Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỒNG tác GIÁO dục học SINH cá BIỆT ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.79 KB, 12 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT TẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Người thực hiện: Lê Thị Phượng
Chức vụ: Giáo viên; TTCM
SKKN thuộc lĩnh vực: chủ nhiệm lớp

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC
TT
I
1
2
3
4
II
1
2
2.1
2.2
3
3.1


3.2
3.3
3.4
4
III
1
2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
NỘI DUNG SKKN.
Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Thực trạng công tác giáo dục học sinh.
Mặt tích cực
Mặt hạn chế
Các giải pháp tổ chức thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
Có các biện pháp nắm bắt tâm lí và đặc điểm học sinh
Xây dựng kế hoach giáo dục cụ thể.
Lựa chọn và áp dụng các biện pháp giáo dục phù hợp.
Có các biện pháp khiểm tra, đánh giá
Kết quả thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận.
Kiến nghị.

Trang

1
1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
4
5
7
8
8
9
9


I. MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ chức , có mục đích của xã hội nhằm
bồi dưỡng và phát triển toàn diện con người về trí tuệ, đạo đức, lối sống, tư
tưởng, kĩ năng hoạt động . . . trong đó giáo dục đạo đức là một nội dung quan
trọng. Tuy nhiên, giáo dục đạo đức học sinh không phải là một hoạt động dễ
dàng, trong một tập thể lớp luôn tồn tại những học sinh dễ giáo dục và những
học sinh khó giáo dục, luôn xuất hiện những hành vi không mong đợi hoặc
những học sinh mà chúng ta thường gọi là học sinh cá biệt. Những học sinh có

những thái độ, hành vi không phù hợp với các giá trị, nội quy, truyền thống của
tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người học sinh, hoặc
thiếu văn hóa, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người, đồng thời không có
động cơ học nên kết quả học tập yếu, kém….được lặp lại thường xuyên và trở
thành hệ thống.
Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông đang ở giai đoạn phát triển những hoài
bão, ước mơ và tích lũy những kĩ năng, tri thức để bước vào đời và thực hiện
những mong muốn của mình. Trong giai đoạn này, nếu các em có những lệch lạc
trong thái độ, hành vi đói với học tập và rèn luyện mà không được giúp đỡ điều
chỉnh kịp thời thì sẽ ảnh hưởng nặng nề đến sự thành công và hạnh phúc của các
em trong tương lai. Hơn nữa, nếu trong lớp để tồn tại những học sinh cá biệt
luôn có những hành vi tiêu cực thì sẽ ảnh hưởng đến tập thể và các thành viên
khác. Thực tế cho thấy, nhiều giáo viên cảm thấy rất khó khăn, có khi là bất lực
khi trong lớp có những học sinh cá biệt. Vì vậy, giáo viên cần có những kĩ năng
giúp các em này điều chỉnh, thay đổi niềm tin, thái độ, hành vi của mình để các
em có tương lai tốt đẹp hơn.
Trong qúa trình công tác hơn 15 năm qua, tôi đã luôn thực hiện tốt công tác
chủ nhiệm lớp, công tác giáo dục học sinh mà đặc biệt là giáo dục học sinh cá
biệt. Với sự nhiệt tình, tâm huyết trong công việc cùng với những kĩ năng, giải
pháp phù hợp tôi đã giúp đỡ, động viên các em tiến bộ trong học tập và rèn
luyện. Nhiều em từng là học sinh cá biệt nhưng đã biết tu dưỡng, rèn luyện trở
thành những học sinh ngoan, thành những công dân tốt và thành công trong cuộc
sống . Chính vì vậy, tôi đúc rút và viết nên sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục học sinh cá biệt ở trường
trung học phổ thông” , mong rằng nó sẽ giúp ích cho các bạn bè, đồng nghiệp
trong công tác giáo dục học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu.
Sáng kiến kinh nghiệm này được được đúc kết nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục học sinh cá biệt ở trường trung học phổ thông Lê Viết
Tạo. Bên cạnh đó, sáng kiến này có thể góp phần giúp đỡ các đồng nghiệp ở các

trường khác có thể vận dụng để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục học sinh cá
biệt ở đơn vị mình.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được nghiên cứu, áp dụng thực tế ở tập thể
1


