Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Giáo dục kỹ năng chủ động lựa chọn nghề nghiệp, việc làm cho học sinh THPT nguyễn hoàng khi dạy tiết 2 bài 11 GDCD lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGUYỄN HOÀNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“ GIÁO DỤC KĨ NĂNG CHỦ ĐỘNG LỰA CHỌN NGHỀ
NGHIỆP, VIỆC LÀM CHO HỌC SINH THPT NGUYỄN
HOÀNG KHI DẠY TIẾT 2- BÀI 11- GDCD LỚP 11”

Người thực hiện : Bùi Thị Mai
Chức vụ
: Giáo viên
SKKN môn
: Giáo Dục Công Dân

THANH HÓA NĂM 2016


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Những sáng kiến kinh nghiệm đã có liên quan đến giáo dục kĩ năng
sống.


3.2. Giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề của đề tài.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
4.1.Đối với hoạt động giáo dục.
4.2.Đối với bản thân.
4.3.Đối với đồng nghiệp.
4.4.Đối với nhà trường.
III. KẾT LUẬN
1. KẾT LUẬN.
2. KIẾN NGHỊ

2


I. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong chính sách giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ
ba nhiệm vụ cơ bản của giáo dục và đào tạo đó là: “Nâng cao dân trí- Đào tạo
nhân lực- Bồi dưỡng nhân tài”. Như vậy đào tạo nhân lực, tức là đào tạo nguồn
lao động, đặc biệt là lao động có trình độ chuyên môn cao đang là một trong
những nhiệm vụ cấp bách của nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó khoa học, kĩ thuật ngày nay đang phát triển như vũ bão, xu
thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá, hội nhập và hợp tác giữa các nước là xu thế
chung của thời đại. Vì vậy để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá
và hiện đại hoá Đảng ta đã xác định: “Giáo dục, đào tạo toàn diện cả về tri
thức, sức khoẻ, đạo đức, tư tưởng chính trị, năng động, sáng tạo, học phải đi
đôi với hành, lí luận phải gắn với thực tiễn cuộc sống”, thực chất đây cũng
chính là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh mà trong đó “ kĩ năng chủ động lựa
chọn nghề nghiệp, việc làm” trong xã hội ta hiện nay là vô cùng quan trọng và
cần thiết.

Môn giáo dục công dân( GDCD) là một môn học tích hợp để hình thành
thế giới quan và nhân sinh quan cho học sinh, không chỉ vậy nội dung môn học
GDCD lại rất gần với thực tiễn xã hội vì đó là những chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước cho nên rất thuận lợi cho việc giáo dục các kĩ
năng sống cho học sinh như: Bảo vệ môi trường, phòng chống ma tuý,
HIV/AIDS, phòng chống tai nạn thương tích… và đặc biệt là kĩ năng chủ động
lựa chọn nghề nghiệp và việc làm cho học sinh THPT sau khi tốt nghiệp ra
trường để các em có thể lựa chọn cho mình một ngành nghề và việc làm phù
hợp với: “ Khả năng, sở thích và điều kiện” của mình trong tương lai.
Trong khi đó vấn đề giáo dục hướng nghiệp cho học sinh hiện nay đã
được rất nhiều trường quan tâm, tuy nhiên việc thực hiện chưa đạt kết quả cao vì
chủ yếu vẫn dừng lại ở cách thức hướng nghiệp tập trung, chưa đi sâu vào những
biện pháp, lĩnh vực cụ thể. Vì thế học sinh khi tiếp cận còn rất lúng túng, cho
nên khi lên đến lớp 12 các em không tham gia xét tuyển đại học chẳng biết phải
làm gì khi ra trường, còn những em xét tuyển đại học thì chọn trường, chọn
ngành rất khó khăn và lúng túng.
3


Trước tình hình trên, bản thân tôi là một giáo viên rất gần gũi và quan tâm
đến học sinh, lại đang đảm nhiệm dạy một môn học rất đặc thù đó là môn
GDCD để hình thành quan điểm sống cho các em. Vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề
tài sáng kiến kinh nghiệm cho năm học này là: “Giáo dục kĩ năng chủ động lựa
chọn nghề nghiệp, việc làm cho học sinh THPT Nguyễn Hoàng khi dạy tiết 2,
bài 11- GDCD lóp 11”. Đây cũng chính là tâm nguyện của tôi để có một thế hệ
học sinh có kĩ năng lựa chọn nghề nghiệp và việc làm một cách chủ động trong
tương lai.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm đưa ra những giải pháp để giúp
cho học sinh THPT nói chung và trường Nguyễn Hoàng nói riêng có định hướng

