1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, khi mà trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu, thì các nước trên
thế giới đều ý thức được rằng giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội mà thực sự
là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Việt Nam trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước luôn coi trọng yếu tố con người; coi
“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển”( Trích VKĐHĐBTQ lần XI, NXB CTQG – ST, Hà Nội 2011, tr 76); coi
phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực cao, tập trung vào việc đổi
mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực
với sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ được xem là một trong ba
khâu đột phá chiến lược trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn
2011- 2020.
Vấn đề trên đặt ra cho giáo dục phải không ngừng đổi mới trong đó đổi
mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của
học sinh là việc làm cần thiết và được đặt ra như một nhiệm vụ trọng tâm xuyên
suốt trong toàn bộ quá trình. Trong những năm gần đây, nhất là năm học 20152016 tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học đã và đang được coi là tâm điểm
của giáo dục Việt Nam, là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học
hiện đại. Nguyên tắc này được thực hiện ở tất cả các cấp học, ngành học, môn
học trong đó có môn Giáo dục công dân (GDCD). Qua thực tế tích hợp kiến
thức liên môn trong môn GDCD giúp cho bài giảng (nhất là các bài phần triết
học) trở nên sinh động, hấp dẫn, tạo nên sự say mê yêu nghề đối với giáo viên.
Nguyên tắc này giúp giáo viên có sự hiểu biết sâu sắc kiến thức trong sự liên kết
các ngành khoa học: Tự nhiên, xã hội, lịch sử, chính trị, kinh tế, đạo đức, xã hội
học cùng nhiều chuyên ngành khoa học khác… Tạo tầm kiến thức sâu, rộng của
giáo viên trong giảng dạy, làm đậm thêm nét đẹp trí tuệ của người thầy trong
thời đại mới.
Đối với học sinh, tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy môn
GDCD làm cho nhận thức học tập của học sinh được nâng cao, khắc phục tâm
lý ngại khó, phát huy tính tích cực trong học tập, giúp các em hình thành khả
năng tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với các tình huống trong học
tập, trong cuộc sống; năng lực tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm của
bản thân đối với gia đình, nhà trường và xã hội... Đấy chính là điều rất quan
trọng quyết định đạo đức và nhân cách của mỗi con người Việt Nam.
Tích hợp kiến thức liên môn không chỉ đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới
các phương pháp dạy học, phù hợp với yêu cầu của thời đại mà thực sự đã mang
lại những hiệu quả cao trong dạy học. Để bồi đắp thêm những kinh nghiệm
trong Dạy và Học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng
môn học nói riêng, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “Một số kinh nghiệm tích hợp
kiến thức liên môn trong giảng dạy phần Công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học – GDCD 10”
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học môn GDCD nói
chung phần công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học – GDCD 10 nói riêng nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả trong
dạy - học môn GDCD, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá, tổng kết về vai trò, ý nghĩa cách thức thực hiện tích
hợp kiến thức liên môn trong dạy học môn GDCD ở trường phổ thông hiện nay
đạt hiệu quả.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết về Tích hợp liên môn
trong dạy học.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin về việc Tích
hợp kiến thức liên môn trong dạy học môn GDCD nói riêng trong dạy học nói
chung.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa
học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự
nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét
bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng
giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai
tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau là tính liên kết và
tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân
chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại
các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh
nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được tiếp thu, tác
động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội
nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống.
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ,
có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn
học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất,
dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các
môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó.
Khoa học sư phạm nhấn mạnh dạy tích hợp là dạy cách tìm tòi sáng tạo và
cách vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau. Tức là, dạy cho học sinh
biết cách sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống
cụ thể, có ý nghĩa nhằm mục đích hình thành, phát triển năng lực. Đồng thời chú
ý xác lập mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng khác nhau của các môn học để
bảo đảm cho học sinh khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng
lực của mình vào giải quyết các tình huống tích hợp.
Trong Triết học duy vật biện chứng Mác – Lênin khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tuợng.
