Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm nhằm giảm thiểu số lượng học sinh nữ vắng và bỏ học tại lớp 12a1 trường THPT bá thước 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.15 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC 3
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
NHẰM GIẢM THIỂU SỐ LƯỢNG HỌC SINH NỮ VẮNG VÀ
BỎ HỌC TẠI LỚP 12A1 TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC 3

Người thực hiện: Trịnh Thị Vân
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

THANH HÓA NĂM 2016

1


MỤC LỤC

Trang

2


1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu


1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. 2. Thực trạng đề tài
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của nữ sinh
trung học phổ thông.
2.3.2. Giáo dục cung cấp cho các em những kiến thức về sức khỏe sinh
sản vị thành niên.

3
3
4
4
4
5
5
6
7
7

2.3.3 .Luôn gần gũi, quan tâm tới học sinh lớp chủ nhiệm.

9

2.3.4. Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh
2.3.5 Tư vấn tâm lý cho học sinh nữ lớp chủ nhiệm.
2.3.6. Phối hợp với gia đình, giáo viên bộ môn, các tổ chức đoàn thể
trong và ngoài nhà trường để giáo duc, giúp đỡ học sinh nữ.

2.4.Hiệu quả của đề tài
3. Kết luận
3.1. Kết luận:
3.2. Kiến nghị và đề suất.
Tài liệu tham khảo

11
13
16

8

18
19
19
20
20

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

3


Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục
đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục, nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục là
quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành
niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong
xã hội. Bản chất của quá trình giáo dục là tổ chức toàn bộ cuộc sống học tập,

hoạt động của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển tiềm năng của
học sinh trong môi trường giáo dục mà người gần gũi các em hơn ai hết là giáo
viên chủ nhiệm. Nếu coi học sinh là những mầm non thì giáo viên chủ nhiệm là
người làm vườn trực tiếp chăm sóc cho các mầm chồi ấy.
Mặt khác, do ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng
tiêu cực của văn hóa, lối sống nước ngoài, các tệ nạn xã hội, văn hóa phẩm đồi
trụy, tư tưởng sống gấp, hưởng thụ,… đang tác động mạnh đến đạo đức, lối sống
của học sinh THPT ngày càng sâu sắc, đa dạng và phức tạp, đời sống tâm lý học
sinh nói chung, học sinh nữ nói riêng đang có những biến động to lớn với nhiều
biểu hiện đáng lo ngại. Tình trạng bạo lực học đường xảy ra ngày càng nghiêm
trọng, số vụ nữ sinh đánh nhau, đánh hội đồng tăng lên, tỷ lệ thanh thiếu niên
phạm tội, tỷ lệ trẻ vị thành niên nạo phá thai ngày càng tăng lên, một bộ phận
học sinh nữ lười học, ngại học, đua đòi ăn chơi, …ngày càng diễn biến phức tạp.
Vì vậy vai trò, trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học
sinh trong đó có nữ sinh lớp chủ nhiệm là rất quan trọng.
Trong gần 10 năm giảng dạy và làm công tác giáo viên chủ nhiệm ở
trường THPT Bá Thước 3, trường đóng trên địa bàn kinh tế khó khăn, dân trí
thấp, học sinh trong trường đa số là dân tộc Thái, vì vậy đa số học sinh nhất là
học sinh nữ chưa có động cơ mục đích học tập rõ ràng, trình độ nhận thức còn
nhiều hạn chế, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại nhất là nạn tảo hôn
còn phổ biến, vì vậy nhiều em nữ sinh còn có những nhận thức chưa đúng đắn
về giới tính, các em thiên về sống cảm tính, nhạy cảm với nhiều vấn đề trong đó
có quan hệ tình bạn và tình yêu nam nữ, vì vậy mà các em rất nhanh chóng tiến
tới tình yêu, hôn nhân khi đang còn ở lứa tuổi cắp sách tới trường, để lại nhiều
hệ lụy đau lòng làm vợ, làm mẹ khi tuổi đời còn quá trẻ, mất đi cơ hội học tập,
trưởng thành và hòa nhập vào xã hội, hàng năm số lượng nữ sinh bỏ học ngày
càng tăng lên trong trường. Xuất phát từ thực tế trên tôi chọn đề tài “ Một số
biện pháp trong công tác chủ nhiệm nhằm giảm thiểu số lượng học sinh nữ
vắng và bỏ học tại lớp 12A1, trường THPT Bá Thước 3” nhằm cố gắng giáo
dục tốt hơn học sinh lớp tôi chủ nhiệm, góp phần ổn định số lượng học sinh

trong nhà trường, đưa các phong trào nhà trường đi lên vững mạnh và xã hội có
được những người công dân tốt trong tương lai.

1.2. Mục đích nghiên cứu

4


Sáng kiến kinh nghiệm này cung cấp kinh nghiệm riêng trong việc giáo
dục nữ sinh lớp chủ nhiệm với mục đích:
- Giúp giáo viên chủ nhiệm lớp ở bậc học phổ thông nhận thấy rõ hơn vai
trò ý nghĩa của công tác chủ nhiệm lớp mà việc giáo dục, tác động đến nữ sinh
lớp chủ nhiệm là yếu tố quan trọng không thể xem thường. Đồng thời tôi muốn
qua sáng kiến kinh nghiệm này nói lên những kinh nghiệm của bản thân trong
việc giáo dục nữ sinh lớp chủ nhiệm để các thầy cô giáo đồng nghiệp cùng xem
xét, bàn bạc trao đổi những mong có thể ứng dụng vào thực tiễn góp phần nhỏ
bé làm tăng chất lượng giáo dục toàn diện học sinh và làm cho công tác chủ
nhiệm lớp đạt hiệu quả cao hơn.
- Học sinh được trang bị những kiến thức cần thiết về giới tính, tình bạn,
tình yêu chân chính, biết cách điều chỉnh hành vi, cách cư xử của bản thân, biết
cách vượt qua những rào cản tâm lý, những khó khăn trong cuộc sống, học tập,
xác định được mục đích, động cơ học tập rõ ràng, hăng hái học tập, lao động
sáng tạo, tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể, …trong quá trình học tập
ở trường phổ thông cũng như các môi trường học tập và làm việc sau này.
- Người viết cũng mong muốn nhận được những ý kiến phản hồi, những
đánh giá, trao đổi của quý thầy cô đồng nghiệp để cùng hoàn thiện hơn nữa đề
tài sáng kiến kinh nghiệm này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về thực trạng của trường THPT Bá
Thước 3 trong những năm qua, đặc biệt là năm học 2015 – 2016 để áp dụng cho

năm học tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chủ yếu đề cập đến học sinh nữ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chủ nhiệm lớp, nghiên cứu và viết
sáng kiến kinh nghiệm này, người viết đã sử dụng một số phương pháp cơ bản
sau:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận về
vai trò GVCN lớp trong công tác chăm sóc, hỗ trợ học sinh nữ, học sinh dân tộc
thiểu số, giáo dục giới tính, tư vấn tâm lý học đường,… trong các tài liệu, giáo
trình giáo dục, các bài tham luận trên Internet.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của
học sinh.
Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, học
sinh, hội cha mẹ học sinh, bạn bè và hàng xóm của học sinh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo những bản báo cáo ,
tổng kết hàng năm của nhà trường. Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.

