sức thiết lập trật tự đa cực”
Câu đúng: “Sau Chiến tranh lạnh, Mĩ ra sức thiết lập trật tự Một cực”

Câu hỏi 3: “Vào nửa sau những năm 60 của thế kỷ XX, năm nước Đông
Nam Á đã thành lập ASEAN, đó là những nước nào?”
Đáp án: Inddooneexxia, Malaixia, Philippin, Xingapo và Thái Lan.
18


Câu hỏi 4: Hãy sửa lại câu sau cho đúng: “Đông Âu tan giã, hệ thống thế
giới của CNXH không còn tồn tại.”
Câu đúng: “Liên xô tan giã, hệ thống thế giới của CNXH không còn tồn tại.”

Câu hỏi 5: Hãy sửa lại câu sau cho đúng: “Sau Chiến tranh lạnh, thế giới đã
và đang chứng kiến xu thế khu vực hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhưng
chiến tranh, xung đột vẫn diễn ra ở nhiêu nơi.”
Câu đúng: “Sau Chiến tranh lạnh, thế giới đã và đang chứng kiến xu thế
toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhưng nội chiến, xung đột vẫn diễn
ra ở nhiêu nơi.”


19


* Câu hỏi 6: Hãy sử lại câu sau cho đúng:“Sau Chiến tranh lạnh, sự xuất hiện
khủng bố, nhất là sự kiện 11/9/2002 đã tác động mạnh đến tình hình Thế giới.”
Câu đúng:“Sau Chiến tranh lạnh, sự xuất hiện khủng bố, nhất là sự kiện
11/9/2001 đã tác động mạnh đến tình hình Thế giới.”

Trả lời: Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mĩ
Chú ý rằng: Sau mỗi câu hỏi, giáo viên cần nhận xét, công bố kết quả và hoàn
thiện kiến thức vấn đề đó cho học sinh.
2.5.2. ”Vượt chướng ngại vật” bằng ”Ô chữ kỳ diệu”. Bài 27 ”Tổng kết
lịch sử Việt Nam từ năm 1919 – 2000”
Khi tiến hành bài tổng kết, giáo viên dựa vào bảng niên biểu để thiết kế hệ
thống câu hỏi. Do đó cần yêu cầu học sinh tự thiết lập bảng niên biểu, trong quá
trình học sẽ giúp học sinh bổ sung, sửa chữa những điều chưa chính xác trong
bảng niên biểu của các em.
Kết hợp với việc tổ chức trò chơi sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, khắc sâu
hơn kiến thức về những số liệu, cột mốc quan trọng (bản thân trò chơi không thể
bao quát hết kiến thức. Tuy nhiên, ấn tượng về trò chơi sẽ giúp các em “lưu vết”
về bài học đó trên vỏ não – Rất tốt)
Bảng niên biểu tổng hợp những sự kiện lớn trong tiến trình phát triển lịch
sử Việt Nam từ 1930-1991 như sau:
Thời gian
Sự kiện chính
1930
1930-1931
1936
1941


Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
Cao trào cách mạng 1930-1931 và sự thành lập Xô Viết Nghệ- Tĩnh
Thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương
Bác Hồ về nước và chủ trì Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8
20


1945
1946
1951
1954
1959-1960
1960
1968
1973
1975
1976
1981
1986
1991

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời
Tổng tuyển cử bầu quốc hội; Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược
Đại hội lần thứ II của Đảng- Đại hội kháng chiến thắng lợi
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; Hội nghị Giơnevơ về việc lập lại hòa
bình ở Đông Dương. Miền Bắc xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục cách
mạng DTDCND
Miền Nam Đồng khởi
Đại hội lần thứ III của Đảng

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt tết Mậu Thân 1968
Hiệp định Pari
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 ở miền Nam, cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Việt Nam hoàn toàn độc lập
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng

Tổ chức trò chơi “Ô chữ kỳ diệu”:
+ Về công tác chuẩn bị, tổ chức và hướng dẫn trò chơi tương tự như 2.5.1.
+ Việc thiết kế câu hỏi để có ô chữ trò chơi ”Vượt chướng ngại vật” nên xuất
phát từ yêu cầu giúp học sinh hiểu và ghi nhớ những sự kiện lớn trong tiến trình
lịch sử Việt Nam từ 1930 đến 1991. Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi, trong
đó quan trọng nhất là lựa chọn từ khóa.
Tiến hành trò chơi: Chia lớp thành các nhóm và cử đại diện tham gia trả lời
6 câu hỏi để tìm cách vượt qua một chướng ngại vật, là 1 câu thành ngữ, tục
ngữ, tên đồ vật, tên địa danh, nhân vật nổi tiếng ... (chướng ngại vật không bị
giới hạn bởi số chữ cái). Các câu hỏi hàng ngang đều có liên quan đến chướng
ngại vật nói trên về nhiều khía cạnh. Trả lời đúng mỗi từ hàng ngang được 10
điểm. Học sinh lựa chọn hàng ngang nếu trả lời sai sẽ bị loại khỏi trò chơi này.
Ô mạo hiểm: Là một gợi ý rất gần chướng ngại vật của chương trình. Ô mạo
hiểm chỉ xuất hiện 1 lần duy nhất trước khi trả lời các từ hàng ngang và chỉ trả
lời ô mạo hiểm trong vòng 30 giây, nếu sai sẽ bị loại khỏi vòng thi này và trừ đi
một nửa số điểm hiện có.
+ Mật mã lịch sử hay từ khóa: Gồm 06 chữ cái: BẾN TRE
- Các câu hỏi gợi ý:
* Ô hàng ngang số 1; gồm 06 chữ cái: Đây tên người trực tiếp chỉ đạo phong
trào đồng khởi ở Miên Nam những năm 60 của thế kỷ XX?
* Ô hàng ngang số 2; gồm 08 chữ cái: Đây là thế của ta ở Miên Nam từ sau

phong trào đồng khởi năm 1960?
* Ô hàng ngang số 3; gồm 08 chữ cái: Đây là cụm từ chỉ hành động khi các
tầng lớp nhân dân nhất tê đấu tranh?
* Ô hàng ngang số 4; gồm 10 chữ cái: Đây là loại vũ khí thô sơ có ở bất cứ
nơi đâu ở Miên Nam mà nhân dân có thể tự trang bị cho mình để đánh Mĩ –
Ngụy?
21


* Ô hàng ngang số 5; gồm 07 chữ cái: Đây là một trong những địa phương
nổi dậy đấu tranh vũ trang (vào tháng 8 năm 1959)?
* Ô hàng ngang số 6; gồm 08 chữ cái: Theo nghị quyết của Hội nghị này,
Việt Nam bị chia cắt thành hai miên Nam – Bắc?
- Câu hỏi ô mạo hiểm: Đây là quê hương của những sản phẩm nổi tiếng từ
Dừa?

Tóm lại: Sử dụng hệ thống câu hỏi kết hợp trò chơi cùng các kỹ thuật
khác nhau như: Lập sơ đò tư duy, lập bảng niên biểu, sử dụng hình vẽ, tranh ảnh
trong sách giáo khoa và sử dụng các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh
tự sưu tầm, tự làm, bổ sung cho sách giáo khoa là một điều hết sức cần thiết có
tác dụng lớn lao trong dạy học lịch sử.
2.6. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy ở các năm học 2014 – 2015 và 2015 – 2016, tôi
đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả
rất khả quan. Tôi nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với
chương trình sách giáo khoa mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học
sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu
biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến
thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu
thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt

được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này
hơn.
* Kết quả cụ thể của năm học 2014 - 2015:
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp Sĩ số
SL
% SL
% SL
% SL
%
SL
%
12N 31
13 41,94
18 58,0
0
0
0
0
0
0
6
12H 42
18 42,86
24 57,1
0

0
0
0
0
0
4
22


12S

30

14 46,67

16

53,3
0
0
3
12P
32
15 46,88
17 53,1
0
0
2
* Kết quả cụ thể của năm học 2015 - 2016:
Giỏi

Khá
TB
Lớp Sĩ số
SL
% SL
% SL
%
12V 39
33 84,62
6 15,3
0
0
8
12Đ 25
19 76,00
6 24,00
0
0
12H 37
26 70,27
11 29,73
0
0
12S
34
23 76,6
11 32,3
0
0
5

5
12A 36
31 86,11
5 13,89
0
0

0

0

0

0

0

0

0

0

Yếu
SL
%
0
0

Kém

SL
%
0
0

0
0
0

0
0
0

0
0
0

0
0
0

0

0

0

0

* Bài học kinh nghiệm:

Khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong quá trình giảng dạy, bản
thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo và phân bổ thời
gian hợp lí để học sinh tiếp nhận thông tin một cách thuận lợi nhất.
- Sử dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung bài dạy tùy theo
khối lớp và đối tượng học sinh mà vận dụng.
- Khi nêu câu hỏi giáo viên cố gắng sử dụng các câu hỏi ngắn, gọn, đủ ý,
đơn giản dễ hiểu gợi sự suy nghĩ và tư duy của học sinh. Không nên sử dụng
câu hỏi "có” hay “không” và "đúng” hay "sai” mà phải sử dụng câu hỏi phát
huy tính độc lập tư duy ở các em.
- Khi tổ chức cho học sinh tiếp nhận thông tin, giáo viên chú ý sử dụng
câu hỏi gợi mở để giải quyết những vấn đề trọng tâm của bài học. Cần kết hợp
các phương tiện dạy học khác như đồ dùng trực quan, hình ảnh, lược đồ... và
các thao tác sư phạm để nâng cao hiệu quả giờ dạy.
- Ngoài việc nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, giáo viên phải thường xuyên
nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để xây dựng các câu hỏi trong các tiết dạy
và vận dụng linh hoạt chúng đối với mỗi loại đối tượng học sinh.
- Cần tạo cơ hội cho học sinh trong cả lớp trả lời thông qua phương pháp
thảo luận nhóm. Tránh việc trình bày nhồi nhét làm cho không khí giờ học
căng thẳng, nặng nề khiến các em sợ học. Việc tạo ra một giờ học với không
khí thoải mái, nhẹ nhàng cũng là một trong những điều kiện tạo nên một giờ
dạy thành công.
Phần thứ ba – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc khai thác hình thức phát vấn học sinh trong dạy học môn Lịch sử
được vận dụng hiệu quả trong các tiết học sẽ giúp học sinh đạt được kết quả học
tập cao nhất về tất cả các mặt giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. Đây là hoạt
23



động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm giúp cho học sinh độc lập lĩnh hội kiến
thức một cách thông minh và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế (học tập
và cuộc sống). Điều này đòi hỏi người giáo viên phải có ý thức học hỏi và tinh
thần trách nhiệm cao trong nghề nghiệp. Người giáo viên luôn luôn phải rèn
luyện nghiệp vụ thường xuyên, nắm vững lý luận và chuyên môn để nêu ra và
hướng dẫn giải quyết những câu hỏi thông minh nhất.
Vì điều kiện và phạm vi đề tài, tôi chỉ trình bày quan điểm của mình trong
việc sử dụng các loại câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học Lịch Sử ở trường THPT vào một số nội dung cụ thể trong chương trình
Lịch sử lớp 12. Hy vọng góp một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên và học
sinh trường THPT chuyên Lam Sơn nói riêng, các đồng nghiệp và học sinh các
trường bạn nói chung thực hiện phương pháp vận dụng những câu hỏi nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh để đạt kết quả cao hơn trong học tập.
2. Kiến nghị
Hiện nay trong các nhà trường THPT đã được cấp rất nhiều các thiết bị
dạy học. Tuy vậy, đối với bộ môn Lịch sử thì đồ dùng thiết bị còn rất ít và sơ
sài. Vì thế, để đạt được kết quả cao trong bộ môn này theo tôi cần có những
yêu cầu sau:
- Thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử, tranh
ảnh của các nhân vật lịch sử.
- Đặc biệt, để nâng cao hiệu quả dạy và học bộ môn này cần phải bổ sung
cho giáo viên một số tư liệu, tài liệu về phương pháp dạy học môn Lịch sử hay
một số bài dạy mẫu để giáo viên có thể học hỏi những kinh nghiệm của đồng
nghiệp.
- Về phía học sinh, cần có các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử, có thể là cuộc
thi tìm hiểu về tên trường... Hay tổ chức cho các em cuộc thi sáng tạo và sử
dụng đồ dùng dạy học ở bộ môn Lịch sử.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy
Lịch sử lớp 12. Sáng kiến không tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được
sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Bạch Tuyết

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Sách giáo khoa Lịch sử 12, Nxb Giáo
dục, năm 2011.
2. Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Sách giáo viên Lịch sử 12, Nxb Giáo
dục, năm 2008.
3. Phan Ngọc Liên, Nguyễn Xuân Trường (đồng chủ biên), Hướng dẫn
thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử lớp 12, Nxb Giáo dục, năm
2009.
4. Phan Ngọc Liên, Một số chuyên đề về phương pháp dạy học Lịch sử ở
trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, năm 2000.
5. Nguyễn Hỉa Châu, Nguyễn Xuân Trường, Giới thiệu giáo án Lịch Sử
12, Nxb Hà Nội, năm 2008
6. Trần Văn Trị, Phương pháp dạy học Lịch sử, Nxb Giáo dục, năm 2000.
7. Nguyễn Văn Hồng, Mấy vấn đề về lịch sử Châu Á và lịch sử Việt Nam
một cách nhìn, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội, năm 2001.
8. Kịch bản thi “Đường lên đỉnh Olimpia” VTV# - Đài truyền hình Việt
Nam

9. Website: baigiangdientu.violet.vn

25


×