Như vậy, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới luôn có mối quan hệ gắn bó
với nhau, tồn tại trong sự tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau theo những
quan hệ xác định. Sự thay đổi sự vật, hiện tượng này có thể bắt nguồn từ sự thay
đổi sự vật hiện tượng khác, và đồng thời nó sẽ ảnh hưởng đến một sự vật, hiện
tượng khác nữa. Do đó, khi nhận thức về một vấn đề, chúng ta phải có quan
điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối
liên hệ rồi vội vàng kết luận bản chất và quy luật của chúng. Vì vậy, để nhận
thức đúng đắn một vấn đề phải đặt chúng trong mối liện hệ giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng đó, trong sự tác động
qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ
gián tiếp, trên cơ sở đó ta mới nhận thức đúng và đầy đủ một vấn đề.
3
2.2 Thực trạng vấn đề
Trong những năm gần đây, do yêu cầu của xã hội, nhiều nội dung mới đã
được tích hợp vào các môn học, nhất là với môn GDCD. Nếu như giai đoạn
trước là yêu cầu tích hợp, lồng ghép các vấn đề giáo dục pháp luật; giáo dục an
toàn giao thông; giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản vị thành niên; giáo dục bảo
vệ môi trường; giáo dục giá trị, kĩ năng sống… Gần đây là việc tích hợp nội
dung phòng chống tham nhũng ; phòng chống tác hại của game online có nội
dung bạo lực không lành mạnh cũng được Bộ Giáo dục – Đào tạo triển khai vào
chương trình của môn học. Như thế, có thể nói, giáo viên GDCD đã được làm
quen và vận dụng nguyên tắc dạy học tích hợp này từ khá sớm. Thế nhưng,
trong thực tế giảng dạy, phần lớn giáo viên đã vận dụng nguyên tắc này một
cách sơ sài, hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức độ liên hệ thông thường, thậm chí có
giáo viên còn bỏ qua hoặc cũng có giáo viên đã thể hiện được tinh thần tích cực
của việc tích hợp nhưng lại lúng túng trong nội dung và phương pháp thực hiện,
xem tích hợp như là tổ hợp, gộp chung các kiến thức lại… nên chưa phát huy
được tính tích cực trong học tập của học sinh, chưa đạt được hiệu quả trong
giảng dạy của giáo viên.
Đối với nội dung kiến thức phần Công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học - GDCD 10, là phần kiến thức rất khó, có tính
trừu tượng khái quát cao, nhưng lại có vai trò rất quan trọng là góp phần hình
thành thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn cho người học. Thế
nhưng, tâm lý chung trong học sinh là chờ đợi, thụ động trong tiếp nhận kiến
thức, trên lớp các em có thói quen tiếp nhận kiến thức theo kiểu một chiều, nghe
và ghi chép những kiến thức mà thầy cô truyền thụ, vì thế kiến thức của môn
học vốn đã khó, khô khan, trừu tượng lại càng tăng thêm sự ngại học của các
em, đôi khi còn xem nhẹ, coi đó là môn phụ nên các em càng lười học hơn, khi
gặp nội dung khó dễ có tâm lý bỏ qua không chịu suy nghĩ, tìm cách chiếm lĩnh
kiến thức.
Trên tinh thần của nghị quyết Hội nghi Trung ương 8 khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực” và cuộc thi “Dạy học theo chủ đề tích hợp kiến thức liên môn” do Bộ
Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Trường THCS- THPT Thống Nhất trong những
năm học gần đây đã được Ban giám hiệu nhà trường, các tổ chuyên môn và từng
giáo viên đưa vào kế hoạch trọng tâm trong kế hoạch năm học, triển khai cụ thể
trong kế hoạch tháng, tuần cả chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng
dạy, giáo dục của mỗi giáo viên. Hầu hết ở các bộ môn, nhất là trong môn
GDCD, dù ở mức độ khác nhau, đều đã thể hiện được tinh thần tích cực trong
vận dụng kiến thức liên môn vào thực tiễn dạy học của nhà trường, trở thành
phong trào thi đua trong họat động Dạy và Học của cả thầy và trò. Song trên
4
thực tế vẫn còn ở một số giáo viên tâm lý ngại vận dụng kiến thức liên môn vào
dạy học bởi phải đầu tư nhiều về kiến thức chuyên môn cũng như thời gian soạn
giảng nên có vận dụng nguyên tắc này nhưng thực hiện một cách sơ sài. Có giáo
viên tuy rất tâm huyết nhưng vẫn còn lúng túng trong lựa chọn nội dung tích
hợp, phương pháp, kĩ thuật dạy học, cách thức tổ chức giờ học… Vì thế chưa
thu hút, chưa tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học theo chủ để tích
hợp, dẫn đến hiệu quả thực hiện còn hạn chế. Chính vì vậy, tích hợp kiến thức
liên môn vào trong dạy học nói chung và môn GDCD nói riêng, nhất là phần
công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học –
GDCD 10 một cách hiệu quả là rất cần thiết. Bằng thực tế dạy học của mình, với
đề tài này, tôi xin giới thiệu một số kinh nghiệm dạy học tích hợp của bản thân
khi dạy học phần thứ nhất trong chương trình GDCD 10 để cùng tham khảo.
