Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Các biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.83 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC
CỦA HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM BẬC THPT

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác Chủ nhiệm

THANH HOÁ NĂM 2016


MỤC LỤC
Mục
1

Nội dung

Trang

MỞ ĐẦU

3

1.1.

Lí do chọn đề tài



3

1.2.

Mục đích nghiên cứu

3

1.3.

Đối tượng nghiên cứu

4

1.4.

Phương pháp nghiên cứu

4

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

5

2.1.

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

5


2.2.

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

7

2.3.

Các giải pháp đã sửa dụng để giải quyết vấn đề

9

2.4.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

12

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

13

3.1.

Kết luận

13


3.2.

Kiến nghị

13

2

3

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong việc bàn về vấn đề tự học, tự sáng tạo của học sinh (HS), Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy,
sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh”.
Đối với khoản 2, Điều 5, chương I của Luật giáo dục nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng
cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên”.
Trên thực tế cho thấy tự học là hoạt động tất yếu gắn liền với quá trình
học tập. Nhưng thái độ, kỹ năng, phương pháp tự học của từng HS là khác nhau

dẫn đến chất lượng học tập cũng khác nhau. Do đó, nâng cao năng lực tự học
cho HS là một việc làm cần thiết và quan trọng của các nhà trường. Hoạt động
học tập là một thành tố của quá trình dạy – học. Cho nên phương pháp dạy học,
nội dung dạy học, điều kiện và môi trường dạy học ảnh hưởng đến quá trình học
tập và năng lực tự học của HS. Vì vậy, trong quá trình quản lý dạy – học phải
hướng đến mục tiêu quan trọng là quản lý hoạt động tự học (HĐTH) nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Có thể nói rằng , hiện nay ở trường THPT có nhiều học HS thực hiện tự
học không đúng mục đích, đầu tư thời gian cho những trò chơi vô bổ như game
online, chat, ... Sự biểu hiện yếu kém trong nhận thức, thái độ cũng như kỹ
năng, phương pháp và năng lực tự học. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp
giảng dạy của giáo viên (GV) chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới của giáo dục
trung học phổ thông (THPT). Những ảnh hưởng chủ quan về nhận thức và tay
nghề của đội ngũ GV, về ý thức trách nhiệm của gia đình và HS cần phải được
phân tích nhằm xây dựng các biện pháp thích hợp, giải quyết tốt các mâu thuẩn
giữa lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo nhằm nâng cao năng lực tự học cho HS.
Xuất phát từ vai trò, vị trí của bản thân và nhu cầu HĐTH hiện nay của
HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi, tôi thực hiện sáng kiến kinh
nghiệm với đề tài: “Các biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh
lớp chủ nhiệm bậc THPT ”, với mong muốn góp phần xây dựng các biện pháp,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về học tập của HS, giảng dạy của GV và công tác
quản lý việc tự học của lớp chủ nhiệm bậc THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn quản lý dạy học và thực trạng
HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi, xác lập các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng tự học của HS.
3



1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động tự học nhằm nâng cao chất lượng tự học
của HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi
Quá trình quản lý đối với HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi
Chủ thể quản lý HĐTH gồm giáo viên chủ nhiệm (GVCN), giáo viên bộ
môn (GVBM), Cha mẹ học sinh (CMHS) và sự phối hợp các tổ, nhóm cá nhân
học sinh đang học tập tại lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi.

4


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trên thực tế , nói đến học tập là nói đến hình thức dạy - học và tự học.
Việc học phải đi đôi với việc dạy và việc dạy phải hướng đến người học, đó là
quá trình tương tác giữa GV và HS. Xét cho cùng, trong quá trình dạy học là
giúp HS tự học để hoàn thiện và phát triển nhân cách của cá nhân nhằm đáp ứng
với các chuẩn mực và nhu cầu trong sự phát triển chung của thời đại. Tự học gắn
với cuộc đời của mỗi con người. Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục
đã đề cập đến vấn đề tự học dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trên thế giới
Ngay từ thời cổ đại, Khổng Tử , Aristot là các nhà sư phạm kiệt xuất đã
cho rằng: Dạy và học là phải trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức của HS
và đòi hỏi HS phải biết kết hợp với suy nghĩ, biết năng động trong học tập. Cần
cố gắng gợi mở để HS tự học trong hoạt động học tập của mình.
- Đến thời cận đại, nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc Komenxky đã
khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng”.
Năm 1657, ông đã hoàn thành tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại” trong đó nêu rõ:
“Việc học hành, muốn trau dồi kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà
phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên phù hợp với trình độ”.