5


Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác
trong trường mình.
Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào công tác chủ
nhiệm lớp 12A1 trường THPT Bá Thước 3 năm học 2015-2016.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài.
2.1.1.Cơ sở lý luận
Lứa tuổi THPT là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc
khi bước vào tuổi người lớn. Ở các em gái tuổi dậy thì bắt đầu từ 10-13 tuổi và
kết thúc vào 17 - 19 tuổi. Đặc trưng của giai đoạn này là sự phát triển mạnh mẽ

cả về thể chất, tâm lý, tình cảm và khả năng hòa nhập xã hội, cộng đồng.
Những biến đổi về tâm lý tình cảm: Học sinh nữ THPT khi bước tới tuổi
dậy thì các em bước tới ngưỡng cửa của người lớn. Các em muốn được đối xử
như người lớn, muốn thoát khỏi những ràng buộc của cha mẹ và gia đình, các
em muốn được độc lập trong suy nghĩ và hành động, muốn thử sức mình, khám
phá những cái mới để khẳng định mình là người lớn. Các em thích giao tiếp với
bạn bè cùng lứa hay những người ở lứa tuổi lớn hơn và dễ dàng bộc lộ tâm sự
với bạn bè. Cũng trong chính giai đoạn này các em bắt đầu quan tâm đến bạn
khác giới và xuất hiện những cảm xúc mới lạ. Điều này khiến các em rất có ý
thức về cơ thể và giới của mình và có những rung cảm khi nghĩ về một người
bạn khác giới. Có lúc những rung cảm này trở nên quá mãnh liệt, khi lý trí chưa
đủ để giúp các em làm chủ được mình, khiến các em có những hành vi chưa
đúng mực, có hại cho sức khỏe trong quan hệ với bạn khác giới. Chưa kể ngày
nay sự bùng nổ công nghệ thông tin có tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ đến học
sinh THPT, nên suy nghĩ, hành động của các em bị ảnh hưởng rất lớn từ nguồn
tiếp thu thông tin đa dạng, đa chiều, đa sắc màu, vô cùng phong phú từ internet,
phim ảnh, báo chí,...tạo cho giới trẻ chủ nghĩa anh hùng cá nhân thích thể hiện
mình cộng với tâm lý đang thay đổi dẫn đến dễ có những quyết định bồng bột.
Mặc dù giai đoạn dạy thì có tầm quan trọng nhưng rất ít người có hiểu biết về
kiến thức, thái độ và các hành vi liên quan cùng với nhu cầu hỗ trợ xã hội của
lứa tuổi này.
Con người sinh ra và lớn lên ai cũng trải qua tuổi vị thành niên, nhất là
các em nữ sinh THPT thì giai đoạn này rất quan trọng trải qua với nhiều biến đổi
về cơ thể, tâm lý, tình cảm nhưng thường được xem là chuyện riêng tư kín đáo,
không dễ chia sẻ, bày tỏ dẫn đến tâm lý ngại ngùng, xấu hổ và im lặng. Vì vậy
các em cần được cung cấp, hướng dẫn để hiểu quá trình biến đổi của bản thân
mình. Đồng thời các em cần được người lớn thông cảm, khuyến khích, tạo điều
kiện để các em nói lên những băn khoăn thắc mắc của mình. Các em cần được
người lớn giúp đỡ, hỗ trợ, giải đáp thắc mắc, chia sẻ những cảm xúc để các em
vượt qua được giai đoạn chuyển tiếp này và vững bước tới tương lai.

2.1.2. Cơ sở thực tiễn

6


- Bức tranh toàn cảnh về công tác chủ nhiệm ở trường phổ thông nói
chung, trường THPT nói riêng cho thấy bên cạnh những đóng góp tích cực cho
chất lượng giáo dục cũng còn những hạn chế. Đó là nhận thức của giáo viên về ý
nghĩa, vai trò của công tác chủ nhiệm còn có nơi, có lúc chưa khách quan, toàn
diện. Một số giáo viên được phân công làm chủ nhiệm còn chưa tâm huyết với
công việc, ngại khó, ngại khổ mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ chủ
nhiệm lớp. Lại cũng có những giáo viên mà năng lực điều hành, quản lý lớp chủ
nhiệm còn hạn chế, ...
- Về công tác giáo dục, giúp đỡ, hỗ trợ tâm lý học sinh nữ ở lớp chủ
nhiệm nói riêng lại càng ít được các lực lượng giáo dục và cả bản thân giáo viên
chủ nhiệm quan tâm. Hoặc chưa có biện pháp hiệu quả để giúp đỡ, chăm sóc, hỗ
trợ tâm lý học sinh nữ ở lớp chủ nhiệm đạt kết quả. Vì vậy ở nhiều lớp một bộ
phận học sinh nữ có rất nhiều biểu hiện tiêu cực như bỏ giờ, bỏ tiết, nghỉ học
thường xuyên, chơi bời tụ tập, nhuộm tóc, tụ tập nhóm gây kích động bạo lực
học đường, thậm chí còn có những nữ sinh bỏ nhà đi, dọa tự tử, tự tử, bỏ học,
thậm chí có bầu, kết hôn sớm,... Tỷ lệ học sinh nữ vắng học, bỏ học ở các lớp
trong trường ngày càng tăng lên. Vì vậy cần phải tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra
biện pháp giáo dục hiệu quả là một vấn đề vô cùng cần thiết trong công tác giáo
dục học sinh lớp chủ nhiệm.
2.2. Thưc trạng vấn đề
Trường THPT Bá Thước 3 là một trường miền núi thuộc Huyện Bá
Thước. Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, chất lượng tuyển sinh đầu
vào thấp, nền kinh tế của địa phương thuộc vùng tuyển sinh nhà trường chậm
phát triển, nghèo nàn, lạc hậu. Phần đông học sinh trong lớp học yếu, khả năng
nhận thức còn nhiều hạn chế, các em chưa xác định được động cơ mục đích học

tập nên các em ngại học, lười học dẫn đến vắng học, bỏ học.
Phần lớn học sinh của lớp là con của các gia đình thuần nông, hoàn cảnh
kinh tế còn nhiều khó khăn, ít có điều kiện để chăm lo cho việc học tập của con
em mình. Đặc biệt một số gia đình cả bố và mẹ đều đi làm ăn xa, nên việc phối
hợp giữa gia đình và nhà trường còn nhiều hạn chế (như hs: Hà Thị Phúc, Lục
Thị Châm, Ngân Thị Lệ cả bố, mẹ đều đi làm ăn trong Miền Nam...). Số học
sinh thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo năm 2015-2016 của lớp là 21/33 (chiếm
tỉ lệ 63,6%); Học sinh mồ côi là 1em, học sinh người dân tộc thiểu số là 32/33
(chiếm tỉ lệ 97%) nên ảnh hưởng phần nào đến chất lượng giáo dục của lớp.
Học sinh trong lớp chủ yếu thuộc các xã Lũng Cao, Cỗ Lũng, nhiều em
phải đi học qua suối, qua đồi núi, đường xá đi lại khó khăn dẫn đến học sinh đi
chậm, nghỉ học nhiều nhất là những ngày mưa lũ. Một số học sinh thuộc xã
Thành Lâm, Thành Sơn ở xa trường (hơn 10km) các em phải trọ lại thiếu sự
quan tâm, quản lý của gia đình, điều kiện hoàn cảnh ở các nhà trọ, thiếu thốn
điều kiện sinh hoạt, dẫn đến các em bi quan, chán nản, xao nhãng việc học hành,
cũng là nguyên nhân dẫn tới chán học, vắng học và bỏ học.

7


Do nhận thức và hiểu biết của một bộ phận học sinh và phụ huynh còn
hạn chế, các em thiếu kiến thức và hiểu biết về sức khỏe sinh sản vị thành niên,
quan hệ tình bạn và tình yêu nam nữ, cộng với một số tập tục lạc hậu còn tồn tại
(như bắt dâu, ở rễ, tảo hôn,...) nên một bộ phận học sinh nữ, bỏ học lập gia đình.
Năm học 2013-2014 lớp tôi chủ nhiệm ban đầu có 40 học sinh trong đó có
35 học sinh nữ, sau học kỳ 1 có 3 em bỏ học lập gia đình, hết năm 10, có 4 em
nghỉ học lập gia đình. Năm học 2014-2015, hết lớp 11 có 2 em nghỉ học, 1 em
có thai ngoài ý muốn nên phải nghỉ học lập gia đình, 1 em do điều kiện gia đình
nên nghỉ học sớm.
Tất cả học sinh bỏ học của lớp đều là học sinh nữ. Mặc dù đã có sự phối