đúng đắn để tự mình chủ động lựa chọn một nghề nghiệp cũng như việc làm phù
hợp cho tương lai.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đó là làm rõ những phương hướng trong chính sách giải quyết việc làm
của Nhà nước với những ví dụ cụ thể có thật trong đời sống xã hội, đặc biệt là ở
tỉnh Thanh Hoá và địa phương Hà Trung, ngoài ra còn là những học sinh của
trường THPT Nguyễn Hoàng. Từ đó các em có thể thấy được có nhiều cơ hội,
nhiều ngành nghề để học tập và đi làm sau này phù hợp với mình chứ không
phải con đường duy nhất cho tương lai là nhất thiết phải tham gia thi đại học
theo trào lưu vừa không có khả năng mà lại mất đi cơ hội cho tìm việc làm sớm.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tôi đã sử dụng những phương pháp đặc trưng của bộ môn GDCD như: So
sánh, phân tích, tổng hợp,liên hệ thực tế … kết hợp với sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin để tìm ra được những ví dụ đắt nhất thể hiện bằng những hình ảnh
minh hoạ sinh động có chú thích để góp phần làm sáng tỏ vấn đề và đặc biệt là
giúp bài dạy trở nên hấp dẫn, phát huy tối đa khả năng tích cực, chủ động của
học sinh để bài học thực sự trở thành một cơ sở quan trọng, rèn luyện cho các
em kĩ năng lựa chọn nghề nghiệp, việc làm để ứng dụng vào thực tế sau này.

4


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Bác Hồ đã từng dạy chúng ta rằng: “Học phải đi đôi với hành” và “Thực
tiễn mà không có lí luận là thực tiễn mù quáng, lí luận mà không có thực tiễn là
lí luận suông” hay “Nhiệt tình cộng với ngu dốt là kẻ phá hoại”. Ngoài ra tại
Điều 23 luật giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội

chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân…”
Từ những lời dạy của Bác Hồ và quan điểm về giáo dục của Đảng và
Nhà nước ta như vậy có thể cho thấy việc trang bị cho học sinh những cơ sở lí
luận cần thiết hay nói cách khác đó là những kiến thức cơ bản về kĩ năng sống
để làm hành trang cho các em bước vào xã hội sau khi rời ghế nhà trường THPT
và làm một công dân thực sự là điều vô cùng cần thiết và cấp bách hiện nay.
Trong các kĩ năng sống cần trang bị cho học sinh thì “kĩ năng chủ động lựa
chọn nghề nghiệp và việc làm” là một trong những kĩ năng không thể thiếu được
cho học sinh với tư cách là những công dân bắt đầu bước vào giai đoạn trưởng
thành được đánh dấu bằng việc chủ động lựa chọn nghề nghiệp cho mình.
Thuật ngữ “kĩ năng sống” (KNS) bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ
những năm 1995- 1996 và những năm vừa qua giáo dục phổ thông nước ta luôn
đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp day học gắn với bốn trụ cột
giáo dục của thế kỉ XXI là: “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học
để cùng chung sống” mà thực chất đây là một cách tiếp cận KNS. Vậy KNS là
gì?
“Kĩ năng sống” là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực giúp
các cá nhân có thể ứng sử có hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc
sống hàng ngày. Còn “kĩ năng chủ động lựa chọn nghề nghiệp, việc làm” có
nghĩa là: Khả năng tích cực, chủ động lựa chọn ngành nghề phù hợp với khả
năng, sở thích và điều kiện của mình để học và làm việc có hiệu quả sau khi tốt
nghiệp THPT. Như vậy điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của xã
hội và phong trào thi đua do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo phát động đó là: “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
5


Từ những cơ sở lí luận trên tôi thấy đề tài của tôi có tính khách quan,
khoa học, tính thực tiễn và hiệu quả cao.
2. Thực trạng của vấn trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:

Như chúng ta biết lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi giàu ước mơ,
hoài bão, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá nhưng còn thiếu hiểu biết sâu
sắc về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống nên chưa làm chủ được bản thân, vì thế dễ
bị lôi kéo, kích động. Hơn nữa hiện nay do đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được nâng cao cho nên nhiều gia đình đã rất quan tâm đến việc học
hành của con cái. Bên cạnh đó nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá có rất nhiều công ty sản xuất được xây dựng ở các vùng nông thôn
vì cần lao động gấp nên tuyển lao động không cần có bằng cấp, tay nghề đã làm
cho các em nhận thức mơ hồ rằng không cần học nghề cũng đi làm được mà
không nghĩ đên tương lai lâu dài về yêu cầu trình độ lao động ngày càng cao.
Chính từ những lí do trên mà thực trạng hiện nay đa số học sinh
chọn ngành nghề theo ba xu hướng sau: Thứ nhất là theo trào lưu cùng bạn bè,
thứ hai là đi theo sự sắp đặt của gia đình, thứ ba là không học nghề gì chỉ cần
đậu tốt nghiệp rồi sẽ vào các công ty đi làm. Dù là theo xu hướng nào thì hậu
quả sau này để lại cho xã hội sẽ rất nghiêm trọng vì nó sẽ làm cho năng suất và
hiệu quả công việc không cao, đặc biệt sẽ không đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Học sinh trường THPT Nguyễn Hoàng nói riêng và những trường
ở vùng nông thôn nói chung, các em ở đây đa số là học sinh loại hai, loại ba nên
có trình độ học vấn còn thấp, cho nên các em đều có tư tưởng không dự thi đại
học mà chủ yếu là thi tốt nghiệp, sau đó đi học nghề hoặc đi làm ( năm học
2015- 2016, khối 12 của trường THPT Nguyễn Hoàng có hơn 200 em nhưng chỉ
có khoảng hơn 40 em thi và xét tuyển đại học). Từ đó cho thấy việc giáo dục kĩ
năng lựa chọn ngành nghề, việc làm cho các em ngay từ năm học lớp 11 là điều
rất cần thiết để đến năm lớp 12 các em sẽ chủ động lựa chọn cho mình một
ngành nghề phù hợp để học mà không phải lúng túng trước khi đi làm. Điều này
góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động cho nước ta hiện nay, đặc biệt là
lao động có trình độ chuyên môn hoá và tay nghề cao.
3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Những sáng kiến kinh nghiệm đã có liên quan đến giáo dục KNS.