lớp 11D và 12D, trường trung học phổ thông Lê Viết Tạo trong hai năm học
2015 – 2016 và 2016 – 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Sáng kiến kinh nghiệm đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết; phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu
thập thông tin; phương pháp đối chứng so sánh.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Sáng kiến kinh nghiệm này đã được tôi rút ra sau khi nghiên cứu và áp dụng có
hiệu quả các tài liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới phương pháp quản
lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực (Nhà xuất bản Hà Nội
năm 2009); Một số vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường Trung học phổ
thông (Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội năm 2011; Giáo trình chuyên đề
giáo dục kĩ năng sống (Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội năm 2009)….
2. Thực trạng công tác giáo dục học sinh cá biệt trước khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm.
2.1. Mặt tích cực.
Theo quan điểm giáo dục của cha ông ta từ xưa đến nay “ Tiên học lễ, hậu học
văn ”, việc giáo dục đạo đức luôn được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, trong tất cả các
nhà trường việc dạy người luôn được đánh giá cao và coi trọng. Nhiều thầy cô
giáo đã đem hết nhiệt tình, tâm huyết, công sức và tài năng của mình cống hiến
cho sự nghiệp trồng người và đã đem lại những kết quả cao. Đa số các em học
sinh có phẩm chất đạo đức lối sống trong sáng, lành mạnh, kính thầy, mến bạn.

Các em rất tích cực trong hoạt động học tập, hoạt động tập thể tại trường cũng
như tham gia các hoạt động xã hội khác như hoạt động từ thiện, nhân đạo, hoạt
đọng bảo vệ môi trường . . . .Các em luôn phấn đấu để trở thành con ngoan trò
giỏi, tích cực học tập để mai này lập thân, lập nghiệp, đem lại vẻ vang cho gia
đình, nhà trường và đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước.
2.2. Mặt hạn chế.
Hoạt động giáo dục học sinh là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Nó là
một hoạt động sư phạm nhưng đồng thời cũng là một nghệ thuật, một khoa
học, do vậy đòi hỏi những người làm công tác chủ nhiệm lớp phải vừa là một
nhà giáo, vừa là một nghệ thuật gia nhưng đồng thời cũng phải là một nhà
khoa học thực thụ.
Để đạt hiệu quả cao trong công tác quản lí, giáo dục học sinh đòi hỏi người
thầy phải hiểu biết về tâm lí học sinh, phải có phương pháp giáo dục phù hợp
với lứa tuổi , với đặc điểm học sinh và phải có các kĩ năng xử lí các tình huống
sư phạm. Tuy nhiên qua thực tế nhiều năm nay cho thấy, hoạt động chủ nhiệm
lớp đang có nhiều vấn đề đáng quan tâm: một số thầy cô giáo trẻ, tuổi đời và
tuổi nghề còn ít nên thiếu kinh nghiệm trong quản lí học sinh, một số khác do
năng lực bản thân hoặc do sự tác động từ các yếu tố tiêu cực của xã hội nên lơ là
trong công tác chủ nhiệm lớp . . dẫn đến hiệu quả công tác giáo dục học sinh
thấp, trong lớp còn có nhiều học sinh chưa ngoan, ảnh hưởng xấu đến các mặt
2


giáo dục khác và đến sự phát triển xã hội.
Từ những hạn chế của công tác giáo dục học sinh đã làm cho một bộ phận học
sinh tha hóa về đạo đức, lối sống, có những hành vi thô lỗ với các thầy cô giáo,
với nhân viên nhà trường, thô tục với bạn bè làm mất đi nét đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc “ Tôn sư trọng đạo ”, “ Kính thầy mến bạn” và gây ra
những tổn thương về tinh thần, thể chất cho thầy cô, bạn bè.
Một bộ phận khác lại rơi vào lối sống thực dụng, ăn chơi, yêu đương sớm,