kết hợp chặt chẻ với gia đình học sinh, ban đại diện hội cha mẹ lớp, đi thăm gia
đình học sinh, tìm hiểu nguyên nhân bỏ học, động viên các em bỏ học quay trở
lại trường học, nhưng các em chỉ quay trở lại đi học trong một thời gian rất ngắn
sau đó lại bỏ học. Ngoài số học sinh bỏ học thì số lượt học sinh nữ của lớp vắng
học ở lớp 10, 11 rất nhiều từ 20 - 40 lượt học sinh nghỉ học/1 tuần. Từ thực trạng
trên, là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi đã băn khoăn, trăn trở rất nhiều, vừa là
lương tâm, vừa là trách nhiệm mình cần phải làm gì để duy trì sĩ số học sinh trong
năm học cuối cấp, để các em có đủ hành trang bước vào đời. Vì vậy, tôi đã mạnh
dạn đề ra một số biện pháp và áp dụng ở lớp 12A1 do tôi làm chủ nhiệm, kết quả
đạt được rất khả quan và tạo được một bước đột phá trong công tác chủ nhiệm.
Những kinh nghiệm nhỏ của tôi xin chia sẻ cùng đồng nghiệp trong SKKN “ Một
số biện pháp trong công tác chủ nhiệm nhằm giảm thiểu số lượng học sinh
nữ vắng và bỏ học tại lớp 12A1, trường THPT Bá Thước 3”.
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của nữ sinh trung
học phổ thông.
Học sinh THPT ở độ tuổi 15-18, các em chưa phải là người lớn nhưng
cũng không còn là trẻ con, có khả năng nhận thức nhưng những nhận thức của
các em chưa thật sự chín chắn và có thể sẽ sai lệch nếu không được định hướng.
Đa số các em còn lệ thuộc vào cha mẹ về cả kinh tế lẫn tinh thần. Tuy nhiệm vụ
chính là học tập, nhưng các em thường phải đối mặt với rất nhiều áp lực, từ
nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Ở nhà, đó là những yêu cầu, kỳ vọng
của cha mẹ, ông bà, là bầu không khí trong gia đình, là mối quan hệ giữa con cái
với cha mẹ,… Ở trường, là áp lực về học tập, quan hệ với thầy cô, bạn bè,..
Ngoài xã hội, các em phải đối mặt với những cám dỗ của các trò chơi, các trang
thông tin mạng,… Và riêng bản thân các em cũng phải lúng túng với những vấn
đề mới nảy sinh: những thay đổi về tâm sinh lý, tình yêu tuổi học trò, việc lựa
chọn nghề nghiệp trong tương lai,… Cá biệt, có những em vấp phải vấn đề
nghiêm trọng hơn: lệch lạc về giới tính, bạo hành gia đình, tệ nạn xã hội,… Đối
diện với những vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ không biết nhìn nhận, giải

quyết vấn đề như thế nào cho hợp lý. Trong những trường hợp như thế, học sinh
rất cần đến sự chia sẻ, sự thông hiểu từ người thân: gia đình, bạn bè,… Thế

8


nhưng trong cuộc sống, người lớn chúng ta thường đòi hỏi các em phải có ý thức
trách nhiệm, có thái độ hợp lý, có tính độc lập, nhưng mặt khác lại cũng đòi hỏi
các em phải chịu sự sắp đặt của người lớn. Vì vậy, thay vì cho con những lời
khuyên, các bậc cha mẹ lại thường nói với con cái những câu đại loại như: Con
phải …, Con người ta … còn con thì …, Hồi đó ba (mẹ) …, … Không muốn bị
áp đặt, không muốn bị so sánh, và không muốn nghe bố mẹ kể "chuyện đời
xưa", con cái thường che giấu bố mẹ những điều mà các em đang trăn trở,
những vướng mắc của bản thân, … Lâu dần, vì lý do này hay lý do khác, các em
đâm ra đề phòng bố mẹ, thầy cô, thủ thế với bạn bè. Trong khi đó, trên báo chí,
trên các trang mạng xã hội, lại đầy những thông tin bất lợi đối với các em –
những "người lớn - trẻ con" chưa đủ sức sàng lọc để lựa chọn, giữ lại những
điều tốt và loại bỏ cái xấu. Vì vậy các em có thể bị mất thăng bằng bởi chính
những điều tưởng như vặt vãnh ấy nếu không được những người xung quanh
quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ kịp thời".
Có thể nói, lứa tuổi 15-18 là một trong những giai đoạn khủng hoảng và
khó khăn trong cuộc đời của mỗi người. Sự trợ giúp kịp thời và đúng đắn từ phía
người lớn là một nhu cầu bức thiết đối với các em, đặc biệt là khi các em đã rơi
vào sự khủng hoảng tâm lý. Học sinh cần được giãi bày, cần được tâm sự, cần
được những lời khuyên đúng đắn từ người lớn, mà gần gũi với các em nhất
chính là cha mẹ, thầy cô. Và khi không thể có được điều đó từ gia đình, nhiều
em đã xem thầy cô như một chỗ dựa tinh thần. Cho các em những lời khuyên,
định hướng đúng đắn cho các em con đường phải đi, giúp các em tìm lại niềm
tin, niềm vui trong cuộc sống,…
2.3.2. Giáo dục cung cấp cho các em những kiến thức về sức khỏe sinh sản

vị thành niên.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi nhận thấy việc giáo dục giới tính cho
học sinh là việc làm rất cần thiết. Vì giáo dục giới tính là quá trình tác động
hướng vào việc vạch ra những phẩm chất, nhân cách của con người. Ngày nay,
do chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, sự bùng thông tin với nhiều
phương tiện nghe, nhìn, sách, báo, phim ảnh về cuộc sống gia đình, tình bạn,
tình yêu, quan hệ nam nữ… là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển sớm về giới
tính ở trẻ, đặc biệt là học sinh nữ THPT. Học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh
niên mới lớn, đây là giai đoạn đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi con người nhưng
cũng chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp. Do vậy, để học sinh THPT có kiến thức
và hiểu biết về giới tính thì vấn đề giáo dục giới tính cho các em là “nhu cầu”
cần thiết. Giáo dục giới tính trong trường THPT sẽ trang bị cho các em có thái
độ, hành vi đúng đắn trong giải quyết các mối quan hệ với bạn bè khác giới đặc
biệt sẽ làm chủ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tình yêu, hôn nhân
và gia đình để góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh, tốt đẹp.
Do học sinh lớp tôi chủ nhiệm đa phần là học sinh nữ dân tộc thiểu số,
chủ yếu là dân tộc Thái nên vấn đề giáo dục giới tính từ gia đình là rất khó khăn,

9


đa phần phụ huynh né tránh việc giáo dục giới tính cho các em, các em sinh ra
và lớn lên ở các buôn làng nên việc giao tiếp, trao đổi, băn khoăn thắc mắc về
tâm sinh lý lứa tuổi các em thường rụt rè không giám hỏi và thường giữ kín
trong lòng, ngoài ra quan niệm hủ tục lạc hậu còn tồn tại trong đời sống gia đình
mỗi học sinh mà nạn tảo hôn rất phổ biến nên việc giáo dục kiến thức về sức
khỏe sinh sản cho các em trở nên vô cùng cần thiết. Vì vậy thông qua các tiết
sinh hoạt lớp tôi dành thời giờ để giáo dục giới tính cho các em như các bài cần
phải học theo các nội dung:
+ Đặc điểm tâm lý con người: Những đặc điểm về sinh lý tình dục, sự