6


Hiện nay đã có trên 155 quốc gia trên thế giới đưa KNS vào nhà
trường. Ở nước ta giáo dục KNS cho học sinh được tích hợp vào tất cả các môn
học, chủ yếu là các môn xã hội đặc biệt là môn giáo dục công dân. Vì thế đã có
nhiều đề tài sáng kiến kinh nghiệm của môn giáo dục công dân được tích hợp để
giáo dục KNS cho học sinh như:
- “Tích hợp giáo dục KNS cho học sinh” trong bài 13- GDCD lớp 10
- Giáo dục một số KNS cho học sinh trong công tác chủ nhiệm và
môn GDCD.
- Tích hợp giáo dục KNS cho học sinh thông qua nội dung môn học
GDCD 10.
- ………..
Tuy nhiên theo sự tìm hiểu của tôi về nội dung các sáng kiến kinh nghiệm
về KNS đã có, tôi thấy rằng tất cả những đề tài trên chỉ dừng lại ở việc giáo dục
KNS mang tính chất chung chung, phạm vi còn rộng mà chưa đi vào từng lĩnh
vực, vấn đề cụ thể như: Bảo vệ môi trường, phòng tránh tệ nạn xã hội hay chủ
động lưa chọn nghề nghiệp, việc làm…Chính vì thế tôi thấy cần thiết phải có
một đề tài đi sâu giáo dục kĩ năng “ chủ động lựa chọn nghề nghiệp, việc làm”
cho học sinh THPT nhất là với học sinh trường tôi, để chuẩn bị cho các em
những hành trang vững chắc nhất cho mình sau khi tốt nghiệp THPT có một
nghề nghiệp và công việc ổn định.
3.2.Giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề của đề tài:
Tôi nhận thấy rằng môn GDCD có rất nhiều bài có thể tích hợp để giáo
dục kĩ năng “ chủ động lựa chọn nghề nghiệp và việc làm” như: Bài 7- GDCD
lớp 10, bài 7, bài 11- GDCD lớp 11 hay bài 4, bài 8- GDCD lớp 12. Tuy nhiên
dựa vào nội dung của từng bài, tôi thấy tiết 2, bài 11: “ Chính sách dân số và
giải quyết việc làm” là phù hợp nhất. Bởi lẽ đây là bài nói về chủ trương, chính
sách của nhà nước ta về nghề nghiệp và việc làm, từ đó làm cơ sở vững chắc

giúp học sinh lựa chọn việc làm và nghề nghiệp theo đúng quan điểm của Đảng
và Nhà nước đề ra để có định hướng nghề nghiệp đúng đắn và chủ động tìm
kiếm việc làm.
Giải pháp mà tôi sử dụng để tích hợp “ giáo dục kĩ năng chủ động lựa
chọn nghề nghiệp, việc làm” vào tiết học này đó là: Phương pháp nêu và giải
quyết vấn đề, kết hợp với đàm thoại, liên hệ thực tế và sự trợ giúp của công nghệ
7


thông tin bằng những hình ảnh sinh động về những tấm gương sản xuất kinh
doanh giỏi cũng như các làng nghề truyền thống của xứ Thanh để làm rõ nội
dung trọng tâm của bài học đó là: Phương hướng cơ bản của chính sách giải
quyết việc làm.
Địa chỉ tích hợp “giáo dục kĩ năng chủ động lựa chọn nghề nghiệp,
việc làm” trong bài học.
Có hai hình thức tích hợp:
+ Tích hợp toàn bài.
+ Tích hợp một phần nội dung của bài.
Khi dạy tiết 2, bài 11- GDCD 11 tôi đã lựa chọn hình thức tích hợp một
phần nội dung của bài. Cụ thể địa chỉ tích hợp ở bảng sau:
Lớp Tên bài

11

Địa chỉ
hợp.

tích Nội dung giáo dục về kĩ
năng chủ động lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm.