quan hệ tình dục sớm và không an toàn, không lành mạnh để lại những hậu quả
xấu cho bản thân, gia đình và xã hội. Nhiều em còn sa vào các tệ nạn xã hội như
nghiện hút, đánh bạc, lô đề, trộm cắp, nghiện trò chơi điện tử . . .làm thiệt hại
kinh tế gia đình và mất trật tự an toàn xã hội.
Cũng phải khẳng định rằng việc các em tha hóa về đạo đức, lối sống không
phải hoàn toàn do lỗi của các thầy cô và nhà trường mà một phần là do cách giáo
dục từ gia đình, sự tác động từ xã hội và cái tôi tâm lí cá nhân. Tuy nhiên, trước
thực trạng đó, là những người thầy – có trách nhiệm chính trong việc giáo dục
con người- chúng ta cần tích cực hơn nữa để khắc phục những hạn chế trong
việc giáo dục học sinh nói chung và giáo dục học sinh cá biệt nói riêng, cần phải
có những biện pháp giáo dục phù hợp, mang lại hiệu quả cao.
3. Các giải pháp đã tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả giáo dục học
sinh cá biệt .
Để thực hiện tốt công tác quản lí, giáo dục học sinh cá biệt trong thời gian qua
tôi đã thực hiện các giải pháp sau:
3.1. Nắm bắt tâm lí và đặc điểm của học sinh.
Một trong những kinh nghiệm của cha ông ta từ ngàn đời nay là : biết mình
biết người trăm trận trăm thắng. Để thực hiện có hiệu quả các hoạt động giáo
dục thì trước hết người thầy phải có những hiểu biết về học sinh. Thầy phải nắm
bắt được các đặc điểm tâm lí chung của lứa tuổi học sinh, tâm lí giới tính và các
đặc điểm riêng về tính cách của từng học sinh, đặc điểm mọi mặt của học sinh
để có các biện pháp giáo dục phù hợp. Vì vậy giải pháp đầu tiên tôi thực hiện là
nắm bắt tâm lí và đặc điểm mọi mặt của học sinh, hiểu được hoàn cảnh cụ thể
của từng em, biết được những trở ngại trong học tập và những khó khăn về mặt
tâm lí của học sinh để kịp thời hỗ trợ, khích lệ các em hành động đúng, giúp các
em tránh được những hành vi không mong đợi.
Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này, tôi đã quan tâm, tìm hiểu về học sinh
qua các biện pháp sau:
+ Tìm hiểu tâm lí chung của các em thông qua các giáo trình về tâm lí học sư
phạm, giáo trình tâm lí học lứa tuổi, giáo trình tâm lí học giới tính. Thông qua

các tài liệu nghiên cứu có tính khoa học ấy để biết được các đặc điểm tâm lí,
sinh lí chung của lứa tuổi , tâm lí giới tính của học sinh.
Nắm bắt tâm lí cụ thể của từng học sinh thông qua các hoạt động thực tế:
+ Tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em trong các hoạt động ngoại khóa,
trong các giờ sinh hoạt lớp. Trong quá trình chủ nhiệm tôi thường nói chuyện ,
tâm sự với các em về các chủ đề mà các em quan tâm, về các vấn đề mà các em
3


thường gặp trong cuộc sống. Nhờ đó tôi đã tạo ra được sự thân thiện với các em,
các em rất tin tưởng và đã coi tôi là một người thân để các em bày tỏ những tâm
tư, tình cảm, nguyện vọng của mình.
+ Tìm hiểu thông tin của học sinh qua hoạt động thăm dò bằng phiếu kín.
Trong các giờ sinh hoạt lớp tôi đã thường xuyên tiến hành việc thăm dò bằng
phiếu kín, và qua đó tôi đã nắm bắt được chính xác hơn những vấn đề đang xảy
ra trong lớp để có biện pháp xử lí ngay.
+ Tìm hiểu thông tin về các em thông qua các buổi gặp mặt và trò chuyện với
phụ huynh học sinh đặc biệt là những học sinh cá biệt. Sau khi tổng kết mỗi tuần
hoặc khi có những vấn đề đột xuất có tính nghiêm trọng xảy ra, tôi tiến hành
mời gặp và trao đổi với phụ huynh học sinh ngay để kịp thời khắc phục lỗi của
học sinh đồng thời thông qua phụ huynh tôi sẽ hiểu hơn về hoàn cảnh sống ,
những khó khăn về từng phương diện của từng học sinh, những nhu cầu, sở
thích, mong muốn, điểm mạnh của từng học sinh cá biệt.
+ Nắm bắt tâm lí, đặc điểm của các em thông qua thái độ trong giờ học và
thông qua các hoạt động tập thể tại trường để đánh giá ý thức học tập và rèn
luyện của học sinh.
+ Nắm bắt tâm lí, thái độ học tập của học sinh thông qua sự trao đổi hoặc
phản ánh của giáo viên bộ môn. Trong năm học tôi thường trao đổi với các thầy
cô giáo dạy các bộ môn ở lớp tôi để biết được tình hình học tập của các em để
kịp thời uốn nắn ngay những hành động và thái độ học tập chưa đúng của những