phát triển sinh lý cơ thể như: chiều cao, cân nặng, cấu trúc và chức năng của cơ
quan sinh dục, cấu tạo cơ quan sinh dục nam nữ, đời sống tình dục, kinh nguyệt,
sinh nở, cho con bú, những kiến thức về sức khỏe, sinh đẻ có kế hoạch, các bệnh
thông thường, các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, vệ sinh cơ quan sinh dục,
sự thụ thai, hậu quả của việc có thai sớm.
+ Đặc điểm giới tính về đạo đức xã hội, thẩm mỹ như quan hệ cư xử với
mọi người, với bạn khác giới, tác phong tư thế, phẩm chất đạo đức theo giới
tính, quan niệm về cái đẹp, sự rèn luyện để tạo nên cái đẹp chân tình và bền
vững, pháp luật liên quan đến cuộc sống gia đình như luật hôn nhân và gia đình,
trách nhiệm của con người trong gia đình và xã hội, phương hướng rèn luyện
con người về mặt giới tính, những đặc điểm về đời sống tâm lý con người, tâm
lý giới tính theo lứa tuổi,...
+ Những vấn đề về quan hệ bạn khác giới và tình yêu nam nữ, xây dựng
tình bạn, tình yêu chân chính.
Qua các tiết sinh hoạt lớp tôi cho các em hoạt động ngoại khóa dưới hình
thức những trò chơi kiến thức, trang bị cho các em những kiến thức cần thiết,
các em rất hồ hỡi phấn khởi đón nhận với tinh thần tự nguyện, tự giác, trong các
tiết học đó tôi dành thời lượng nhất định để giải đáp những băn khoăn, vướng
mắc mà các em còn gặp phải, giúp các em có những kiến thức, hiểu biết về giới
nhất định, tránh những sai lầm để lại những tổn thương, những hậu quả nặng nề
mà các em có thể gặp phải.
2.3.3 .Luôn gần gũi, quan tâm tới học sinh lớp chủ nhiệm.
Học sinh THPT đang ở trong lứa tuổi muốn được tự khẳng định mình,
giàu ước mơ, hoài bão, bước đầu có kinh nghiệm sống, có khả năng tự quản tốt,
có ý thức tổ chức hoạt động tập thể,…Tuy nhiên đây vẫn là lứa tuổi mong muốn
lớn hơn khả năng, muốn khẳng định mình nhưng chưa đủ kinh nghiệm, tri thức,
…Đặc biệt là những học sinh vùng sâu, vùng xa như học sinh trường chúng tôi,
các em còn thiếu mạnh dạn, dễ bị dao động, dễ tự ti phân biệt dân tộc, có thể
làm được nhưng không dám nói. Xuất phát từ đặc điểm đó về tâm lí lứa tuổi,
việc định hướng giáo dục đối với học sinh là rất cần thiết, giúp các em vượt qua

được những rào cản để đến trường đầy đủ:

10


Đối với các em nữ có bố mẹ đi làm ăn xa, mồ côi các em ở nhà với ông
bà, chú bác, trở thành lao động chính trong gia đình, tôi luôn quan tâm gần gũi,
thi thoảng đến thăm gia đình các em xem các em cần gì, thiếu thốn gì, trong khả
năng có thể giúp được, hoặc kêu gọi sự giúp đỡ của hội cha mẹ, các tổ chức
đoàn thể trong và ngoài nhà trường, tập thể lớp( ví dụ như em Hằng mồ côi cha
mẹ, sống với ông nội ốm đau tôi kêu gọi hội chữ thập đỏ giúp đỡ một phần
thuốc men cho ông, kêu gọi hội cha mẹ hỗ trợ 1 phần kinh phí học tập và làm
đơn xin nhà trường miễn giảm một số khoản đóng góp; khi gia đình các em neo
người (em Châm, Hằng, Lệ, Phúc,…) vào vụ thu hoạch tôi thường lên kế hoạch
kêu gọi tập thể lớp tranh thủ ngày nghỉ đến giúp các bạn thu hoạch sắn, lúa,…)
ngoài hỗ trợ về mặt vật chất, công việc, biết các em thiếu thốn tình cảm tôi
thường xuyên quan tâm, gần gũi, chia sẽ, cảm thông, tạo mối quan hệ gần gũi
thân tình, vì thế các em luôn tin tưởng chia sẽ những khó khăn trong cuộc sống,
tình cảm, tâm lý, …Vì vậy các em là học sinh có khả năng hay vắng học, nghỉ
học và nguy cơ bỏ học cao thì nay các em luôn cố gắng vượt qua khó khăn vươn
lên trong học tập, đi học đầy đủ ít vắng học, nghỉ học.
Đối các em nữ ở xa phải trọ học tôi cũng thường xuyên đến thăm nơi các
em ở, kiểm tra thường xuyên, hoặc đột xuất việc học buổi tối của các em ở nhà
trọ, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc đối các em có bạn trai đến chơi vào buổi
tối, động viên các em khắc phục khó khăn, nhờ nhà chủ giúp đỡ quản lý về mặt
a ninh, giờ giấc, giúp các em có thêm động lực cố gắng học tập tốt hơn.
Trong các buổi học trên lớp, nhất là các buổi sinh hoạt 15’ đầu giờ tôi
thường lên lớp rất đều đặn, quan sát học sinh lớp chủ nhiệm, thông qua ban cán
sự và các phần tử tích cực trong lớp, nắm bắt các biểu hiện bắt thường nếu có
của các em, nắm bắt tìm hiểu nguyên nhân của các em học sinh đi chậm, vắng

học, nhắc nhở học sinh, góp ý hoặc có thể giúp đỡ học sinh giải quyết các vấn đề
còn thắc mắc về học tập hoặc những khó khăn các em gặp phải trong cuộc sống.
Để hạn chế các em học sinh đi chậm, vắng học, giáo viên chủ nhiệm phải nắm
bắt thường xuyên sĩ số lớp, tìm hiểu lí do vắng học, bỏ học để có các biện pháp
xử lí phù hợp. Ví dụ, có em vắng học vì ham chơi thì phải dùng hình thức nhắc
nhở, hay có thể phạt, nhưng có em nghỉ học vì gia đình có việc bận thì giáo viên
nên động viên để lần sau các em sắp xếp công việc hợp lí để đến trường đầy đủ;
có em phải bỏ học vì lí do hoàn cảnh gia đình khó khăn thì ngoài việc động viên
các em đến lớp trở lại thì còn cần phải có cả sự hỗ trợ về mặt vật chất từ các bạn
trong lớp, từ sự tạo điều kiện của nhà trường mà cầu nối là giáo viên chủ nhiệm,
những em nữ nghỉ học, vắng học vì lý do tình cảm, tình yêu, giáo viên chủ
nhiệm cần quan tâm, phát hiện sớm, gặp gỡ riêng các em và gia đình các em,
phân tích cho các em và bố mẹ các em hiểu những tác hại ảnh hưởng không tốt
đến bản thân các em, các em mất đi cơ hội học tập, hòa nhập cộng đồng, ngoài
ra tảo hôn còn là vi phạm pháp luật, đồng thời bản thân giáo viên chủ nhiệm
phản ánh lên ban giám hiệu để cùng kết hợp với địa phương nơi các em sinh
sống để can thiệp, ngăn chặn những cuộc tảo hôn mà do thiếu hiểu biết em và
gia đình các em đang tạo ra.

11


Bên cạnh vai trò giám sát hoạt động của học sinh lớp mình, giáo viên chủ
nhiệm còn là người cố vấn cho các em trong các hoạt động. Giáo viên chủ
nhiệm bằng nghệ thuật sư phạm kích thích tư duy sáng tạo của học sinh, phát
triển tiềm năng trí tuệ vốn có của từng em trong học tập, đề xuất các nội dung,
giải pháp, cách thức tổ chức hoạt động thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà
trường. Ví dụ, ở trường THPT Bá Thước 3 các buổi sinh hoạt 15 phút thường
xen kẽ giữa sinh hoạt văn hóa, văn nghệ với sinh hoạt học tập. Để tránh nhàm
chán vì sự lặp đi lặp lại, tôi đã gợi ý để học sinh thêm vào các nội dung như đọc