Trong giai đoạn hiện đại, các nhà giáo dục học đi sâu nghiên cứu khoa
học giáo dục và đã khẳng định vai trò to lớn của tự học Rousseau khi xây dựng
quan điểm dạy học cũng cho rằng: “cần hướng cho học sinh tự nắm lấy kiến
thức bằng cách tự tìm hiểu, tự khám phá, tự tìm tòi và sáng tạo,...”
Như vậy, tự học như là một phương thức để con người lĩnh hội tri thức của
nhân loại. Từ những thập niên 30 – 40 của thế kỷ XX, trong cuốn “Giáo dục vì
cuộc sống sáng tạo” nhà sư phạm nổi tiếng Makiguchi Cho rằng “Giáo dục xét
như một quá trình hướng dẫn tự học, động lực của nó là kích thích người học sáng
tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng”.
Ở Việt Nam
Truyền thống hiếu học và tự học đã được khẳng định qua các vị khoa
bảng như Nguyễn Du, Chu Văn An, Lê Quý Đôn... Các thế hệ cha ông chúng ta
đã vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức bằng nổ lực học tập và tự học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một
tấm gương sáng về tinh thần tự học và tự rèn luyện. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác Hồ đã căn dặn: “Về
cách học, phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo thêm vào”. Tư tưởng
của Người về giáo dục đã được vận dụng, quán triệt trong các Nghị quyết của
Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II – Ban Chấp hành Trung ương (BCH TW)
Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học… nâng cao khả
năng tự học, tự nghiên cứu của người học”, “Phát triển phong trào tự học, tự đào
tạo thường xuyên, rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên...”.
Khi phát biểu chỉ đạo đối với ngành giáo dục, Nguyên Tổng bí thư Trung
ương Đảng Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Tự học – tự đào tạo là con đường phát
5


triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay
và cả mai sau; đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam. Chất
lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra năng lực tự học, sáng tạo

của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
Có thể nói rằng ,đã từ lâu tự học đã được bàn luận và quan tâm của rất
nhiều nhà khoa học, quản lý giáo dục.
Cơ sở thực tiễn về HĐTH của HS ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi
Đa số học sinh trường THPT Nguyễn Thị Lợi còn những hạn chế sau:
– Chất lượng tuyển vào lớp đầu cấp quá thấp về học tập.
– Thói quen thụ động trong quá trình học tập, quen nghe, ghi, chép, nhớ và
tái hiện lại những gì giáo viên nói.
– Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học, nên kiến thức của hầu
hết HS tỏ ra hẫng hụt ngay từ đầu năm học, không nắm được các kiến thức đã
học một cách hệ thống và khoa học và hầu như không vận dụng được kiến thức.
– Giai đoạn chuẩn bị hoạt động tự học (lập kế hoạch, xác định mục đích
nhiệm vụ tự học, tiến trình và thời gian cho hoạt động tự học) đa số HS không
thực hiện được.
Để tìm hiểu thực tế về việc lập kế hoạch tự học của HS, bản đã tiến hành
điều tra, quan sát, trò chuyện, trao đổi, thống kê... với một số HS và GV. Kết quả
nhận được:
*Ý kiến tự đánh giá của HS: Có 70% HS tự nhận là có lập kế hoạch tự
học; trong đó:
- Có đến 79% HS tự làm kế hoạch.
- Còn lại 21% HS có sự giúp đỡ của GV, lớp, cha, mẹ, anh, chị.
*Ý kiến của GV: Có 30,4% GV cho rằng HS có lập kế hoạch tự học.
Trong đó:
- HS lập kế hoạch tự học từng ngày: 68 %
- HS lập kế hoạch tự học từng tuần: 22 %
- HS lập kế hoạch tự học từng tháng: 2,5 %
- HS lập kế hoạch tự học từng học kỳ:
4%
- HS lập kế hoạch tự học từng năm học: 3,5%
Về mức độ thực hiện kế hoạch đó:

- Thực hiện 100% kế hoạch đã vạch ra:
2,1%
- Thực hiện 70% kế hoạch đã vạch ra:
28,9%
- Thực hiện 50% kế hoạch đã vạch ra:
42%
- Chưa thực hiện:
27%
Qua ý kiến GV và tự đánh giá của HS cho thấy có sự chênh lệch về việc
HS có lập kế hoạch tự học hay không lập kế hoạch.
Hầu như các em nhận thức được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch tự
học, nhưng các em chưa có kỹ năng lập kế hoạch tự học. Do đó, hướng dẫn và
rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch tự học cho HS là một vấn đề mà GVBM và
GVCN cần quan tâm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
6


Qua điều tra có 70% HS tự học một mình. Trong đó có một số tự học theo
ngẫu hứng, một số có vạch kế hoạch học môn gì và nội dung tự học do chính
bản thân tự xác định. Tự học theo hình thức này có rất nhiều em gặp nhiều câu
hỏi không trả lời được và mất nhiều thời gian để tìm câu trả lời, có lúc bế tắc,
gián đoạn việc tự học và không hứng thú.
Có 51% HS học theo nhóm bạn, thảo luận những vấn đề về môn học mà
cá nhân không tự giải quyết được. Hình thức này đã mang lại hiệu quả và phát
huy cao tính tổ chức, kỹ luật. Kết quả mang lại là các bạn trong nhóm hiểu sâu
hơn, nhớ lâu hơn các vấn đề cần giải quyết của bài học cũng như rèn luyện được
tính độc lập, tự chủ và hợp tác nhóm.
Thực tế cho thấy HS có thói quen ngày mai học môn gì thì hôm nay học
môn đó, chưa xếp lịch tự học hợp lí, không có mục đích đặt ra từ trước, không

có ý chí tự mình phải khép vào khuôn khổ thực hiện việc học tập, thích thì học
và không thích thì thôi. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng tự học của HS.
Thực trạng về tiến trình thực hiện hoạt động tự học và thời gian tự học
của lớp chủ nhiệm với sĩ số 45 em
Bảng Đánh giá thực trạng tiến trình tự học
Mức độ
Không
Thường
Không bao
TT Tự học của HS được tiến hành
thường
xuyên
giờ
xuyên
SL
% SL
%
SL
%
1 Học vào lúc sáng sớm
45
40
45
49
45
11
2 Học vào lúc rãnh rỗi
45
78
45

22
45
10
3 Học vào lúc đêm khuya
45
10
45
30
45
30
4 Học khi chuẩn bị kiểm tra và thi
45
80
45
33
45
2
5 Ngày sau có giờ, có bài liên quan
45
61
45
28
45
7
Qua bảng khảo sát trên, chúng ta thấy rằng có đến 80% HS sử dụng thời
gian tự học khi chuẩn bị cho kiểm tra, thi cử; có đến 70% tự học khi rãnh rỗi và
61% tự học khi ngày sau có giờ, bài liên quan là thường xuyên. Bên cạnh đó, có
đến 10% là không bao giờ học lúc rãnh rỗi và 2% không bao giờ học khi chuẩn
bị thi và kiểm tra. Điều này cho thấy một số em hầu như không có ý thức tự học
ngoài giờ lên lớp và không có sự quan tâm nhắc nhỡ của mọi người trong gia

đình.
Qua trao đổi với một số GV, đa số cho rằng việc sử dụng quỹ thời gian
cho HĐTH hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong qua trình đổi mới
phương pháp dạy học. Việc dạy thêm, học thêm của một số bộ môn do nhiều
nguyên nhân khác nhau đã lấy đi nhiều thời gian của các em, nên quỹ thời gian
còn lại là rất ít chỉ đủ để xem lại lý thuyết bài cũ, bên cạnh đó thì một số em chỉ
biết giải trí chơi đùa qua phim ảnh, internet... và có chăng tự học chỉ đủ để nhằm
đối phó với kiểm tra và thi cử.
7