học sinh chưa ngoan, thiếu ý thức trong học tập.
+ Nắm bắt đặc điểm của học sinh thông qua sự quan sát. Để hiểu đầy đủ hơn
về học sinh, ngoài những biện pháp trên tôi còn bổ sung cho sự hiểu biết của
mình bằng những quan sát từ thực tế cuộc sống của các em. Thông qua cách đối
nhân xử thế, thông qua thái độ, tình cảm của các em đối với thầy cô, bạn bè,
người thân ; thông qua những việc làm của các em trong cuộc sống mà tôi biết
được các em có phẩm chất đạo đức như thế nào.
Chính nhờ những biện pháp trên tôi đã hiểu cụ thể đặc điểm của từng học sinh,
nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt, những học sinh cá biệt, hay nghịch , lười
biếng trong học tập….để đưa ra những biện pháp giáo dục phù hợp và mang lại
hiệu quả cao.
3.2. Lập kế hoạch giáo dục cụ thể.
Trong bất kì một công việc nào muốn đạt hiệu quả cao chúng ta phải có kế
hoạnh cụ thể, kế hoạch càng cụ thể và sát thực thì việc thực hiện càng dễ dàng
và sẽ góp phần đem lại hiệu quả cao. Nên trong quá trình chủ nhiệm lớp tôi đã
căn cứ theo kế hoạch chung của nhà trường và đặc điểm riêng của lớp để lập kế
họach giáo dục cụ thể cho công tác giáo dục học sinh của mình.
KẾ HOẠCH GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
* Căn cứ để lập kế hoạch:
- Đặc điểm chung của lớp:
+ Những thuận lợi:………….
+ Những khó khăn:…………
4


- Đặc điểm, số lượng học sinh cá biệt trong lớp:
+ Số lượng học sinh học kém, nhác học:………
+ Số lượng học sinh chưa ngoan, hay vi phạm nội quy trường lớp
* Chỉ tiêu phấn đấu:
- Chỉ tiêu chung:

Học lực :
+ Học sinh đạt loại giỏi : số lượng .....; % .........
+ Học sinh đạt loại khá : số lượng .....; %..........
+ Học sinh đạt loại TB : số lượng .....; %..........
+ Học sinh loại yếu
: số lượng ......; %.........
- Hạnh kiểm :
+ Học sinh xếp loại tốt : số lượng........; % ........
+ Học sinh xếp loại khá : số lượng........; %........
+ Học sinh xếp loại TB : số lượng .......; % .......
+ Học sinh xếp loại yếu : số lượng .......; %.......
* Công tác giáo dục học sinh cá biệt:
+ Học sinh cá biệt về học tập: cần giảm …..%
+ Học sinh cá biệt về rèn luyện:…………%
* Các biện pháp để thực hiện kế hoạch
- Biện pháp giáo dục chung
- Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
* Đánh giá kết quả, bài học kinh nghiệm
3.3. Lựa chọn và vận dụng phù hợp các giải pháp giáo dục học sinh cá biệt.
Biện pháp giáo dục là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của
công tác chủ nhiệm. Trong những năm qua tôi đã trăn trở với công tác của mình
và đã tìm ra nhiều biện pháp giáo dục phù hợp và mang lại hiệu quả cao.
+ Quan tâm sâu sắc, xây dựng quan hệ tin cậy, tôn trọng, thân thiện với học
sinh cá biệt, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt.
Trong bất kì công việc nào cũng cần phải hiểu rõ về công việc mình đang làm
do vậy đòi hỏi phải có sự nhiệt tình và tâm huyết với công việc. Hiểu rõ điều đó,
nên trong quá trình chủ nhiệm lớp tôi luôn quan tâm đến lớp, thường xuyên đến
lớp gần gũi với các em, nhiệt tình với các hoạt động của lớp với vai trò là một cố
vấn, định hướng cho hoạt động của lớp. Không những thế tôi thường xuyên
quan tâm tìm hiểu, chuyện trò để tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, tâm tư, tình