2.3 Các biện pháp và tổ chức thực hiện :
2.3.1 Các biện pháp.
2.3.1.1 Đối với giáo viên
Để vận dụng kiến thức liên môn vào dạy học môn GDCD và nhất là dạy
những nội dung kiến thức của phần một trong chương trình GDCD 10 đạt hiệu
quả đòi hỏi người giáo viên phải nhận thức rõ tầm quan trọng của việc dạy học
tích hợp này, không nên xem đó như là gánh nặng công việc, cần phải có kế
hoạch, tích cực và chủ động trong việc đưa kiến thức liên môn vào trong từng
tiết dạy của mình một cách linh hoạt sáng tạo, đạt hiệu quả. Muốn vậy giáo viên
cần làm tốt các bước sau :
- Xác định rõ nội dung kiến thức cần đạt ( mục tiêu bài học) theo
chuẩn kiến thức, kỹ năng.
Đây là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất của việc dạy học, nhất là dạy
học tích hợp. Nếu giáo viên không xác định được mục tiêu bài học, thì trong quá
trình dạy học tích hợp, chúng ta sẽ không đảm bảo được yêu cầu về kiến thức
mà học sinh cần phải đạt được trong bài học theo đúng chương trình giáo dục
mà Bộ đã đề ra và khi tích hợp liên môn dễ rơi vào tình trạng sa đà, lạm dụng
kiến thức của các môn học khác, làm cho việc dạy học trở nên dàn trải, kiến
thức bài học mờ nhạt, không hiệu quả.
- Xác định kiến thức liên môn cần tích hợp trong bài học.
Lâu nay bước soạn bài truyền thống là trong từng bài học chúng ta cần
xác định mục tiêu bài học về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Thì dạy học tích hợp,
ngoài các bước xác định về mục tiêu như trên tôi còn thực hiện thêm bước xác
định các kiến thức liên môn có trong bài học. Đây là bước vô cùng quan trọng
bởi vì không phải bài học nào cũng có kiến thức ở các môn học khác như nhau.
Mỗi bài học sẽ liên quan đến một hoặc nhiều kiến thức ở các môn học khác
nhau. Chính vì thế khi lựa chọn kiến thức để tích hợp, giáo viên cần đảm bảo
được những yêu cầu sư phạm sau :
5
• Đó là mối liên hệ kiến thức giữa kiến thức bài học với kiến thức ở những
môn học khác trong chương trình giáo dục, từ đó xác định môn học nào
tích hợp đạt hiệu quả nhất.
Ví dụ : Khi dạy bài 3 : Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất – GDCD
10. Sau khi xác định mối liên hệ giữa kiến thức của bài với các môn học khác thì
tôi đã chọn các môn sau để tích hợp :
Môn Hoá Kiến thức cơ bản về bài 12: “Sự biến đổi Chất” - Hoá học 8.
Môn Vật lý: Kiến thức cơ bản Bài 1: “Chuyển động cơ học” - Vật lý 8
Bài 20: “Nguyên tử, phân tử chuyển động hay đứng yên” - Vật lý 8
Môn Sử: Kiến thức tổng hợp của chương II, chương III Phần II: Lịch sử Việt
Nam từ 1930 -1945, Lịch sử 9 Kiến thức tổng hợp, khái quát về sự biến đổi,
thay thế của các chế độ xã hội trong lich sử.