Bài 11:
Tích hợp vào - Phương hướng 1: Tăng
Chính sách phần 2 nội cường sản xuất và dịch
giải quyết dung bài học vụ.
việc làm.
là:
Những - Phương hướng 2:
phương hướng Khuyến khích hành nghề
cơ bản của theo pháp luật, phát triển
chính sách giải các nghề truyền thống.
quyết việc làm. -Phương hướng 3: Đẩy
mạnh xuất khẩu lao động.
- Phương hướng 4: Sử
dụng có hiệu quả nguồn
vốn của nhà nước để giải
quyết việc làm.

Ghi chú

- Sử dung các
hình ảnh minh
hoạ cho các
phương
hướng.

Giáo án tích hợp “ giáo dục kĩ năng chủ động lựa chọn nghề
nghiệp, việc làm” cho học sinh
Học xong bài này học sinh cần đạt được:
* Kiến thức:


8


- Học sinh hiểu được tình hình việc làm ở nước ta hiện nay, các phương
hướng cũng như trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện chính sách giải
quyết việc làm.
* Kĩ năng:
- Học sinh xác định và nói hoặc viết ra được định hướng nghề nghiệp và
việc làm của mình trong tương lai.
* Thái độ:
- Chủ động, tự giác học tập, rèn luyện để có thể đáp ứng được yêu cầu
của việc làm và nghề nghiệp trong tương lai.
Phương tiện dạy học để sử dụng khi dạy trong bài:
- Máy chiếu, máy tính
-Tranh ảnh, những câu chuyện có liên quan đến nội dung tích hợp.
Các hoạt động dạy học
* Ổn định lớp:
* Kiểm tra bài cũ:
* Dạy bài mới: Nước ta là một nước có dân số đông, nhưng lại là nước
có dân số trẻ, vì vậy nguồn lao động rất dồi dào và yêu cầu việc làm cũng rất
lớn.Vậy nhà nước ta đã và đang có những chính sách gì để giải quyết vấn đề
việc làm, chúng ta cùng tìm hiểu tiếp tiết 2 của bài 11: “Chính sách giải quyết
việc làm” .
Hoạt động của thầy và trò
- GV đưa ra một số số liệu
về tình hình việc làm hiện
nay ở nước ta cũng như chất
lượng nguồn lao động. Từ
đó yêu cầu học sinh đưa ra:
“Mục tiêu của chính sách

giải quyết việc làm hiện nay
ở nước ta là gì”?
(Theo báo lao động điện tử:
Năm 2015 Việt Nam có trên
48 triệu người trong độ tuổi

Nội dung chính
I. Chính sách dân số.
II. Chính sách giải quyết việc làm
a. Mục tiêu của chính sách giải quyết việc làm.
Có bốn mục tiêu như sau:
-Tập trung sức giải quyết việc làm cho cả nông
thôn và thành thị.
-Phát triển nguồn nhân lực.
-Mở rộng thị trường lao động.
-Giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng tỉ lệ người lao động
đã qua đào tạo.

9


lao động, trong đó số người
thất nghiệp là 2,31%, nông
thôn chiếm 1,83%, thành thị
3,29%, lao động đã qua đào
tạo còn thấp 21,9%, năng
suất lao động còn thấp chỉ
đạt 79,3 triệu đồng/ lao động
theo tổ chức lao động thế
(PLO) đánh giá Việt Nam là

nước có năng suất lao động
thấp nhất ASEAN).
-GV: Để thực hiện được các
mục tiêu trên Nhà nước ta
đã đưa ra những phương
hướng giải quyết việc làm
như thế nào?
-HS trả lời sau đó giáo viên
sử dụng phương pháp: Đàm
thoại kết hợp với nêu và giải
quyết vấn đề để học sinh
hiểu được nội dung của từng
phương hướng.

b. Phương hướng cơ bản của chính sách giải
quyết việc làm.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong chính
sách giải quyết việc làm Nhà nước ta đã đưa ra
những phương hướng sau:

-Phương hướng thứ nhất : Thúc đẩy sản xuất và
-GV: Nhà nước ta đã làm gì dịch vụ.
để thúc đẩy sản xuất và dịch
vụ phát triển? Cho ví dụ?
-GV: Nội dung của phương
hướng thứ nhất có nghĩa là:
Nhà nước ta luôn tạo điều
kiện thuận lợi về cơ chế,
chính sách ( như giảm thuế),
cải cách các thủ tục hành