cảm của các em, nguyên nhân nào làm cho các em trở thành học sinh cá biệt.
Khi biết được gia đình học sinh có những chuyện đau buồn xảy ra, tôi luôn có sự
quan tâm, chia sẻ, động viên các em kịp thời để các em ổn định tâm lí, chăm lo
cho công việc học tập. Đối với những em trở nên cá biệt vì những lí do khác, tôi
luôn tìm hiểu kĩ nguyên nhân để đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp.
+ Giúp học sinh biết nhận thức đúng về điểm mạnh và điểm yếu của bản thân.
Để học sinh có những ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ, trong các tình
huống, tôi đã giúp các em nhận thức đúng được bản thân, các em biết được mình
là ai, mình có điểm mạnh, điểm yếu gì, mình có những giá trị gì…Trên cơ sở đó,
5


tôi khích lệ động viên để các em phát huy những điểm mạnh và giá trị đó, đồng
thời khắc phục những hạn chế, thay đổi hành vi, thói quen xấu theo hướng lành
mạnh và tích cực lên.
+ Giúp học sinh nhận thức được hậu quả của những hành vi tiêu cực và tất yếu
phải thay đổi thói quen, hành vi cũ.
Trong qúa trình giáo dục học sinh cá biệt, tôi đã kết hợp với tập thể lớp giúp
học sinh nhận thức được nếu cứ hành động, ứng xử theo cách làm mọi người
khó chịu, làm mọi người tổn thương, cản trở sự phát triển chung… thì không
hcir làm khổ, làm hại người khác, mà nguyên tắc sống trong tập thể, trong xã hội
không cho phép bất cứ ai àm như vậy. Nếu không thay đổi những hành vi, thói
quen tiêu cực thì sẽ ảnh hưởng đến tương lai, đến sự thành công của cá nhân…
Từ sự nhận thức này, học sinh sẽ dần dần thay đổi thái độ, hành vi, cách ứng xử
của mình cho phù hợp.
+ Quan tâm hỗ trợ các em vượt qua những khó khăn và đáp ứng nhu cầu chính
đáng của học sinh cá biệt.
Tôi đã tổ chức cho lớp quan tâm, giúp đỡ học sinh cá biệ khi các em gawpj
khó khăn; phụ đạo bồi dưỡng thêm để các em có thể nắm bắt được những kiến
thức, kĩ năng cơ bản, vận dụng phương pháp tự học bộ môn. Điều này rất quan

trọng vì nó giúp học sinh dần thành công trong từng nấc thang chiếm lĩnh tri
thức. Từ đó từng bước tạo cho học sinh niềm vui, niềm tin về khả năng học tập
của bản thân, các em tích cực hơn trong học tập và rèn luyện.
+ Khen thưởng, động viên tinh thần hợp lí, xây dựng những tấm gương học sinh
điển hình để các học sinh khác noi theo.
Tinh thần, ý thức là một yếu tố quan trọng tác động tích cực đến thành công
của công việc. Trong quá trình học tập rèn luyện của các em tôi luôn quan tâm,
phát hiện và khen thưởng, động viên kịp thời để khuyến khích các em, làm cho
các em tích cực hơn. Tôi đã quan tâm phát hiện và kịp thời biểu dương khi các
em có sự tiến bộ, cho dù là những tiến bộ nhỏ nhất. Với những việc làm đó, các
em đã cố gắng phấn đấu vươn lên trong học tập, tạo nên một không khí thi đua
sôi nổi. Đồng thời tôi cũng thông qua các hoạt động khen thưởng những học
sinh giỏi, ngoan để có tác động tích cực đến các học sinh cá biệt, giúp cho các
em có ý chí cố gắng vươn lên trong học tập và rèn luyện.
+ Xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong học tập
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định :
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công ”
Chính vì vậy, tôi luôn coi trọng xây dựng tinh thần đoàn kết trong tập thể, xây
dựng tinh thần tương trợ giúp đỡ nhau trong học tập và trong cuộc sống. Tôi
phối hợp với giáo viên bộ môn thành lập các cốt cán bộ môn, giao nhiệm vụ cho
các em tập trung đầu tư vào từng môn học để giúp đỡ các bạn học yếu môn đó
thông qua các giờ sửa bài tập, các giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Khuyến khích
việc thành lập tổ nhóm học tập để các em có thể bổ sung, hỗ trợ nhau. Thu hút
6


các em tích cực tham gia vào các hoạt động đoàn thể, văn hóa, văn nghệ, thể
thao...để giúp các em hiểu nhau hơn, thân thiện với nhau hơn. Đồng thời trong
tập thể có những em có hoàn cảnh khó khăn, tôi kêu gọi động viên các em quyên