Môn văn: Bài 11: Truyện ngụ ngôn: Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng – Ngữ văn 6
Môn Sinh: Bài 1: “Đặc điểm của cơ thể sống” - Sinh học 6
Bài 44: “Sự phát triển của giới thực vật”- Sinh học 6
Bài 31: “Trao đổi chất” - Sinh học 8
• Nội dung kiến thức liên môn được tích hợp trong bài học phải có chọn lọc
phù hợp với nội dung bài học, thời lượng tiết học, đảm bảo làm rõ trọng
tâm kiến thức, mục tiêu bài học và tránh được lỗi lạm dụng kiến thức, ôm
nồm kiến thức gây quá tải cho học sinh.
Ví dụ : Khi dạy khái niệm vận động, tôi đã hướng dẫn học sinh sử dụng kiến
thức của bài 20: “Nguyên tử, phân tử chuyển động hay đứng yên” - Vật lý 8 để
làm rõ ví dụ chuyển động của hạt phấn hoa trong thí nghiệm Bơ -rao. Năm 1827
Nhà bác học Bơ-rao khi quan sát các hạt phấn hoa trong nước bằng kính hiển vi
đã phát hiện thấy chúng chuyển động không ngừng về mọi phía. Năm 1905 Nhà
bác học An-be Anh- xtanh đã giải thích đầy đủ nguyên nhân gây ra chuyển động
của các hạt phấn hoa trong thí nghiệm của Bơ- rao là do các phân tử ( cụ thể ở
đây là phân tử nước ) không đứng yên mà chuyển động không ngừng, làm cho
các hạt phấn hoa chuyển động.
6
=> Từ đó khẳng định: Vân động là mọi sự biến đổi (biến hoá) nói chung của
các sự vật và hiện tượng trong giới tự nhiên và đời sống xã hội.
• Nội dung kiến thức tích hợp phải phù hợp với đối tượng học sinh về trình
độ kiến thức, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Nếu khi tích hợp giáo
viên không chú ý điều này thì việc tích hợp không những không tạo được
hứng thú, không phát huy được tính tích cực trong quá trình học của các
em mà còn làm cho bài học trở nên nặng nề, áp lực, việc tiếp thu kiến
thức mới vốn khó lại càng thêm khó.
Ví dụ : Đối tượng mà tôi dạy học ở đây là học sinh lớp 10. Vì thế tôi chỉ có thể
tích hợp kiến thức ở các môn khác ngang bằng với kiến thức của bài học theo
phân phối chương trình hiện hành và kiến thức của các lớp dưới, kiến thức đã
trở thành vốn kiến thức của các em, không phải là kiến thức xa lạ cao hơn của
các lớp trên. Cụ thể trong bài 3- lớp 10 tôi đã tích hợp với kiến thức của Lịch sử
9, Hoá học 8, Vật lý 8, Ngữ văn 6, Sinh học 8, Sinh học 6.
• Nội dung tích hợp phải gắn liền với thực tiễn, với phong tục, tập quán,
văn hóa của địa phương, địa bàn nơi cư trú của học sinh mình dạy. Để quá
trình ‘‘Học’’ gắn với ‘‘Hành’’ đạt hiệu quả.
Ví dụ: Khi dạy điểm b, mục 2, bài 9 đoạn khi nói về : Đảng và Nhà nước ta luôn
coi trọng con người, coi con người là mục tiêu phát triển của xã hội. Vì vậy, mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều vì sự phát triển toàn diện
của con người, nhằm xây dựng đất nước theo mục tiêu : Dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tôi đã yêu cầu học sinh : Sử dụng hiểu
biết xã hội của mình và kiến thức thực tế để làm một cuộc điều tra ở địa phương
các em đã thực hiện một số chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước ta vì
mục tiêu phát triển toàn diện con người ( ví dụ : Việc thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo ; chính sách ưu tiên đối với giáo dục ở vùng sâu, đồng bào dân
tộc; chương trình 135; tết người nghèo…) như thế nào? Có viết báo cáo thu
hoạch về cuộc điều tra đó.
- Cần xác định các năng lực cần hướng tới hình thành và phát triển ở
học sinh. Cần xác định phương pháp dạy học phù hợp, sử dụng linh hoạt
các phương pháp khi tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học; lựa chọn
cách tổ chức hoạt động dạy và học hiệu quả.