báo, tìm hiểu pháp luật, kiến thức về giới, những kiến thức về tình bạn tình yêu
chân chính, những câu chuyện hay về gương các bạn học sinh vươn lên, vượt
qua hoàn cảnh khó khăn học tập thành tài,…bên cạnh học hát trong giờ sinh hoạt
văn nghệ, hoặc trong giờ sinh hoạt học tập, không riêng lớp phó học tập mới sửa
bài tập giúp các bạn mà khuyến khích tất cả học sinh trong lớp ai có cách làm
hay thì trình bày để cả lớp cùng tham khảo, từ đó kích thích sự sáng tạo và tự
khẳng định mình của các em, làm giảm đi tính rụt rè, e ngại của học sinh trong
lớp.
Giáo viên chủ nhiệm không chỉ quan tâm gần gũi học sinh trong các buổi
sinh hoạt mà còn có thể trao đổi cởi mở với các em trong các giờ lao động hay
hoạt động ngoại khóa, không chỉ cung cấp cho các em kiến thức mà còn cung
cấp cho các em kĩ năng sống, tư vấn cho các em về mối quan hệ ứng xử ngoài xã
hội, ý nghĩa của việc học, và tư vấn nghề nghiệp, giúp các em xác định được
mục đích, động cơ học tập đúng đắn. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm phải cởi mở,
tạo được niềm tin nơi học sinh, biết lắng nghe, thấu hiểu và nhạy bén để giúp
các em giải quyết các vấn đề còn vướng mắc trong học tập, cuộc sống, cũng như
sự biến đổi về tâm lý tình cảm, những thay đổi trong quan hệ tình bạn, tình yêu
nam nữ, …tạo được hứng thú cho các em trong quá trình đến trường như câu
khẩu hiệu của nhà trường “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui” thì mới đạt
được mục đích giáo dục và giảm thiểu số học sinh vắng học và bỏ học.
Để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, biểu hiện của học sinh ngoài thời gian
tiếp xúc với các em ở trường, đến thăm ở nhà hay tìm hiểu thông qua các bạn,
nhóm bạn thân hay chơi với các em tôi cũng thường xuyên tìm hiểu các em qua
mạng xã hội Fabook, Zalo, từ những Avarta mà các em thể hiện tôi nắm bắt rất
nhanh những tâm tư, tình cảm, cũng như khúc mắc của các em kịp thời, qua các
nhóm bạn cùng chơi tôi tìm hiểu cụ thể hơn từ đó lựa chọn các giải pháp tác
động phù hợp, giúp các em ổn định tâm lý đi học đầy đủ.
2.3.4. Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh
Nhà sư phạm A.X. Makarenco cho rằng: “Tập thể là một cơ thể xã hội
sinh động thể hiện sức mạnh tổng hợp của các thành viên của nó. Sức mạnh của

các thành viên một khi đã được liên kết lại một cách có mục đích, có tổ chức thì
sẽ tạo ra sức mạnh chung của tập thể mạnh gấp nhiều lần tổng số sức mạnh của
các thành viên riêng lẻ, đồng thời có tác dụng làm tăng lên sức mạnh của từng
thành viên”. Tập thể học sinh còn được xem là một phương tiện đặc biệt quan

12


trọng và hiệu quả trong việc giáo dục học sinh. Vì vậy trong công tác chủ nhiệm
để giáo dục từng cá nhân học sinh, giúp các em có đủ điều kiện phát triển và bộc
lộ về mọi mặt thì bản thân tôi luôn quan tâm và xây dựng tập thể lớp đoàn kết
vững mạnh có kỹ luật, dư luận tập thể tốt, có truyền thống yêu thương, tương trợ
lẫn nhau như:
+ Đề ra những yêu cầu vừa sức, hợp lý cho học sinh: Đầu năm học, tôi
xây dựng và điều chỉnh nội quy lớp phù hợp với điều kiện lớp và yêu cầu của
trường, Đoàn Thanh Niên, triển khai đến tập thể lớp. Yêu cầu các em phải thực
hiện đầy đủ các nội quy, quy định của lớp, của trường. Định hướng cho học sinh
xây dựng các chỉ tiêu lớn của tập thể lớp về học lực, hạnh kiểm, tỷ lệ tốt nghiệp,
đại học, học sinh giỏi cấp tỉnh,…để các thành viên trong lớp phấn đấu thực hiện
được các mục tiêu đề ra. Việc đề ra các yêu cầu đối học sinh sẽ tác mạnh mẽ đến
từng học sinh, buộc các em phải nổ lực, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình
trong các nhóm, trong các tổ tạo sự gắn kết mạnh mẽ giữa các thành viên, tạo
điều kiện để các cá nhân bộc lộ ưu, nhược điểm khi tham gia thực hiện các yêu
cầu.
+ Xây dựng đội ngủ cán bộ lớp và bồi dưỡng các phần tử tích cực: Do
tác động của những yêu cầu, trong tập thể học sinh diễn ra sự phân hóa về khả
năng đáp ứng yêu cầu của học sinh, từ đó xuất hiện những phần tử tích cực. Đó
là những học sinh tự giác, quyết tâm thực hiện tốt những yêu cầu do giáo viên
chủ nhiệm đặt ra. Giáo viên chủ nhiệm cần kịp thời phát hiện, lựa chọn một cách
chính xác những phần tử tích cực và bồi dưỡng thành lực lượng nòng cốt, cử các

em nắm giữ các chức vụ ban cán sự lớp, ban chấp hành chi đoàn, phân công giao
nhiệm vụ cụ thể cho các em phù hợp với chức vụ đảm nhiệm. Thông qua ban
cán sự lớp, ban chấp hành chi đoàn giáo viên chủ nhiệm truyền tải những yêu
cầu, mong muốn, ý kiến của mình với tập thể và tác động giáo dục gián tiếp đến
từng cá nhân.
+ Xây dựng hệ thống viễn cảnh tập thể: “Sự kích thích chân chính của
cuộc sống con người là niềm vui ở ngày mai”. Trong kỹ thuật giáo dục, niềm vui
là một trong những mục tiêu cực kỳ quan trọng. Trước hết, phải tổ chức niềm
vui cho học sinh bằng những kế hoạch hấp dẫn. Tổ chức cho các em giao lưu
bóng đá với các lớp bạn, hướng dẫn để các em tổ chức buổi hoạt động tập thể
như: Toạ đàm nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, 8/3 hoạt động chào mừng
ngày 20/11, tổ chức một chuyến dã ngoại nho nhỏ, một hoạt động ngoài giờ lên
lớp do chính các em thiết kế và thực hiện chương trình,...Những hoạt động ngoài
nhà trường thông thường sẽ giúp cho thầy và trò gần gũi, gắn bó với nhau, dễ
cảm thông cho nhau. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng các mục tiêu
về sự phát triển lâu dài của tập thể và các thành viên gắn với thực tiễn xã hội và
tương lai của đất nước như việc định hướng học tập và lựa chọn nghề nghiệp
trong tương lai,... Mục tiêu đó, cổ vũ học sinh cố gắng học tập và rèn luyện để
thực hiện những khát vọng gắn liền tương lai của mình với tương lai của đất
nước và dân tộc. Khi xây dựng thành công hệ thống viễn cảnh của tập thể, tạo
được tâm lý hồ hỡi vui tươi, phấn khởi cho các em học sinh, giúp các em sống

13


lành mạnh, có những khát khao cháy bỏng, có mục đích, động cơ học tập rõ
ràng, từ đó các em sẽ tích cực tới lớp, tới trường giảm thiểu học sinh vắng học,
bỏ học.
+ Xây dựng kỷ luật tập thể: Các tác động xây dựng tập thể học sinh
vững mạnh sẽ vô hiệu nếu không có kỷ luật tập thể. Kỷ luật tập thể biểu hiện

qua việc chấp hành những qui định chung, là thói quen quan tâm và tôn trọng
của các thành viên đối với các vấn đề tập thể. Kỷ luật không phải là sự cưỡng
bức mà chính là kết quả của quá trình giáo dục ý thức ở học sinh, là kết quả của
những cố gắng của tập thể. Tập thể có kỷ luật là môi trường rèn luyện, phát
triển tốt cho các cá nhân. Giáo viên chủ nhiệm cần phải ý thức sâu sắc giá trị của
kỷ luật và phải xem đó là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng tập
thể và giáo dục học sinh nói chung: Xây dựng nội quy lớp rõ ràng các hình thức
xử phạt học sinh vi phạm như: Đi chậm, vắng học, nghỉ học vô lý do, bỏ giờ, bỏ
tiết, không học bài cũ, tác phong mang mặc, ….
+ Xây dựng dư luận lành mạnh, tiến bộ trong tập thể: Dư luận tập thể
phản ánh những quan niệm, nhận định, đánh giá của tập thể về các vấn đề có
liên quan đến sự phát triển của tập thể và cá nhân học sinh. Nó thể hiện ý thức
tập thể, phong cách đạo đức và không khí tinh thần của tập thể. Vì vậy, việc hình
thành dư luận tập thể lành mạnh, tiến bộ là điều kiện quan trọng để củng cố và
phát triển tập thể, làm cho tập thể thật sự trở thành phương tiện giáo dục có hiệu
quả.
Trong quá trình xây dựng tập thể, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm hình
thành dư luận tập thể về các vấn đề như: Tinh thần, thái độ học tập tích cực, tự
giác; Ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng của học sinh; Đấu tranh với các hành vi sai
trái: bỏ học, quay cóp, thiếu trung thực, thiếu trách nhiệm, chia rẻ, mất đoàn kết,
bao che khuyết điểm,…Sẵn sàng ủng hộ, bảo vệ cái đúng. Bên cạnh đó, giáo
viên chủ nhiệm cần kịp thời phát hiện và ngăn chặn dư luận không lành mạnh,
nhất là các dư luận liên quan đến tâm lý, tình cảm, hành vi, cách ứng xử của các
em nữ có biểu hiện không lành mạnh, bất thường, …tạo cho các em chỗ dựa
vững chắc, ổn định tâm lý, tin tưởng vào tập thể và giáo viên chủ nhiệm để yên
tâm đến lớp, đến trường.
2.3.5 Tư vấn tâm lý cho học sinh nữ lớp chủ nhiệm
Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế-xã hội ngày càng sâu sắc, đa
dạng và phức tạp, đời sống tâm lý học sinh nữ cấp trung học phổ thông đang có
những biến động to lớn với nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Các em thường gặp