Những HS khá, giỏi thì việc tự học ở nhà cũng như trên lớp hay học thêm
đều đạt mức độ khá tốt. Khả năng vận dụng tư duy chỉ tập trung ở các em có học
lực giỏi. Tính tự lập trong học tập của các em là rất cao, biết cách tự học trong
mọi hoàn cảnh, chịu khó suy nghĩ và tích cực học tập.
Đa phần HS còn thụ động, không chịu khó suy nghĩ, thời gian dành cho
học thêm quá nhiều mà lại không tích cực trong học tập. Nhiều HS chạy theo
phong trào học thêm với bạn bè nhưng không có mục đích, không tự mình vận
dụng trí tuệ, tri thức để giải quyết các bài tập cũng như không có thời gian để
hấp thu bài giảng trên lớp. Sự ỷ lại trong học tập nhờ vào học thêm ở các thầy
cô, mong muốn trúng tủ khi kiểm tra đạt điểm cao mà không quan tâm đến
HĐTH của bản thân. Điều này, làm cho các em không nắm chắc kiến thức, sự
hỏng kiến thức càng ngày càng tăng lên.
Khảo sát thực trạng về hoạt động tự học của học sinh
Kết quả điều tra cho thấy việc sử dụng các phương pháp vận dụng kiến
thức để giải bài tập, hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề cương và
học theo đề cương, tự kiểm tra và đánh giá kết quả tự học chỉ sử dụng thỉnh
thoảng. Những phương pháp này chỉ được sử dụng chủ yếu khi kiểm tra 1 tiết,
thi học học kỳ và một số em là chưa bao giờ sử dụng các phương pháp này
chiếm 16%. Điều này cho thấy sự hứng thú trong học tập của một số đông HS

chưa chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tòi trong quá trình tự học, không
phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết phân tích,
tổng hợp các vấn đề của bài học để nắm lấy cốt lỏi, trọng tâm qua từng bài học.
Qua trao đổi một số HS có học lực khá trở lên các em đưa ra một số nhận
định:
- Đối với các môn tự nhiên thì GV giảng dạy yêu cầu tự học cao quá nên
phải đi học thêm và không còn thời gian để tự học.
- Đối với các môn xã hội thì chỉ cần học thuộc bài trước khi đến lớp và
soạn bài như SGK là đủ và chỉ học đối phó khi chưa có điểm miệng mà thôi.
Còn đối với những HS trung bình – yếu thì các em do hỏng kiến thức, trong khi
lên lớp thì GV chỉ tập trung hoàn thành tiết dạy mà chưa có sự động viên khuyến
khích cũng như giúp đỡ. Nên không có hứng thú trong từng môn học và không
quan tâm đến kết quả học tập của mình.
Qua trao đổi với một số GV hầu hết cho biết HS có học bài ở nhà, làm bài
theo yêu cầu của GV nhưng chỉ nhằm đối phó khi kiểm tra. Phần lớn HS chỉ học
thuộc những phần mà được ghi chép ở trong vở hay trong SGK. Những vấn đề
yêu cầu cần mở rộng về phân tích, tổng hợp hay vận dụng kiến thức để chứng
minh diễn giải một vấn đề thì HS lúng túng, chỉ có vài em có được khả năng
này. Tất cả các bộ môn học thì HS chỉ có thói quen học thuộc lòng. Phần lớn HS
chưa gắn kết giữa lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào thực hành bộ môn. Các
hoạt động tự nghiên cứu ít được HS sử dụng.
* Từ thực trạng này, với vai trò là giáo viên chủ nhiệm đồng thời cũng như
giáo viên trực tiếp giảng dạy các em cần phải có những yêu cầu học sinh một số
quy định về học tập bộ môn nhằm từng bước xây dựng nền nếp và thói quen tự
8


học. Những quy định về nếp tự học có khá nhiều. Ở đây, chỉ đề cập những vấn
đề chủ yếu, có tính nguyên tắc, được coi như tổ chức, phương pháp, biện pháp
có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quá trình học tập của học sinh.