Sỡ dĩ người giáo viên khi tích hợp kiến thức liên môn phải thực hiện bước
này là vì : Trong đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, đòi hỏi giáo viên phải xác định được các
năng lực cần hướng tới hình thành và phát triển ở học sinh trong bài học của
mình là gì từ đó mới xác định phương pháp dạy học phù hợp và tổ chức các hoạt
động học tập cho học sinh một cách đa dạng, phong phú để các em có cơ hội tìm
tòi, khám phá bộc lộ hết khả năng của mình trong lĩnh hội kiến thức và hình
thành các kĩ năng, năng lực cần thiết cho bản thân.
Ví dụ : Ở Bài 3- GDCD 10: Khi xác định trong bài có các năng lực cần hướng
tới hình thành và phát triển ở học sinh là: Năng lực hợp tác; năng lực giao tiếp;
7
năng lực giải quyết vấn đề thì tôi đã chọn phương pháp Thảo luận nhóm và sử
dụng kỹ thuật chia nhóm, kỹ thuật giao nhiệm vụ để tổ chức chia nhóm, giao
nhiệm vụ cho học sinh ; sử dụng kỹ thuật “Trình bày một phút’’ để các em được
làm việc theo nhóm của mình và có cơ hội bộc lộ các năng lực khi tham gia giải
quyết yêu cầu của bài học.
- Chuẩn bị chu đáo, khai thác sử dụng có hiệu quả các phương tiện,
thiết bị, đồ dùng trong quá trình dạy học.
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Trong dạy học chúng ta
chuẩn bị và sử dụng hiệu quả các thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học; thì nó
sẽ làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn làm cho giờ học
sinh động, hiệu quả hơn. Thường tôi hay sử dụng tranh ảnh, sơ đồ, phiếu học
tập… Nếu như soạn giảng giáo án điện tử thì cần chuẩn bị kỹ máy tính và các
thiết bị trình chiếu khác.
Ví dụ : Khi dạy bài 5 - GDCD 10 tôi đã chuẩn bị những đồ dùng dạy học sau
Sách giáo khoa GDCD 10, Sách giáo viên GDCD10, giáo án, thiết kế bài giảng
điện tử; máy tính, Thiết bị trình chiếu. Phiếu học tâp, phiếu thảo luận, bảng phụ,
nam châm gắn bảng từ.
- Cần có hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, tìm hiểu kiến thức của
môn học và các kiến thức liên môn trước mỗi bài học kĩ lưỡng.
Thông thường học sinh trước khi học bài mới, các em có thói quen học
bài cũ, làm các bài tập và tìm hiểu kiến thức của bài mà các em sẽ học. Đó là
việc cần làm nhưng chưa đủ. Trong dạy học tích hợp liên môn các em còn phải
tìm hiểu thêm về kiến thức liên môn liên quan đến bài học của mình và giáo viên
phải có hướng dẫn những nội dung các em cần tìm hiểu thật kĩ càng ở giờ học
trước đó, tránh tình trạng tìm hiểu lan man viễn vông. Như vậy, bước chuẩn bị
bài của học sinh là rất quan trọng đối với việc dạy học tích hợp. Nếu không làm
tốt, học sinh sẽ không có khả năng tham gia vào các hoạt động học tập.
Ví dụ: Trước khi dạy bài 5- GDCD 10 tôi đã yêu cầu học sinh trong bước chuẩn
bị bài của mình là cần tham khảo kiến thức cơ bản của các môn học:
Môn Hoá: kiến thức cơ bản về bài 2:“Chất”, bài 12: “Sự biến đổi Chất” - Hoá
học 8
Môn Sử: Kiến thức tổng hợp của chương II, chương III Phần II: Lịch sử Việt
Nam từ 1930 – 1945 - Lịch sử 9
Môn Địa : Kiến thức cơ bản về dân số Việt Nam - Địa 9
Môn Sinh:
Quá trình phát triển của cây.
Bài 34: “Đa dạng và đặc điểm chung của lớp cá” - Sinh học 7
Bài 51: “Đa dạng của lớp thú” - Sinh học 7
2.3.1.2 Đối với Học sinh.
Để học tập đạt hiệu quả thì yêu cầu học sinh cần :
8
- Có sự chuẩn bị bài chu đáo như đầy đủ sách giáo khoa, vở ghi chép, bút,
giấy …
- Có tìm hiểu trước kiến thức của bài học và kiến thức liên môn chu đáo.