góp tiền ủng hộ các bạn để các bạn có tiền nộp học phí. Với tinh thần tương
thân, tương ái; lá lành đùm lá rách tập thể lớp đã giúp đỡ cho những bạn khó
khăn được tiếp tục học tập.
+ Thực hiện tốt đấu tranh phê bình và tự phê bình
Trong cuộc sống ai cũng có thể mắc phải những sai lầm và hạn chế, điều quan
trọng là nhận thức được sai lầm của bản thân và có ý thức tự giác tích cực sửa
chữa, khắc phục. Tôi luôn coi trọng công tác đấu tranh phê và tự phê của học
sinh. Bởi vì chỉ có như vậy học sinh mới tự nhận thức được bản thân mình, mặt
khác lại được nghe sự nhận xét của các bạn khác đối với mình. Thông qua phê
và tự phê, học sinh nhận biết được những ưu điểm, những mặt tích cực của mình
để phát huy và thấy được những khuyết điểm, hạn chế của mình để khắc phục.
Thực hiện quan điểm đó mỗi tháng tôi đều cho học sinh tự nhận xét, đánh giá
và tự nhận kết quả xếp loại hạnh kiểm trong tháng của mình. Sau đó học sinh sẽ
được nghe kết quả theo dõi và nhận xét của cán bộ lớp, cán bộ tổ, ý kiến của
thành viên khác và đưa ra kết quả xếp loại hạnh kiểm. Với cách làm đó hạnh
kiểm từng tháng của học sinh đã được đánh giá và xếp loại chính xác, đảm bảo
sự công bằng.
Trên đây là một số biện pháp hữu hiệu mà tôi đã vận dụng để nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục học sinh cá biệt và đã đạt được những kết quả khả quan.
Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục và rút ra những bài học kinh nghiệm.
Sau bất kì công việc nào đòi hỏi chúng ta phải có quá trình đánh giá để thấy
được những kết quả đã đạt được đồng thời thấy được những hạn chế còn mắc
phải từ đó rút kinh nghiệm cho quá trình hoạt động tiếp theo. Do vậy, sau mỗi
giai đoạn của quá trình giáo dục học sinh, giáo viên chủ nhiệm phải kiểm tra,
đánh giá kết quả đạt được, phát hiện những hạn chế để kịp thời khắc phục, từ đó
làm cho quá trình giáo dục đạt kết quả cao hơn.
3.4. Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục học sinh.
Sau mỗi công việc cần có sự kiểm tra đánh giá kết quả và rút ra những bài học
kinh nghiệm để lần sau thực hiện tốt hơn. Trong quá trình chủ nhiệm lớp tôi đã
vận dụng các biện pháp đánh giá phù hợp, kịp thời điều chỉnh các biện pháp

giáo dục và đã mang lại kết quả tốt. Các biện pháp đánh giá như sau:
- Kiểm tra, đánh giá ở nhiều thời điểm khác nhau:
+ Kiểm tra đánh giá hàng tuần để kịp thời phát hiện những ưu điểm cần tuyên
dương và những nhược điểm cần khắc phục
+ Kiểm tra đánh giá định kì hàng tháng, theo học kì và theo năm học để khẳng
định và công nhận kết quả học tập, rèn luyện của các em đồng thời rút ra những
hạn chế mà các em còn mắc phải, từ đó điều chỉnh kế hoạch giáo dục để nâng
cao hiệu quả.
- Đánh giá hành vi không đồng nhất với đánh giá nhân cách. Khi các em thực
hiện một hành vi không mong đợi nào đó thì tôi chỉ đánh giá hành vi chứ không
7


quy kết hành vi đó thành nét nhân cách của học sinh. Bởi vì đó có thể chỉ là một
hành vi bột phát của các em trong một thời điểm nhất định khi các em không
làm chủ được mong muốn của mình.
- Đánh giá theo quan điểm tích cực đối với học sinh cá biệt. Đánh giá đúng
không chỉ giúp các em nhìn nhận đúng bản thân với những điểm mạnh cần phát
huy và những tồn tại cần khắc phục, mà còn tạo động lực cho học sinh nỗ lực tu
dưỡng, rèn luyện. Chính vì vậy tôi luôn có sự quan sát, theo dõi và đánh giá một
cách sát thực, bằng quan điểm và cách nhìn nhận khách quan thông qua các tình
huống cụ thể, từ đó giúp các em tự nhận thấy được những mặt mạnh, mặt yếu
của mình và phấn đấu tự hoàn thiện bản thân.
4. Kết quả thực hiện sáng kiến kinh nghiệm.
Qua 2 năm thực hiện sáng kiến kinh nghiệm trên, tập thể lớp tôi đã có nhiều
tiến bộ rõ rệt. Tinh thần học tập và rèn luyện của các em đã được nâng cao, đa số
các em tích cực trong học tập, rèn luyện, có ý thức và tinh thần tập thể, có sự
đoàn kết với bạn bè. Các em luôn quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau trong học
tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày, có thể nói rằng các em đã biết sống vì
nhau, sống vì tập thể, có ý thức cộng đồng. Thành tích học tập. thi đua, rèn