những khúc mắc trong học tập, tâm sinh lí, trong mối quan hệ với thầy cô, gia
đình, bạn bè…nếu không được điều chỉnh, giải tỏa kịp thời, thì rất dễ dẫn đến
hậu quả đáng tiếc : nhẹ thì chán học, bỏ học; nặng thì trầm cảm, bạo lực học
đường,.. thậm chí tự tử, gây án mạng. Trước những tình huống nảy sinh trong
quá trình quản lý lớp học, giáo viên chủ nhiệm cần phải có đủ thời gian, đủ kiên
nhẫn, đủ bản lĩnh và quan trọng nhất là phải có đủ tình thương để có thể lắng

14


nghe, thông cảm, thấu hiểu, chia sẻ và định hướng cho các em cách giải quyết
những vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, không nên chờ đến khi thật
sự có vấn đề rồi mới đi tìm cách giải quyết, mà phải phát hiện được vấn đề khi
nó còn tiềm ẩn, ngăn chặn những tình huống xấu phát sinh.
Muốn làm được điều đó, ngay từ đầu năm học, tôi tìm hiểu thật cặn kẽ
tình hình học sinh thông qua các nguồn khác nhau. Từ kết quả học tập, rèn luyện
của năm học trước, từ bản thân các em, bạn bè, gia đình, thầy cô, các mối quan
hệ của các em ngoài xã hội, trên mạng Internet,... để nắm rõ hơn về hoàn cảnh
kinh tế gia đình, tình hình ở nhà, mối quan hệ gia đình, xã hội, những ước muốn,
sở trường, những khó khăn nếu có,… Với những thông tin đầu tiên này, tôi
thường sàng lọc chọn ra những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, những em học
sinh cá biệt, những em đã có những thay đổi bất thường về tâm sinh lý,... Đối
với những học sinh được đánh giá thật bình thường về hoàn cảnh, về tâm lý,
cũng không nên chủ quan mà phải thể hiện sự quan tâm của mình đến với từng
học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng điểm ở một số học sinh các biệt,
học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Sau khi nắm chắc được tình hình học sinh, tôi
tiến hành bước thứ hai: quan sát. Quan sát để phát hiện những thay đổi trong
hành vi, những hiện tượng bất thường trong đời sống học đường, quan sát những
biểu hiện của học sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những biểu hiện
nhỏ: đi học chậm, không mặc đồng phục, cáu gắt với bạn, … hay lớn hơn: nghỉ

học không xin phép, bỏ tiết. Và nghiêm trọng hơn, như vi phạm kiểm tra, vô lễ
với giáo viên,… Với những học sinh cá biệt, việc nghỉ học, bỏ tiết là chuyện
thường ngày, nhưng với những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu
hiện nhỏ nhất cũng là điều cần lưu ý. Ví dụ Em Chuyền là học sinh giỏi của lớp,
em chưa một lần đi chậm hay nghỉ học, một hôm em đi học chậm khi được hỏi
trước lớp về lý do đi chậm, em đã khóc và im lặng. Tôi gặp riêng em hỏi han,
em tâm sự: Thời gian gần đây bố mẹ em hay cãi nhau. Bố em thường xuyên
uống rượu say chửi bới mẹ con em, mẹ em vì buồn phiền nên đã có người đàn
ông khác, sáng nay bố khóa xe đạp lại, em phải đi bộ đến trường, nên bị chậm
cô ạ. Em phải làm sao đây cô? Chắc em không thể đi học được nữa cô ạ. Tôi đã
an ủi, phân tích cho em hiểu, động viên em cố gắng vượt qua hoàn cảnh khó
khăn, đến lớp học tập vì một ngày mai tươi sáng hơn.
Tuy nhiên, không phải lúc nào GVCN cũng có thể ngăn chặn được những
trở ngại về tâm lý của học sinh. Việc trực tiếp tư vấn tâm lý cho các em là một
trong những hoạt động mà có lẽ tất cả GVCN đều trải qua. Tùy vào từng đối
tượng học sinh, tùy vào mức độ của vấn đề, tùy vào nội dung vấn đề mà có cách
giải quyết khác nhau, nhưng nhìn chung, GVCN thường tiếp xúc với 2 đối
tượng: học sinh cần tư vấn và các đối tượng có liên quan.
Với học sinh cần tư vấn, GVCN cần thật nhẹ nhàng, kiên nhẫn, biết lắng
nghe và biết thấu hiểu. Khi thầy cô lắng nghe và thể hiện sự thấu hiểu, các em sẽ
dễ dàng bày tỏ những điều đang chất chứa trong lòng. Tuy nhiên, việc cần làm

15


của GVCN trong công tác tư vấn không phải là chỉ ra cho các em vấn đề nằm ở
đâu và giải quyết vấn đề thay cho các em, mà là tạo điều kiện để học sinh tự nói
ra vấn đề, tự nhìn nhận, đánh giá vấn đề, tự giải quyết vấn đề, nếu như vấn đề
nằm trong khả năng của các em. Với việc lựa chọn nghề nghiệp của các em
trong tương lai, GVCN không nên cho học sinh biết là em thích hợp với nghề gì,

nên chọn ngành học nào. Ở đây, bản thân các em phải tự ý thức được mình là ai,
mình đang ở đâu, và quan trọng hơn, các em phải hiểu rằng tuy cần có sự trợ
giúp, góp ý của người lớn, nhưng tương lai là do mình tự quyết định lấy. Nói
cách khác, GVCN với tư cách là người tư vấn, phải khơi dậy được ở học sinh
niềm tin vào bản thân, gạt bỏ những rào cản tâm lý để các em có thể đối mặt với
những vấn đề của mình. Tuy nhiên, khi vấn đề không chỉ thuộc về cá nhân học
sinh, thì GVCN lại phải trợ giúp cho các em bằng nhiều cách, trong đó có việc
tiếp xúc với các đối tượng có liên quan.
Các đối tượng này có thể bao gồm cha mẹ học sinh, thầy cô bộ môn, bạn
bè, Ban Giám hiệu trường,… Tư vấn cho học sinh không dễ, tiếp xúc với cha
mẹ, thầy cô bộ môn của các em lại càng khó hơn. Xử lý không khéo, sẽ dễ dẫn
đến việc bị hiểu lầm. Vì thế, GVCN cần khéo léo, bình tĩnh và ôn hòa giúp cho
các bậc cha mẹ hiểu được rằng, mục đích của cuộc gặp gỡ là vì con cái của họ,
vì để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập. Với giáo viên bộ môn, cũng cần
phải rất tế nhị, vì những trao đổi có liên quan đến học sinh cũng có thể chạm đến
lòng tự trọng của đồng nghiệp, dễ gây sự hiểu lầm không nên có. Lúc đó,
không giúp được gì cho học sinh của mình mà ngược lại, còn khiến mối quan hệ
thầy trò của các em thêm căng thẳng. Ngoài ra, trong quá trình tư vấn, GVCN
cần phải tranh thủ sự hỗ trợ từ nhiều phía: giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên,
Ban Giám hiệu trường,… nếu thấy cần thiết.
Tóm lại, trong trường trung học phổ thông, việc tư vấn tâm lý cho học
sinh là một hoạt động không thể thiếu của GVCN. Việc làm này đòi hỏi người
thầy phải bỏ ra nhiều thời gian, công sức và tâm huyết. Trước hết, cần chú ý xây
dựng mối quan hệ tốt giữa giáo viên với học sinh trên sơ sở thương yêu, tôn
trọng và chân thành với nhau. GVCN phải thực sự tin tưởng vào các em, tạo
điều kiện để các em phát huy năng lực, sở trường, tạo điều kiện để nâng cao tinh
thần trách nhiệm của các em. GVCN cũng cần tạo cho các em có cảm giác an
toàn trong lớp học bằng cách xây dựng một bầu không khí "gia đình", để các em
thật sự cảm thấy trường, lớp chính là nhà, bạn bè, thầy cô là những người thân
yêu, khi vui có thể cùng nhau cười, khi buồn có thể dựa vào mà khóc. Cần tìm