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Vấn đề cần đặt ra:
Với yêu cầu cấp thiết: Làm sao xây dựng học sinh tự học linh hoạt, sáng tạo,
giúp các em có cách tự học, tự nghiên cứu để đạt kết quả tốt. Do đó, với tư cách là
người quản lý trực tiếp của các em tôi chỉ tập trung và một số biện pháp quản lý
của GVCN đối với các hoạt động hình thành phương pháp và kỹ năng tự học cho
HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi.
Trong từng tiết học, nhiệm vụ của học sinh là phải tập trung học tập, phối hợp
chặt chẽ với giáo viên xây dựng nếp tự học, ý thức học tập để cảm nhận một cách
nhanh và tự tin trước lớp. Mạnh dạn đóng góp ý kiến, suy nghĩ của mình và tiết học
sinh động. Để phát huy nếp tự học của học sinh trong giờ học chính khóa, phụ đạo,
mỗi giáo viên phải thiết kế điều hành giờ dạy có khoa học logic theo hướng chủ
động khám phá của HS, chính bản thân giáo viên phải chủ động và sáng tạo để
khơi dậy sự hoạt động tích cực, sáng tạo của tất cả học sinh “tự học”. Nói chung
người giáo viên tổ chức thao tác như thế nào để học sinh thực hiện được và vận
dụng, chứ không chỉ đạo chung chung.
Ngoài giờ học chính khóa, cần phải có sự quan tâm động viên của nhà trường
– gia đình – xã hội để các em có sự phân bố thời gian tự học, xây dựng kế hoạch và
thực hiện kế hoạch tự học một cách có ý thức và thường xuyên.
2.3.2. Một số biện pháp thực hiện:
Đây là các biện pháp tác động trực tiếp đến HS nhằm hình thành kỹ năng
và phương pháp tự học. Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là
tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Bước đầu trong tự học thường
lúng túng, nhưng chính lúng túng lại là động lực thúc đẩy HS tư duy để thoát
khỏi sự lúng túng và thành thạo lên. Khi đã thành thạo thì thường phát hiện vấn
đề cần phải giải quyết để từ đó hình thành kỹ năng tự chiếm lĩnh tri thức. Nhân
tố quan trọng để tự học đạt được kết quả tốt là hình thành và rèn luyện các kỹ
năng, phương pháp tự học.
*Mục tiêu các biện pháp
Để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, mỗi HS cần tự

rèn luyện phương pháp tự học. Đây vừa là phương pháp nâng cao hiệu quả học
tập, vừa là là mục tiêu quan trọng trong học tập. Phương pháp tự học sẽ trở
thành cốt lõi của phương pháp học tập. Đồng thời các em cũng rèn luyện các kỹ
năng tự học bộ môn mới đạt được hiệu quả cao.
GV cần nắm vững được hệ thống các kỹ năng, phương pháp tự học. Trên
cơ sở đó có thể vận dụng các kỹ năng trong công tác tự học, tự nghiên cứu một
cách khoa học. Từ nắm vững các kỹ năng tự học, GV hướng dẫn cho HS hình
thành và phát triển vững chắc các kỹ năng tự học. Từ đó HS có thể lựa chọn,

9


phối hợp các phương pháp tự học khoa học để hoàn thành các nhiệm vụ học tập
ở mức độ cao nhất.
Cần phải đổi mới phương pháp dạy học là nhằm tích cực hoá HĐTH, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực của HS.
Rèn luyện cho HS có thói quen, phương pháp học, kỹ năng học, biết tự
lực phát hiện vấn đề và giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi.
Hình thành cho HS động cơ thái độ học tập nghiêm túc, nâng cao trách
nhiệm trong học tập, có ý thức tự giác, nhu cầu và thói quen tự kiểm tra, đánh
giá. Hình thành được một môi trường học tập, thi đua sôi nổi và thúc đẩy nhau
cùng tiến bộ.
*Các biện pháp
Biện pháp 1: Đổi mới công tác quản lý về hoạt động tự học của học sinh
- GVCN cần điều tra xem xét nguyện vọng của HS, xem xét rõ điều kiện
kinh tế gia đình của HS, điều kiện tổ chức tự học cho HS tại trường và tại gia
đinh.
- GVCN dựa trên cơ sở các quy định trong của văn bản Pháp luật, Điều lệ
nhà trường, Điều lệ Ban đại diện CMHS, quy chế của ngành và thực tiễn điều
kiện kinh tế xã hội của địa phương, thực tiễn của nhà trường để xây dựng một