- Tích cực, tự giác, chủ động trong học tập. Tích cực tích hợp kiến thức liên
môn để nâng cao hiệu quả học tập.
2.3.2 Tổ chức thực hiện.
BÀI 5: CÁCH THỨC VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA SỰ VẬT VÀ
HIỆN TƯỢNG ( GDCD 10)
Ở đây tôi không trình bày như một giáo án mẫu, mà chỉ đưa ra những đơn
vị kiến thức tôi đã tích hợp kiến thức liên môn vào thực tiễn dạy học của bản
thân có mang lại hiệu quả nhất định để mọi người tham khảo.
Sau khi xác định mục tiêu bài học về kiến thức, kĩ năng, thái độ theo
chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng; tôi xác định kiến thức liên môn cần tích hợp
của bài này như sau:
- Môn Hoá: kiến thức cơ bản về bài 2: “Chất”, bài 12: “Sự biến đổi Chất” - Hoá
học 8
- Môn Sử: Kiến thức tổng hợp của chương II, chương III Phần II: Lịch sử Việt
Nam từ 1930 – 1945 - Lịch sử 9
- Môn Địa : Kiến thức cơ bản về dân số Việt Nam - Địa 9
- Môn Sinh:
Quá trình phát triển của cây.
Bài 34: “Đa dạng và đặc điểm chung của lớp cá” - Sinh học 7
Bài 51: “Đa dạng của lớp thú” - Sinh học 7
Cách thức tổ chức dạy học các đơn vị kiến thức của bài:
Để tiện theo dõi, tôi xin được trình bày theo các đề mục trong sách giáo khoa.
1. Chất.
- Tích hợp kiến thức liên môn của môn Hoá, Sinh. Cụ thể: kiến thức cơ
bản về bài 2: “Chất”- Hoá học 8, Bài 34: “Đa dạng và đặc điểm chung của lớp
cá”- Sinh học 7, Bài 51: “Đa dạng của lớp thú” - Sinh học 7
- Cách thức tổ chức dạy học:
Giáo viên (Gv): Cho học sinh thảo luận nhóm tìm hiểu chất là gì.
Gv Chia lớp học làm 4 nhóm, phân công nhóm trưởng – điều hành hoạt động
thảo luận của nhóm, thư ký –ghi lại kết quả thảo luận của nhóm vào giấy A0,
quy đinh thời gian thảo luận (5 phút) và giao nhiệm vụ cụ thể:
Nội dung thảo luận được biên soạn dựa trên cơ sở tích hợp kiến thức liên môn:
Tích hợp kiến thức cơ bản về bài 2: “Chất”- Hoá học 8
• Nhóm 1: Em hãy nêu các đặc điểm (tính chất vật lý) nhận biết về Muối?
Trong các đặc điểm đó, đặc điểm nào là cơ bản dễ nhận biết nhất?
9
• Nhóm 2: Em hãy nêu các đặc điểm (tính chất vật lý) nhận biết của
Đường? Trong các đặc điểm đó, đặc điểm nào là cơ bản dễ nhận biết
nhất?
Tích hợp kiến thức Bài 34: “Đa dạng và đặc điểm chung của lớp cá” - Sinh học
• Nhóm 3: Em hãy nêu các đặc điểm chung của lớp cá? Trong các đặc điểm
đó, đặc điểm nào là cơ bản dễ nhận biết nhất?
Tích hợp kiến thức Bài 51: “Đa dạng của lớp thú” - Sinh học 7
• Nhóm 4: Em hãy nêu các đặc điểm chung của lớp thú? Trong các đặc
điểm đó, đặc điểm nào là cơ bản dễ nhận biết nhất?
- Học sinh ( Hs):
+ Nhận nhiệm vụ
Nhóm 1, 2 vận dụng kiến thức đã học từ môn Hoá (kiến thức cơ bản về bài 2:
“Chất”- Hoá học 8),
Nhóm 3,4 vận dụng kiến thức cơ bản Bài 34: “Đa dạng và đặc điểm chung
của lớp cá” - Sinh học 7
Bài 51: “Đa dạng của lớp thú” - Sinh học 7 để thảo luận các nội dung kiến thức.
+ Thư ký ghi lại kết quả thảo luận của nhóm vào giấy Ao.