chính để cho các nhà đầu tư
Ngày 1/1/2016 Nhà nước ta đã giảm thuế thu
10


trong và ngoài nước mở nhập doanh nghiệp xuống chỉ còn 20% để thúc
rộng sản xuất kinh doanh có đẩy các hoạt động sản xuất và dịch vụ của các
hiệu quả tạo ra nhiều việc doanh nghiệp phát triển và mở rộng.
làm cho người lao động.
+Gv chốt lại: Như hiện nay
UBND tỉnh Thanh Hoá đã
và đang tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp
trong và ngoài nước( tập
đoàn FLC) đầu tư vào khu
kinh tế Nghi Sơn- Tĩnh Gia
và khu du lịch Sầm Sơn để
đã giải quyết việc làm cho
hàng nghìn lao động trong
tỉnh có việc làm và thu nhập
cao.
KL: Giáo dục kĩ năng lựa
chọn việc làm, nghề nghiệp.
Qua những hình ảnh trên
cho thấy:
Sau khi thốt nghiệp THPT
các em có thể học các nghề
như: Điện công nghiệp, sửa
chũa cơ khí, hướng dẫn viên
du lịch, đầu bếp, lễ tân… để

có cơ hội xin việc làm ở các
khu công nghiệp và dịch vụ :
Nghi Sơn, Sầm Sơn với mức
lương tương đối cao ( như
công nhân nhà máy lọc dầu
Nghi Sơn lương từ 6 triệu
đến 8 triệu/tháng, hay sửa
chữa tàu ở cảng Nghi Sơn
11


lương cũng từ 6 triệu đến
7,8 triệu / tháng…)

Khu kinh tế Nghi Sơn-Tĩnh Gia có rất nhiều
ngành nghề( Lọc hoá dầu, dịch vụ cảng biển,
nhiệt điện, du lịch…) đã và đang giải quyết việc
làm cho hàng nghìn lao động.

Tập đoàn FLC có dự án đầu tư vào Thanh Hoá
1200 tỉ đồng với rất nhiều công trình thương
mại, dịch vụ, du lịch hứa hẹn sẽ mang lại nhiều
12


việc làm cho người lao động
Phương hướng thứ hai : Khuyến khích hành
-GV: Em hiểu như thế nào nghề theo pháp luật, tự do hành nghề, khôi phục
là làm giàu theo pháp luật? các nghề truyền thống, thúc đẩy phong trào thanh
-GV: Em hãy cho biết một niên lập nghiệp.

số nghề truyền thống ở Hà
Trung hiện nay ?
- Gv: Làm giàu theo pháp
luật có nghĩa là: Các em có
thể tự do lựa chọn việc làm
phù hợp với khả năng của
mình, có thể làm bất kì
ngành nghề nào để mang lại
thu nhập cho bản thân, gia
đình và xã hội mà pháp luật
Nghề trạm khác đá truyền thống của xứ Thanh
không cấm.
nói chung và xã Hà Lĩnh- Hà Trung nói riêng.
-Giáo dục kĩ năng lựa chọn
việc làm, nghề nghiệp: Các
em có thể hành nghề truyền
thống ở địa phương hoặc sửa
chữa xe máy, điện thoại,…
nếu có điều kiện có thể tự
mở cơ sở tại nhà vừa sử
dụng vốn ít mà lại có thu
nhập ổn định.
Như vậy: Các em có thể làm
bất kì nghề gì nhưng phải
chân chính và đặc biệt là
làm gì cũng cần phải có tâm
huyết và cống hiến hết mình
với nghề đó thì mới có sự
sáng tạo, hiệu quả và thành Có thể làm nghề sửa chữa xe máy, điện thoại, tại
13



công trong công việc.

nhà vừa giải quyết việc làm mà lại có thu nhập
ổn định.
Phương hướng ba: Đẩy mạnh xuất khẩu lao
-Gv: Trong tình hình hiện động, đặc biệt là lao động đã qua đào tạo.
nay việc đi xuất khẩu lao
động sang các nước đã và
đang mang lại nhiều cơ hội
việc làm và thu nhập cao
cho người lao động Việt
Nam. Nếu có cơ hội các em
có thể chọn con đường đi
xuất khẩu lao động.
GV: Vậy theo em khi đi xuất
khẩu lao động cần chú ý
những điều gì?
Kl: Giáo dục kĩ năng lựa
chọn việc làm nghề nghiệp:
Khi các em có ý định đi
xuất khẩu lao động sang một
nước nào đó cần chú ý
những điều sau:
+Phải học và có tay nghề,
trình độ về một nghề nào đó
càng cao càng tốt đặc biệt là
những nghề về mặt kĩ thuật
như : cơ khí , điện, điện tử,

công nghệ thông tin để có
việc làm ổn định và thu nhập
cao.
+Phải lựa chọn con đường,
công ty xuất khẩu hợp pháp,
để đảm bảo quyền lợi cho
mình như: lương, bảo hiểm
14


y tế,bảo hiểm xã hội, các chế
độ khác…( các em có thể
tham khảo công ty xuất khẩu
lao động Thiên Ân-Tamax
Thanh Hoá khi muốn xuất
khẩu lao động sang Trung
Đông).