quy định về tự học và quản lý các HĐTH của HS cho phù hợp.
- Chỉ đạo cho tập thể lớp thực hiện tốt phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. Thành lập đội tự quản để quản lý, theo dõi HĐTH
của HS tại trường và tại nhà.
- Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác quản lý của các tổ đối
với việc tự học tập ở nhà .
Biện pháp 2: Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học trên lớp của
giáo viên và phương pháp học tập của học sinh
- GVCN cần phải đánh giá thực trạng đổi mới phương pháp dạy học và
công tác quản lý đổi mới phương pháp dạy học trên các khâu trong quá trình dạy
học: soạn giáo án, nội dung, phương pháp, phương tiện sử dụng, kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của HS; mức độ khai thác, sử dụng phương tiện thiết bị trong
dạy học.
- GVCN cũng dự thảo các quy định, hướng dẫn về đổi mới phương pháp
dạy học, bám sát với chủ trương đổi mới của Bộ GD&ĐT cùng với các điều kiện
thực tế của nhà trường.
+ Đưa ra các quy định về chuẩn bị cho dạy học: nghiên cứu tài liệu, soạn
giáo án (xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đồ dùng) gắn
với đối tượng HS của trường, chú trọng đến việc thiết kế bài giảng theo hướng
giúp HS tự học thông qua việc thiết kế các câu hỏi, bài tập để giao nhiệm vụ tự
học cho HS ngay trong giờ học trên lớp. Thiết lập hệ thống các dạng bài tập
nhận thức đảm bảo yêu cầu phù hợp với mục tiêu bài học nhằm giúp HS lĩnh hội
tri thức mới, củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức.
+ Cần có quy định về dạy học trên lớp: các khâu thực hiện trong giờ lên
lớp bao gồm kiểm tra kết quả tự học của HS; tổ chức giờ dạy trên lớp theo
10


phương pháp dạy - tự học để nâng cao năng lực tự học cho HS. Kết thúc mỗi
tiết, GV giao nhiệm vụ tự học cho HS tùy theo mức độ đối với HS khá, giỏi,

trung bình, yếu, kém và yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ tự học.
+ Phải đổi mới công tác kiểm tra đánh giá: tăng cường việc kiểm tra bài,
kết quả tự học của HS đầu giờ lên lớp thông qua các hình thức kiểm tra miệng,
viết (15 phút) trước khi vào bài mới, nội dung kiểm tra bám sát vào những yêu
cầu bài tập, nhiệm vụ tự học GV đã giao. Việc ra đề và chọn đề kiểm tra 1 tiết,
kiểm tra kết thúc học kỳ, năm học cần bố trí tiết trả bài và giải quyết những vấn
đề HS còn thắc mắc.
- Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá kết quả việc đổi mới phương pháp dạy
học thông qua các tiêu chí:
Biện pháp 3:Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS
- Đánh giá thực trạng hình thức kiểm tra đánh giá HĐTH hiện nay (lực
lượng kiểm tra, nội dung kiểm tra, kết quả đánh giá). Tập trung kiểm tra đánh
giá việc thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ tự học của HS được GV giao
thông qua giờ học chính khoá trên lớp (nội dung tự học, hệ thống bài tập, mức
độ hoàn thành nhiệm vụ được giao).
- Hướng dẫn phong trào tự quản trong HS, hướng dẫn HS tự tiến hành
kiểm tra theo các hình thức (tự kiểm tra theo kế hoạch cá nhân, kiểm tra giữa các
cá nhân trong bàn, giữa các bàn trong tổ hay giữa các tổ trong lớp).
- Thông qua các giờ lên lớp, GV giao các nhiệm vụ và nội dung tự học để
HS thực hiện trong giờ tự học. Thường xuyên kiểm tra kết quả tự học của mỗi
HS trong các giờ lên lớp để đánh giá mức độ hoàn thành các nhiệm vụ tự học
được giao.
- Đổi mới hình thức kiểm tra, thi cử theo công văn 1919 của Sở GD&ĐT
để tăng cường đánh giá chất lượng tự học của HS. Thiết lập ngân hàng đề thi,
hướng nội dung đề thi theo các nội dung chuẩn kiến thức và kỹ năng để học sinh
tăng cường tự học. Mỗi bài học, GV cần thiết lập hệ thống câu hỏi, bài tập yêu
cầu tự học đối với HS.
- Căn cứ quy chế đánh giá xếp loại của HS, nhà trường cần xây dựng quy
định cho điểm cụ thể theo hướng tăng cường điểm kiểm tra miệng, kiểm tra 15
phút để kiểm tra việc soạn bài, chuẩn bị bài ở nhà và việc hoàn thành các nhiệm

vụ tự học, nhằm giúp HS cố gắng tự học để đạt kết quả cao. Tổ chức kiểm tra tại
lớp theo các hình thức: trắc nghiệm, ra đề khác nhau nhằm hạn chế việc quay
cóp, sử dụng tài liệu.
Biện pháp 4: Động viên, khuyến khích, kích thích các hoạt động tự
học của học sinh, thực hiện các HĐNGLL hướng vào các điều kiện hỗ trợ
hoạt động tự học và thực hiện tốt phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”
- Điều cần thiết là phải đánh giá đúng thực trạng, nhu cầu học tập của
từng HS, sự quản lý và động viên của GVCN, GVBM về qua trình tự học.