+ Đại diện nhóm gắn kết quả hoạt động của nhóm, trưng bày quanh lớp như một
phòng trưng bày tranh.
+ Học sinh cả lớp (có thể đi một vòng) xem kết quả thảo luận của các nhóm,
nhận xét, góp ý, bổ sung và thống nhất đáp án.
Gv: Nhận xét, bổ sung, cung cấp hình ảnh, giải thích những vấn đề chưa rõ...
Thuộc tính của Đường: thể rắn, ngọt, màu trắng, hoà tan trong nước...
10
Lớp cá: Là động vật có xương sống, sống trong nước, bơi bằng vây, hô hấp
bằng mang, tim hai ngăn, thụ tinh ngoài, là động vật biến nhiệt...
Lớp thú: Là động vật có xương sống, có hiện tượng thai sinh và nuôi con bằng
sữa mẹ, tim bốn ngăn, có lông mao bao phủ cơ thể, là động vật hằng nhiệt...
11
Gv nêu câu hỏi khắc sâu kiến thức:
? Việc tìm và nêu các thuộc tính của các sự vật và hiện tượng đó nhằm mục đích
gì?
? Các tính chất như: Mặn, ngọt... có phải do chúng ta áp đặt cho sự vật và hiện
tượng trên không?
- Hs cả lớp trao đổi và trả lời:
Gv kết luận: Mỗi sự vật và hiện tượng đều có một số tính chất vốn có được bộc
lộ thông qua các mối quan hệ cụ thể. Việc tìm và nêu các thuộc tính của các sự
vật và hiện tượng đó nhằm để phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.
Triết học Mác – Lênin gọi đó là Chất của sự vật và hiện tượng.
Gv: Em hãy cho biết Chất là gì?
HS nêu khái niệm
Khái niệm: Chất dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản, vốn có của sự vật
và hiện tượng, tiêu biểu cho sự vật và hiện tượng đó, phân biệt nó với các sự vật
và hiện tượng khác.
Gv nhấn mạnh: Chất của sự vật và hiện tượng được biểu hiện thông qua những
thuộc tính của nó, nhưng không phải thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự
vật và hiện tượng. Chỉ những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại mới tạo thành
chất của sự vật và hiện tượng.( Đường - ngọt, muối - mặn)
Gv: Cho hs lấy thêm ví dụ để hiểu rõ hơn
2. Lượng.
- Tích hợp kiến thức liên môn của môn Địa. Cụ thể kiến thức cơ bản về
dân số Việt Nam
- Cách thức tổ chức dạy học:
12
+ Giáo viên cung cấp chủ đề ( nêu vấn đề).
Chủ đề được hình thành trên cơ sở tích hợp kiến thức của môn Địa: “Tại
hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số do Bộ Y tế tổ chức ngày
24 – 9 -2013 cho thấy: Nếu như năm 2002, quy mô dân số Việt Nam là 79,54
triệu người, năm 2010 là 86,93 triệu người thì đến tháng 11 tới đây, dân số nước
ta sẽ cán mốc 90 triệu người, bình quân mỗi năm tăng thêm gần 1 triệu người”.
+ Định hướng nội dung cần khai thác trong chủ đề.
Theo em, những con số trên nói lên điều gì về dân số Việt Nam?
Gv: nhận xét câu trả lời của Hs và nêu câu hỏi: Chúng ta gọi Quy mô, số lượng,
tốc độ phát triển... của sự vật là gì?
+ Hướng dẫn Hs rút ra nội dung kiến thức của bài
Gv: Lượng là cái vốn có của sự vật và hiện tượng, quy định sự vật ấy là nó.
Lượng của sự vật và hiện tượng không tồn tại phụ thuộc vào ý chí của con
người, Lượng tồn tại cùng Chất của sự vật và hiện tượng, do đó nó cũng có tính
khách quan như Chất.
Gv? Em hãy cho biết Lượng là gì?
Khái niệm: Lượng dùng để chỉ những thuộc tính vốn có của sự vật và
hiện tượng biểu thị trình độ phát triển (cao, thấp), quy mô (lớn, nhỏ), tốc độ vận
động (nhanh, chậm), số lượng (ít, nhiều)... của sự vật và hiện tượng.