luyện của mỗi em và của tập thể lớp đã được nâng cao. Số lượng học sinh cá
biệt đã giảm dần theo từng năm học và đến năm học lớp 12 đã không còn học
sinh cá biệt nữa, các em đều đã ngoan và trưởng thành hơn. Phong trào học tập,
thi đua của lớp đã có đóng góp tích cực vào việc xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực.
Kết quả trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Xếp loại thi đua của
Năm học
lớp
Học lực
Hạnh kiểm
lớp
TB % Yếu % TB % Yếu %
2014- 2015 10D
-Xếp thứ: 7
15 %
8%
17 % 9,5 % - Tập thể tiên tiến
- Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Năm học

Học lực

lớp

TB % Yếu %

Hạnh kiểm
TB %


Xếp loại thi đua
của lớp

Yếu %

2015- 2016

11D

7,5

3

8

4

2016 -2017

12D

4

0

0

0

-Xếp thứ: 4

- Tập thể tiên tiến
xuất sắc
-Xếp thứ: 2
- Tập thể tiên tiến
xuất sắc

8


III. Kết luận và kiến nghị.
1. Kết Luận.
Công tác giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm thường xuyên trong suốt
quá trình làm giáo viên chủ nhiệm của một nhà giáo. Đặc biệt là trong thời kì
hiện nay, do sự ảnh hưởng tác động nhiều mặt của đời sống xã hội ngày càng
xuất hiện nhiều học sinh có những thái độ, hành vi không phù hợp với chuẩn
mực đạo đức và quy tắc chung của tập thể. Do vậy, việc tìm ra những giải pháp
hữu hiệu để giáo dục học sinh cá biệt là một yêu cầu tất yếu đối với mỗi giáo
viên. Đứng trước yêu cầu đó, tôi luôn trăn trở tìm tòi và đã áp dụng một số biện
pháp trên đây để nâng cao chất lượng giáo dục của mình. Tôi nhận thấy đây là
những phương pháp phù hợp, có thể vận dụng có hiệu quả trong công tác giáo
dục học sinh cá biệt ở các trường trung học phổ thông. Vì vậy, tôi viết nên sáng
kiến kinh nghiệm này để nó có thể được kiểm chứng, phổ biến và áp dụng rộng
rãi, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục của các đồng nghiệp.
2. Kiến nghị.
Sáng kiến này của tôi chỉ là một sáng kiến nhỏ của cá nhân, mặc dù đã được
tôi áp dụng và kiểm chứng, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Do vậy , tôi rất mong được sự nhận xét và đánh giá của Hội đồng
khoa học nhà trường, Hội đồng khoa học Ngành cũng như những ý kiến đóng
góp chân thành của bạn bè đồng nghiệp để tôi thực hiện tốt hơn công tác của
mình. Mặt khác, những sáng kiến đã được hội đồng khoa học các cấp đánh giá

cao, có hiệu quả thiết thực trong công tác giáo dục học sinh cần được phổ biến
rộng rãi để chúng tôi học hỏi và áp dụng cho phù hợp với môi trường giáo dục
của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi tự viết,
không sao chép của người khác
Hoằng Hóa , Ngày 25 tháng 4 năm 2017
Người viết sáng kiến

Lê Thị Phượng
Xác nhận của Hiệu trưởng nhà trường

9


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đổi mới phương pháp quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục
kỉ luật tích cực – NXB Hà Nội, năm 2009.
2. Một số vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện
nay- NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2011.
3. Giáo trình chuyên đề giáo dục kĩ năng sống, NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội, năm 2009.
4. Đặc điểm nhân cách của học sinh THCS/THPT hiện nay ( Bài viết
cho tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí, giáo viên chủ nhiệm THCS
và THPT)- Bộ Giáo dục& Đào tạo

10




×