hiểu để nắm bắt được năng lực, sở trường của học sinh. Việc làm này tưởng như
không liên quan đến hoạt động tư vấn tâm lý, nhưng thật ra lại hỗ trợ đắc lực
cho việc củng cố, kích thích ở học sinh lòng tự tin, giúp các em đủ niềm tin để
đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu thấy các em cần giúp đỡ, hãy giúp đỡ
thật khéo léo, tế nhị; hãy chủ động gần gũi trò chuyện với các học sinh có vấn đề
nếu xét thấy các em chưa đủ mạnh dạn tìm đến với mình. Khi học sinh thật sự
cần được tư vấn, có một nguyên tắc vàng mà GVCN phải thuộc lòng: "Luôn

16


luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu". Ngoài ra, muốn cho hoạt động tư vấn tâm
lý đạt hiệu quả cao, người GVCN cần biết phối hợp các lực lượng giáo dục,
tranh thủ sự giúp sức từ nhiều phía để tạo nên nguồn lực hỗ trợ cho học sinh mọi
nơi, mọi lúc. GVCN có thể tham khảo ý kiến với những người có kinh nghiệm
về vấn đề mà học sinh gặp phải, nhưng tuyệt đối không được biến học sinh của
mình thành trò cười hoặc tâm điểm chú ý của mọi người. Điều đó có nghĩa là,
phải tuân thủ nguyên tắc bảo mật thông tin cho học sinh. Vi phạm nguyên tắc
này, về lâu dài, GVCN sẽ tự đánh mất lòng tin mà học sinh dành cho mình.
Nhìn chung thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc
đời con người. Đây là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối, là
thời kì có sự biến đổi lớn trong toàn bộ nhân cách để các em sẵn sàng bước vào
cuộc sống tự lập. Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan
của cuộc sống sẽ làm nảy sinh ở lứa tuổi học sinh THPT những khó khăn về tâm
lý, tình cảm của lứa tuổi, vướng mắc trong học tập, hướng nghiệp,… cần được
người lớn quan tâm, chia sẻ. Thực hiện tốt công tác tư vấn tâm lý cho học sinh,
GVCN đã đóng góp một phần công sức không nhỏ vào sự nghiệp trồng người.
2.3.6. Phối hợp với gia đình, giáo viên bộ môn, các tổ chức đoàn thể trong
và ngoài nhà trường để giáo duc, giúp đỡ học sinh nữ.
2.3.5.1 Phối hợp với phụ huynh học sinh.

Giáo dục học sinh không phải chỉ là dạy cho các em về kiến thức, mà còn
phải giúp các em hình thành nhân cách; không chỉ là dạy chữ mà còn phải dạy
người. Vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục được mệnh danh là "trồng người". Việc
trồng người này đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội,
mà quan trọng nhất là sự phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
Trong hoạt động giáo dục, không thể thiếu vai trò của gia đình. Gia đình ngoài
vai trò nuôi dưỡng còn có vai trò giáo dục ban đầu và giáo dục kết hợp với nhà
trường khi học sinh đi học, quản lí các em ngoài thời gian ở trường, phối hợp
với nhà trường thông qua giáo viên chủ nhiệm để giúp các em tiến bộ. Kết quả
giáo dục muốn thành công thì phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình,
nhà trường. Vì vậy trong quá trình làm công tác chủ nhiệm, nắm được đặc điểm
địa phương còn nhiều yếu tố từ phong tục tập quán còn ảnh hưởng nhiều đến
học sinh nhất là các em học sinh nữ, bản thân tôi luôn tận dụng triệt để buổi họp
phụ huynh đầu năm để trao đổi, thảo luận, trình bày quan điểm của bản thân,
những mong muốn yêu cầu đối với tập thể học sinh, những tồn tại hạn chế, đồng
thời phân tích rõ những yếu tố ảnh hưởng không tốt tới các em đặc biệt là các
em nữ mong các bậc phụ huynh quan tâm, kết hợp giáo dục từ gia đình, lấy số
điện thoại của phụ huynh, lập cam kết, quy tắc ứng xử, phối hợp cùng giáo
dục,...
Trong quá trình chủ nhiệm tôi thường xuyên liên lạc qua sổ liên lạc điện
tử với phụ huynh học sinh, thông qua sổ liên lạc giáo viên chủ nhiệm luôn cung
cấp thông tin và tình hình học tập, rèn luyện của từng học sinh tới từng gia đình

17


học sinh đồng thời nhận được sự phản hồi thông tin từ phía cha mẹ học sinh để
phối hợp giáo dục, đặc biệt là giáo dục học sinh vi phạm đạo đức, học sinh cá
biệt, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh hay vắng học, bỏ tiết, có những
biểu hiện bất thường, ... để tìm hiểu nguyên nhân kết hợp cùng giáo dục.

Trong quá trình chủ nhiệm lớp, tôi thường lên kế hoạch kết hợp với ban
đại diện cha mẹ học sinh, đến thăm gia đình học sinh, để hiểu rõ hơn hoàn cảnh,
điều kiện gia đình học sinh, tạo mối quan hệ thân tình, gần gủi để tìm biện pháp
kết hợp cùng giáo dục.
2.3.5.2.Phối hợp với giáo viên bộ môn, Ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường và ngoài xã hội.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa các tổ chức đoàn thể nhà trường,
giữa giáo viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ nhiêm. Với tư cách sư phạm,
giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh lớp chủ nhiệm tất cả
các yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường không phải bằng mệnh lệnh mà
bằng sự thuyết phục, cảm hoá, bằng sự gương mẫu của người giáo viên chủ
nhiệm để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự nguyện, tự
giác. Với kinh nghiệm và uy tín của mình, giáo viên chủ nhiệm có khả năng biến
những chủ trương, kế hoạch đào tạo của nhà trường thành chương trình hành
động của tập thể và cá nhân mỗi học sinh trong lớp. Mặt khác, giáo viên chủ
nhiệm là người tập hợp ý kiến của học sinh lớp chủ nhiệm phản ánh với ban
giám hiệu, với các tổ chức trong nhà trường và các giáo viên bộ môn làm cho
các thông tin truyền tải mang tính khách quan trung thực, giải toả được những
băn khoăn, vướng mắc của các em, tạo được hứng thú trong học tập cho các em.
Giáo viên chủ nhiệm kết hợp giáo viên bộ môn để nắm được hành vi, thái
độ, kết quả học tập của các em để từ đó có biện pháp tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ,
giáo dục kịp thời.
Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với tổ chức Đoàn Thanh Niên, (đặc biệt là
ban nữ sinh) tổ chức các sân chơi, các câu lạc bộ, các buổi hoạt động ngoại
khóa, tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, tình bạn tình yêu chân chính, luật hôn
nhân gia đình, tư vấn hướng nghiệp, thành lập tổ tư vấn tâm lý,...tạo cho các em
được học tập, vui chơi, trang bị thêm những kiến thức, được giáo dục kỹ năng
sống, được tư vấn giải đáp thắc mắc khi các em gặp khó khăn trong học tập,
cuộc sống, rào cản về giới, giúp các em có định hướng, động cơ học tập đúng
đắn để từ đó các em hiểu giá trị bản thân, tích cực đến lớp, đến trường.