Hình ảnh đi xuất khẩu lao động ở Thanh Hoá .
GV: Theo em nguồn vốn của
Nhà nước được đầu tư để
giải quyết việc làm bằng
những hình thức nào?Cho ví
dụ?
( Đó là đầu tư vào việc học
nghề (các em có thể học
nghề ở trường cao đẳng
nghề Thanh Hoá), trả chi phí
cho người lao động xuất
khẩu lao động, cho vay vốn

với lãi xuất thấp để sản xuất,
kinh doanh hoặc mua trang
thiết bị, máy móc, con
giống… để cho người lao
động tự sản xuất, trồng
trọt…)
- Giáo dục kĩ năng lựa chọn
việc làm nghề nghiệp:

Công ty xuất khẩu lao động Thiên Ân-Tamax
Thanh Hoá là địa chỉ có uy tín, chất lượng
chuyên đưa lao động xuất khẩu sang Trung
Đông.
Phương hướng thứ tư: Sử dụng hiệu quả nguồn
vốn trong chương chình mục tiêu quốc gia để giải
quyết việc làm.

15


“ Nếu sau này các em muốn
học nghề, hay tham gia sản
xuất, kinh doanh mà không
có điều kiện thì các em phải
làm gì?
(có thể sử dụng nguồn vốn
của nhà nước bằng cách:
Vay vốn ưu đãi dành cho
học sinh, sinh viên đi học,
sử dụng các nguồn vốn nằm

trong chương trình của đoàn
thanh niên như: Phong trào
thanh niên vượt khó làm
giàu, xây dựng nông thôn
mới…)
-Gv: Ngoài ra các em có thể
sử dụng nguồn vốn của nhà
nước để đầu tư sản xuất,
kinh doanh. Và đã có nhiều
tấm gương thanh niên sản
xuất giỏi nhờ vào nguồn vốn
cho vay để giải quyết việc
làm trong tỉnh ta như:

Trường cao đẳng nghề Thanh Hoá là môi trường
đào tạo nghề có chất lượng cao ở tỉnh ta, là địa
chỉ đáng tin cậy để các em học rất nhiều
nghề( cơ khí, điện, sửa chữa các loại, nấu ăn…)

Thanh niên được vay vốn ngân hàng và các quỹ
tín dụng với lãi xuất thấp để lập nghiệp.

16


Trang trại chăn nuôi tổng hợp của anh: Lê văn
Đức( Vĩnh Phúc- Vĩnh Lộc), anh đã được nhận
giải thưởng Lương Đình Của do Ban chấp hành
TW Đoàn trao tặng vì đã vượt khó để làm giàu.


- Gv: Bản thân em phải có
trách nhiệm gì đối với chính
Trang trại nuôi cá của anh: Lê thiên Lâm( Quảng
sách dân số và giải quyết
Tân- Quảng Xương), mỗi năm anh thu lãi 1 tỉ
việc làm?
đồng, giải quyết việc làm cho 14 lao động với thu
nhập từ 3 triệu đồng/ tháng trở lên.

17


*Củng cố: Em có suy nghĩ
như thế nào về lao động
trong sáng tạo được trích
trong câu văn sau của nhà
văn Nguyễn Quang Thiều:
“Ta hỏi một người: Ngươi
cần gì? Con người trả lời:
Ta cần được lao động trong
sáng tạo.”
( Có nghĩa là dù các em làm
nghề gì, việc gì thì cũng nên
nhớ phải luôn yêu nghề,
yêu công việc của mình,
luôn tâm huyết và có trách
nhiệm với nghề thì công việc
đó mới có sáng tạo và hiệu
quả cao.)


Anh Lê văn Linh(Đông Hoà- Đông Sơn) với mô
hình trồng mộc nhĩ mỗi năm thu lãi từ 60-70
triệu đồng, giải quyết việc làm cho 12 lao động ở
địa phương.
3.Trách nhiệm của công dân đối với chính sách
dân số và giải quyết việc làm.
- Chấp hành tốt chính sách dân số và pháp luật về
dân số.
-Chấp hành tốt chính sách việc làm và pháp luật
về lao động.
-Động viên người thân và bạn bè cùng thực hiện.
-Có ý chí vươn lên, nắm bắt khoa học, kĩ thuật
tiên tiến, có định hướng nghề nghiệp đúng đắn để
chủ động tìm kiếm việc làm.