11


- Cần xây dựng các mối quan hệ cơ bản giữa dạy và học, giữa thầy và trò,
giữa nhà trường và gia đình, giữa nhà trường và chính quyền địa phương nhằm
thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục.
- GVCN phát động các phong trào thi đua học tốt trong hoạt động của nhà
trường để kích thích năng lực tự học và tự khẳng định mình của từng HS. Thi
đua sẽ thúc đẩy HS cố gắng vươn lên trong học tập và lôi cuốn HS khác cố gắng
vươn lên để giành được những thành tích cho cá nhân và tập thể. Không khí thi
đua sẽ tạo nên điều kiện tinh thần thuận lợi, phát huy tính tích cực, tự giác chủ
động của HS, đề cao tinh thần trách nhiệm và hình thành mối quan hệ tương trợ,
giúp đỡ lẫn nhau.
- Trong quá trình thi đua, GVCN, đoàn thể, tập thể lớp cần động viên tất
cả HS tự giác, tích cực tham gia; đồng thời có theo dõi sơ kết, tổng kết để đánh
giá kịp thời.
- GVCN chỉ đạo việc nêu gương những HS có tinh thần tự học tốt, HS
nghèo vượt khó, HS đạt thành tích tốt trong học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường

Sau thời gian áp dụng hoạt động tự học và các biện pháp từ sáng kiến kinh
nghiệm cho chính lớp chủ nhiệm ,Tôi thấy kết quả đạt được là học sinh của lớp
chủ nhiệm tự giác học tập hơn, cha mẹ học sinh không còn lo đến việc tự học
đối với con em của mình . Việc ra bài và kiểm tra bài tập trên lớp nhẹ nhàng
hơn.Hoạt động dạy học của giáo viên khi lên lớp cũng nhẹ nhàng hơn không có
áp lực ; Việc áp dụng các biện pháp tự học cũng đạt được kết quả cao trong học
tập cũng như nề nếp của tập thể lớp chủ nhiệm Và kết quả đạt được là : kết quả
giáo dục cả năm về hạnh kiểm loại tốt 40 học sinh, hạnh kiểm loại khá 5 học
sinh; học lực loại giỏi 1 học sinh, khá 18 học sinh, trung bình 26 học sinh. Sơ
kết thi đua tuần giữa 29 tập thể lớp luôn ở vị trí từ thứ nhất đến thứ bảy. Sau khi
tổng kết sáng kiến kinh nghiệm này,bản thân tôi mong rằng sáng kiến sẽ được
tiếp tục áp dụng đến các lớp ở năm học 2016-2017 và những năm học tiếp theo.

12


III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Từ những nội dung được nghiên cứu trong đề tài “Các biện pháp nâng cao
chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc – THPT” bản thân rút ra một
số kết luận và đề nghị sau:
3.1. Kết luận
- Hoạt động tự học có phạm vi và nội dung nghiên cứu rất rộng và phong
phú. HĐTH là yếu tố quan trọng trong quá trình giáo dục, nó quyết định đến
chất lượng học tập của HS cũng như chất lượng giáo dục của nhà trường. Để
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, việc nghiên cứu và tổ chức HĐTH cho
HS THPT ngày càng được quan tâm và cần phải đẩy mạnh các hình thức tổ chức
cụ thể. Hình thành năng lực tự học cho HS bậc THPT có tầm quan trọng đặc
biệt, tạo nền tảng vững chắc để các em tiếp cận giáo dục sau THPT cũng như
tăng cường tính tự lập trong cuộc sống sau này. Do đó, HĐTH là rất quan trọng
giúp HS tự rèn luyện mình nhằm hình thành thói quen tự học suốt đời.

- HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi nói chung và lớp chủ nhiệm nói riêng
nhìn chung đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của HĐTH, một số HS
đã cố gắng vươn lên trong học tập bằng con đường tự học. Tuy nhiên, vẫn còn
rất nhiều HS chưa có thói quen tự học, một số GV và CMHS cũng chưa nhận
thức đúng về quan điểm tự học. Nhiều HS chưa có kỹ năng và phương pháp tự
học, chưa làm chủ được HĐTH, còn học theo cách thụ động, đối phó và không
có hiệu quả. Do đó, nhiệm vụ bồi dưỡng cho HS ý thức say mê, trách nhiệm cao
trong học tập, có được các phương pháp tự học khoa học, biết cách lập kế hoạch
tự học, độc lập, sáng tạo trong tư duy là điều rất quan trọng. Yêu cầu quan trọng
đối với GV của nhà trường là cần nhận thức đúng đắn về tự học, cần phải có tư
duy đúng và có kế hoạch tổ chức tự học, coi quản lý HĐTH là một nội dung
trọng tâm của hoạt động quản lý lớp chủ nhiệm và Đồng thời, thực hiện các
biện pháp tổ chức tự học một cách đồng bộ và sáng tạo, mục tiêu cơ bản là tạo
điều kiện, thiết lập môi trường giáo dục để HS thực hiện tốt nhiệm vụ học tập
của mình.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với các nhà trường
- Phải quan tâm giáo dục động cơ ý thức học tập cho HS ngay từ đầu khoá
học và trong suốt năm học nhằm giúp HS ý thức rõ nhiệm vụ học tập.
- Tập huấn cho toàn thể GV về phương pháp dạy - tự học.
- Nghiên cứu cải tiến quy trình đổi mới phương pháp dạy học gắn lý
thuyết với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
- Huy động toàn bộ các lực lượng trong nhà trường tham gia quản lý
HĐTH của HS.
3.2.2. Đối với GVCN
- Phải quan tâm giáo dục và nắm rõ tình hình hoàn cảnh của từng học sinh
của lớp chủ nhiệm để có những phương pháp phù hợp và nhằm hiểu rõ được
13



động cơ ý thức học tập cho HS ngay từ đầu khoá học và trong suốt năm học
nhằm giúp HS ý thức rõ nhiệm vụ học tập.
- Giúp các em hiểu rõ hơn về phương pháp dạy - tự học bằng các giờ
hướng nghiệp và NGLL
- Luôn tự học tập tự sáng tạo nhằm làm cho HĐTH đạt hiệu quả hơn .
- Tạo ra sự đoàn kết trong tập thể lớp với tinh thần giúp đỡ nhau cùng tiến
trong HĐTH ở nhà cũng như ở lớp.
3.2.3. Đối với cha mẹ học sinh và học sinh
- CMHS thường xuyên quan tâm tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình
thực hiện tốt kế hoạch tự học ở nhà. Đừng quá gây áp lực về thành tích học tập.
- HS cần phải xác định đúng đắn mục tiêu, động cơ học tập. Biết tự kiểm
tra, đánh giá HĐTH để tự điều chỉnh và hoàn thiện cá nhân. Biết xây dựng kế
hoạch tự học hợp lý, chọn hình thức tự học phù hợp với điều kiện gia đình.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết , không sao chép của người
khác.
Giáo viên

Nguyễn Thị Hằng

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm

2020, số 242 – TB/TW ngày 15/04/2009. Hà Nội.
2. Phạm Khắc Chương (1997), Jan Amos Komenxky - Ông tổ của nền sư phạm
cận đại, NXB giáo dục, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (2001), Về vấn đề học tập, NXB trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Tự học như thế nào, NXB Thanh niên, Hà Nội.
5. Luật giáo dục, NXB giáo dục, Hà Nội.
6. Module 6 : Xây dựng môi trường học tập cho học sinh THPT
7. Module 32- THPT : Hoạt động của GVCN

15


PHỤ LỤC
Đính kèm các cụm từ viết tắt trong SKKN
- GVCN : Giáo viên chủ nhiệm
- GVBM: Giáo viên bộ môn
- HS: Học sinh
- GV: Giáo viên
- CMHS: Cha mẹ học sinh
- THPT: Trung học phổ thông
- HĐTH : Hoạt động tự học
- NGLL : Ngoài giờ lên lớp

16


17




×