Liên kết, phối hợp với các đoàn thể xã hội ngoài nhà trường trong giáo
dục thế hệ trẻ là một nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Phối hợp tốt
với các đoàn thể xã hội ngoài nhà trường không chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức
mà quan trọng hơn cả là xây dựng được chương trình, kế hoạch hoạt động nhằm
thống nhất, khép kín hoạt động của lớp chủ nhiệm. Ví dụ, Phối hợp với địa
phương để quản lý học sinh vắng học, bỏ học, hay nhờ địa phương can thiệp
ngăn chặn những cuộc hôn nhân pháp luật chưa cho phép (tảo hôn), hay hàng
năm nhà trường có tổ chức phối hợp với trung tâm y tế dự phòng về nói chuyện
với các em nữ về vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên. Từ các hoạt động ấy,

18


giáo viên chủ nhiệm là người sẽ trực tiếp chỉ ra cho các em thấy được những
hậu quả của quan hệ tình yêu không lành mạnh, những hệ lụy từ việc có thai ở
tuổi vị thành niên, nạo phá thai, những hậu quả mà các bà mẹ trẻ ở tuổi vị thành
niên phải trải qua,...từ đó giúp các em có những kiến thức, hiểu biết đúng đắn,
xây dựng thiết lập được các mối quan hệ tình bạn, tình yêu trong sáng, cố gắng
vươn lên học tập và trở thành những con người có ích cho xã hội.
2. 4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm thực tế, kết hợp với
sự nhiệt tình của tuổi trẻ, sự yêu nghề, những cố gắng nỗ lực hết lòng vì học sinh
thân yêu, tôi đã áp dụng các biện pháp nêu trên trong công tác chủ nhiệm, năm
học 2015-2016 với lớp 12A1, và đã thu được một số kết quả sau:
HỌC LỰC (học sinh)
GIỎI KHÁ
TB
YẾU
Học kì I
3

28
2
0
Học kì II
3
30
0
0
Cả năm
3
30
0
0

HẠNH KIỂM (học sinh)
TỐT
KHÁ
TB
YẾU
33
0
0
0
33
0
0
0
33
0
0

0

Lớp có nhiều tuần và tháng được nhận cờ thi đua của ban nề nếp, và xếp
hạng thi đua thứ 1/9 lớp trong trường, trong các đợt thi đua lớp luôn xếp hạng
nhất về mọi mặt: học tập, nề nếp, xếp loại chung và các hoạt động thi đua khác
như: Văn nghệ, thể thao, cắm trại,... Tập thể lớp được công nhận là “Lớp tiên
tiến xuất sắc”, chi đoàn đạt danh hiệu “Chi đoàn vững mạnh”.
Số học sinh vắng học hàng tuần giảm rõ rệt, từ chỗ vắng học trung bình
20-40 lượt/tuần(lớp 10, 11) thì nay giảm xuống còn khoảng 5-7 lượt/ tuần. Đặc
biệt không còn học sinh bỏ học(trong năm học 2015-2016, đã phát hiện kịp thời,
ngăn chặn và động viên được 3 em có ý định bỏ học quay lại trường học tập), ý
thức học tập của các em cũng được nâng lên, không có học sinh bỏ giờ, bỏ tiết.
Số buổi học các em đi đầy đủ 100% tăng lên, điều mà chưa thấy ở các năm học
trước. Các em trong lớp cũng có ý thức hơn trong việc đoàn kết xây dựng tập thể
lớp vững mạnh, một số em trước ít tham gia vào hoạt động chung của lớp, còn
trầm trong học tập thì nay được sự động viên của giáo viên chủ nhiệm, của các
bạn trong lớp, các em đã mạnh dạn xung phong tham gia vào các hoạt động tập
thể như tham gia là thành viên của đội bóng đá, văn nghệ,… của lớp để tham gia
hoạt động ở trường. Các em cũng tích cực hơn trong học tập như thường xuyên
trao đổi bài với nhau, hỏi bài với thầy cô mỗi khi gặp các bài khó hoặc không
hiểu, các em đã có những kiến thức, nhận định về giới, biết quan hệ và cư xử
đúng mực trong tình bạn, tình yêu,…Gia đình các em cũng có sự quan tâm tạo
điều kiện cho các em như thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để biết
tình hình con em mình, trực tiếp gặp để trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để
thống nhất biện pháp cùng giáo dục,…làm cho khoảng cách giữa gia đình và nhà
trường trở nên gần gũi hơn, các thông tin hai chiều về học sinh được thường

19



xuyên cập nhật để cả gia đình và nhà trường cùng quản lí, giáo dục các em được
tốt hơn. Hội phụ huynh lớp cũng thường xuyên thăm hỏi, động viên các em
nhiều hơn, hầu hết các em nữ trong lớp đã ổn định tâm lý, biết cách giải bầy chia
sẻ với bạn bè, giáo viên để tìm biện pháp khắc phục khi gặp khó khăn, đặc biệt
các em đã thay đổi nhận thức, tìm được mục tiêu của việc học tập. Trước đây
các em chưa biết học xong cấp 3 để làm gì, nhiều em không đủ tự tin để đăng kí
đi học một ngành hoặc một nghề nào thì giờ đây hầu hết các em học sinh trong
lớp đã có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, nhiều em làm hồ sơ đăng kí dự thi
THPT Quốc gia để xét và vào các trường đại học, chuyên nghiệp và dạy nghề,…
3. KẾT LUẬN.
3.1. Kết luận
Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi người giáo viên chủ
nhiệm phải bỏ nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình, giáo
viên chủ nhiệm cần biết đặt tình thương, trách nhiệm để giải quyết các tình
huống của lớp chủ nhiệm trên cơ sở nề nếp, kỷ cương của nhà trường, biết phối
hợp chặt chẽ giữa ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy, trong
việc tổ chức giáo dục học sinh, hoạt động giáo viên chủ nhiệm rất đặc thù và đầy
sáng tạo, phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Độ tuổi, mức độ trưởng thành của học sinh.
- Hoạt động của ban cán sự lớp.
-Phong cách làm việc của các giáo viên bộ môn.
- Điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình học sinh, và các tổ chức xã
hội có liên quan.
Do vậy, không thể có một khuôn mẫu nhất định cho hoạt động của giáo
viên chủ nhiệm. Công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà
trường, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải hết sức sáng tạo, có tinh thần trách
nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm vụ này có hiệu quả.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục, tác động đến nữ sinh lớp chủ
nhiệm mà tôi đã vận dụng có hiệu quả trong công tác chủ nhiệm trong năm qua
ở lớp 12A1. Tôi mạnh dạn viết lên một số kinh nghiệm của mình và đưa ra đây

để đồng nghiệp và bạn đọc cùng tham khảo, những mong có thể góp một phần
nhỏ bé để duy trì sĩ số và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh ở
trường Bá Thước 3 nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung.

20


Trong phạm vi đề tài còn mang nhiều tính chủ quan và không tránh khỏi
những thiếu sót, vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của ban
giám hiệu nhà trường và quý đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị và đề xuất
+ Đối với sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa: Nên tổ chức các lớp tập
huấn công tác chủ nhiệm cho giáo viên các trường thường xuyên hơn. Đưa nội
dung giáo dục giới tính, và tư vấn tâm lý học đường vào trường học.
+ Đối với trường: Nên tổ chức các hội thảo về công tác chủ nhiệm hàng
năm để các giáo viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VI

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người viết sáng kiến này

Trịnh Thị Vân

Tài liệu tham khảo
1. Module THPT 11- Chăm sóc hỗ trợ tâm lý học sinh nữ, học sinh người

dân tộc thiểu số trong trường THPT -Nguyễn Thị Hương.
2. Kỹ năng công tác giáo viên chủ nhiệm- NXB Lao Động.
3. Giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông trung học- Vương Gia Lâm
(biên dịch Đặng Văn Hảo)- NXB Văn hóa thông tin.
4. Sức khỏe giới tính tuổi mới trưởng thành - Thanh Giang - NXB Quân
Đội Nhân Dân.
5. Tư vấn tâm lý học đường - Nguyễn Thị Oanh - NXB trẻ.

21



×