18


4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân,đồng nghiệp và nhà trường.
4.1. Đối với hoạt động giáo dục.
Vì đối tượng học sinh của trường THPT Nguyễn Hoàng chủ yếu là học sinh
vùng nông thôn, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, hơn nữa chất lượng đầu vào
của trường còn thấp nên các em đa phần là học để lấy bằng tốt nghiệp THPT rồi
đi học nghề hoặc đi làm để phụ giúp gia đình mà tham gia thi đại học rất ít.
Nhận thấy được tình hình đó, tôi đã chủ động tích hơp, lồng ghép trong bài
giảng của mình để giáo dục cho các em định hướng nghề nghiệp, việc làm cho
mình sao cho phù hợp với khả năng của các em, tôi mong muốn rằng qua bài
dạy của tôi các em đều nhần thức được là: Trong thời đại ngày nay đại học
không phải là con đường duy nhất để đi đến tương lai mà quan trọng là mình

phải có một cái nghề phù hợp với sở thích, khả năng của mình với trình độ
chuyên môn hoá càng cao càng tốt để sau này có một việc làm ổn định đồng thời
đáp ứng được với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Và điều này được thể hiện
rõ ở kết quả trong hai bảng so sánh sau:
* Lớp không dạy tích hợp:“ Kĩ năng chủ động lựa chọn nghề nghiệp, việc làm.”
Lớp

Sĩ số học sinh Số học sinh tham gia thi để Số học sinh tham gia thi
xét tốt nghiệp và đại học.
chỉ xét tốt nghiệp THPT
rồi học nghề .
11B2 40
25
15
11B4 42
30
12
*.Lớp dạy tích hợp: “ Kĩ năng chủ động lựa chọn nghề nghiệp, việc làm”.
Lớp

11B1
11B3

Sĩ số học sinh Số học sinh tham gia thi để Số học sinh tham gia thi
xét tốt nghiệp và đại học.
chỉ xét tốt nghiệp THPT
rồi học nghề.
40
12
28

42
11
31
19


Như vậy:
Từ kết quả trên cho thấy bước chuyển biến rất rõ rệt trong tư tưởng lập
nghiệp của các em: Đó là tỉ lệ các em chỉ thi tốt nghiệp rồi học nghề chiếm đa số
ở những lớp dạy tích hợp “ kĩ năng chủ động lựa chọn nghề nghiệp, việc làm”
(lớp11 B1 là 70%, lớp11B3 là 73%,), trong khi đó ở những lớp không dạy tích
hợp “kĩ năng chủ động lựa chọn việc làm, nghề nghiệp thì con số này lại thấp
hơn rất nhiều (lớp11B2 là 35%, lớp 11B4 là 29%), điều này hoàn toàn phù hợp
với xu hướng chung của đất nước ta hiện nay là đang cần nguồn lao động có
trình độ tay nghề cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và cũng thực hiện đúng như mục tiêu của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đặt ra: “Học
để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để chung sống”. Như vậy
con đường hướng nghiệp của các em hiện nay rất sát với thực tế cuộc sống và
phù hợp với khả năng của mình.
4.2. Đối với bản thân:
Qua đề tài này tôi cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và
giáo dục học sinh. Tôi thấy rằng đa số các em hiện nay còn rất lúng túng, hoang
mang khi chọn nghề, chọn trường, lớp để học và chọn công việc để làm, ngay cả
các em học sinh lớp 12 chuẩn bị ra trường cũng vậy, cho nên trách nhiệm của
mỗi thầy cô giáo đứng trên bục giảng không chỉ có vai trò là truyền đạt tri thức,
giáo dục đạo đức cho học sinh mà còn dạy cho các em những kĩ năng trong cuộc
sống như “ kĩ năng lựa chọn nghề nghiệp, việc làm” để hướng các em con
đường đi đúng đắn. Không những vậy qua việc tiếp xúc, lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng của các em mà làm cho mối quan hệ “thầy- trò” trở nên thân thiện
hơn, từ đó giúp cho việc giảng dạy cũng như giáo dục các em hiệu quả hơn.

4.3. Đối với đồng nghiệp:
Từ việc tìm hiểu nội dung của đề tài, một số đồng nghiệp đã góp ý cho tôi
rằng. Đây là một đề tài hay, sát với thực tế, rất cần thiết cho học sinh trường
mình hiện nay, vì chất lượng học sinh thấp, lại chủ yếu sống ở nông thôn nên
việc tìm hiểu về các thông tin nghề nghiệp để lựa chọn cho phù hợp với khả
năng và yêu cầu của xã hội là rất hạn chế. Vì vậy những đồng nghiệp cùng
trường với tôi, đặc biệt là ở những môn xã hội đã xin ý tưởng về nội dung cũng
như hình ảnh minh hoạ để lồng ghép vào bài giảng của mình.
4.4. Đối với nhà trường.
20


Khi họp hội đồng xét sáng kiến kinh nghiệm để lựa chọn đi gửi tỉnh, hội đồng
khoa học của trường đã đặc biệt chú ý và đánh giá cao đề tài của tôi, cho rằng
nội dung đề tài đã rất bám sát thực tiễn xã hội cũng như đặc điểm trình độ học
sinh của trường Nguyễn Hoàng .Vì thế nhà trường đề nghị đề tài có thể sử dụng
để thực hiện một tiết học ngoại khoá với chủ để: “ Định hướng lựa chọn nghề
nghiệp, việc làm cho học sinh hiện nay”.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã đưa ra mục tiêu giáo dục KNS trong trường THPT
nhằm đạt các mục tiêu sau:
Thứ nhất là trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng
phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành
mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ,
các tình huống và hoạt động hằng ngày.
Thứ hai là tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của
mình và phát triển hài hoà về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Như vậy tôi thấy nội dung đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng

như giải pháp đưa ra để thực hiện hoàn toàn đáp ứng được mục tiêu của giáo dục
KNS mà Bộ Giáo Dục đã đặt ra, những nội dung trong bài học không chỉ đơn
thuần là trang bị kiến thức cho học sinh về lựa chọn nghề nghiệp mà còn giúp
21


các em hình thành cho mình một thói quen tích cực mà bấy lâu nay chưa có hoặc
chưa nghĩ tới đó là: Tự các em chủ động lựa chọn cho mình một nghề nghiệp
phù hợp với khả năng, sở thích của mình thì sau này mới gắn bó với công việc
đó, nghề nghiệp đó lâu dài, mới có sự yêu nghề và trách nhiệm với nghề dù là
công việc hay nghề nghiệp gì đi nữa, từ đó mới có sự sáng tạo và hiệu quả trong
công tác như ông bà đã từng dạy rằng: “Một nghề cho chín còn hơn chín nghề”.
Bên cạnh đó tôi thấy sự tích hợp để “giáo dục kĩ năng chủ động lựa
chọn nghề nghiệp, việc làm” cho học sinh còn góp phần làm cho bài giảng trở
nên sinh động, hấp dẫn, lại sát với thực tế nên đã tăng tính chủ động, tích cực,
sáng tạo của học sinh khi học bài.
Không những vậy học sinh qua bài học còn thấy được mảnh đất xứ Thanh
của chúng ta còn rất nhiều tiềm năng về việc làm đã và đang mở cửa để thu hút
những nhân tài, những lao động có tay nghề chuyên môn giỏi đến làm việc. Và
đây chính là những cơ hội tốt đang chào đón các em về với quê hương để xây
dựng tỉnh ta ngày càng giàu mạnh, trở thành tỉnh khá của cả nước vào năm
2020.
2. Kiến nghị.
Sau một thời gian thực hiện, nghiên cứu đề tài tôi có một số kiến nghị sau:
- Với nhà trường: Phải thường xuyên tổ chức các buổi hướng nghiệp cũng như
cung cấp thông tin, tài liệu về các loại nghề để học sinh hiểu về đặc điểm của
các nghề, từ đó có định hướng chọn nghề phù hợp với mình.
- Với giáo viên : Phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là
cập nhật kịp thời những thông tin về tuyển sinh, yêu cầu việc làm của xã hội và
xu hướng nghề nghiệp trong hiện tại cũng như tương lai để truyền đạt cho các

em biết nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức chọn nghề và việc làm hữu
ích.
- Với các cơ quan chức năng đặc biệt là Sở Giáo dục và Đào tạo cũng nên tổ
chức thường xuyên các buổi tập huấn cho giáo viên về định hướng nghề nghiệp
và cung cấp những thông tin và số liệu về yêu cầu việc làm trong từng năm cho
các giáo viên để làm cơ sở cho việc tích hợp giáo dục định hướng nghề nghiệp
cho học sinh khi giảng dạy.
* Như vậy:

22


Tuy thời gian ngắn nhưng bài giảng đã có những đóng góp nhất định cho
sự nhận thức của các em học sinh đó là: Các em đã biết được kĩ năng chủ động
lựa chọn việc làm, nghề nghiệp của mình là phải tự các em thấy được khả năng,
sở thích của mình cũng như dựa vào nhu cầu của xã hội để tự mình định hướng,
chọn lựa cho mình một ngành nghề, việc làm phù hợp cho tương lai.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do kinh nghiệm giảng dạy còn mỏng
cho nên đề tài chắc hẳn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân
thành từ đồng nghiệp nhất là đồng nghiệp dạy môn GDCD để đề tài trở thành
một tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho hoạt động giảng dạy và hướng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG

Thanh hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.


Bùi Thị Mai

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) SGK -GDCD lớp 11- Nhà xuất bản giáo dục 2011
2) Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD 11- Nhà xuất bản Đại
học sư phạm
3) SGV- GDCD 11- Nhà xuất bản giáo dục
4) Giáo dục kỹ năng sống trong môn GDCD ở trường THPT - NXB giáo dục
5) Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD THPT - Nhà
xuất bản giáo dục.
6) Phân phối chương trình môn GDCD - THPT (Lưu hành nội bộ) - Sở giáo
dục và đào tạo Thanh Hóa.
7) Tập bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB chính trị- quốc gia
23


9) Tập bài giảng học chính trị của trung tâm chính trị huyện.
10) Các báo điện tử: 24h.com, lao động, Đoàn thanh niên Thanh Hoá, kinh tế
Thanh Hoá…

24



×