Gv: Yêu cầu Hs lấy thêm ví dụ về lượng, cung cấp một số hình ảnh minh hoạ.
Ví dụ về lượng:
13
Gv: Từ kiến thức của môn Địa kết hợp với các chỉ số quy định mặt “Lượng”,
yêu cầu HS xác định các thuộc tính nói lên “Chất” của dân số Việt Nam.
Gv kết luận:
Như vậy mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có mặt chất và mặt lượng
thống nhất với nhau. Chất và lượng đều là thuộc tính vốn có của sự vật và hiện
tượng, không thể có chất và lượng “thuần tuý” tồn tại bên ngoài sự vật và hiện
tượng, cũng không có chất tồn tại ngoài lượng và ngược lại.
3. Quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về chất.
- Tích hợp kiến thức liên môn của môn Hoá. Cụ thể Bài 12: “Sự biến đổi
Chất” Hoá học 8
- Cách thức tổ chức dạy học. Thảo luận nhóm
Gv: Chia lớp học làm 4 nhóm, phân công nhóm trưởng – điều hành hoạt động
thảo luận của nhóm, thư ký –ghi lại kết quả thảo luận của nhóm vào giấy A0,
quy đinh thời gian thảo luận (5 phút) và giao nhiệm vụ
+ Gv giao nhiệm vụ: Treo bảng phụ “sự biến đổi trạng thái của nước” (dạng
sơ lược), yêu cầu HS Tự nghiên cứu SGK Phần 3.a và yêu cầu HS dựa vào kiến
thức đã học từ môn Hoá (Bài 12: sự biến đổi các chất) hoàn thành quá trình biến
đổi trạng thái của nước thông qua trả lời phần thảo luận chung:
+ Nội dung thảo luận (nhiệm vụ chung) được biên soạn dựa trên cơ sở tích
hợp kiến thức của môn Hoá: Bài 12: “Sự biến đổi Chất” - Hoá học 8 hoàn thành
quá trình biến đổi trạng thái của nước thông qua trả lời các câu hỏi:
Câu 1: Em hãy xác định các trạng thái tồn tại ( trạng thái chất) của nước?
Câu 2: Theo em, nước có thể thành đá hoặc có thể bay hơi là do đâu?
- Quá trình đó diễn ra như thế nào?
Câu 3: Em hãy xác định giới hạn nước là thể rắn - lỏng - hơi. Giới hạn đó được
gọi là gì?
Câu 4: Em hãy xác định thời điểm nước từ thể rắn sang lỏng, từ thể lỏng sang
hơi? Thời điểm đó được gọi là gì?
+ Điều hành thảo luận
+ Đánh giá nhận xét, tổng hợp các nội dung kiến thức cần đạt được, làm
giám khảo bình xét kết quả của các nhóm và cung cấp sơ đồ hoàn chỉnh
14
+ Hướng dẫn hs rút ra nội dung kiến thức của bài
a. Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Gv? Có thể ngay lập tức chuyển nước ở trạng thái lỏng sang hơi hoặc đá được
không ? Quà trình đó phải diễn ra như thế nào?
Gv? Vậy ta rút ra kết luận gì?
Gv: Quá trình biến đổi ấy đều ảnh hưởng đến trạng thái chất của sự vật và hiện
tượng, nhưng chất của sự vật và hiện tượng chưa biến đổi ngay. Giới hạn đó là
Độ. Yêu cầu HS Nêu khái niệm Độ
Gv: Muốn làm cho chất cơ bản của sự vật và hiện tượng thay đổi, đòi hỏi lượng
của sự vật và hiện tượng phải biến đổi, tích luỹ đến một giới hạn nhất định.
Gv? Khi sự biến đổi đạt đến một giới hạn nhất định thì điều gì xảy ra?
Kết luận:
Khi sự biến đổi về lượng đạt đến một giới hạn nhất định, phá vỡ sự thống nhất
giữa chất và lượng thì chất mới ra đời thay thế chất cũ, sự vật và hiện tượng mới
ra đời thay thế cho sự vật và hiện tượng cũ.
Gv: Căn cứ kết quả trả lời câu 4, hướng dần HS nêu khái niệm điểm nút
b. Chất mới ra đời lại bao hàm một lượng mới tương ứng.
GV hướng dẫn HS nhận xét ví dụ SGK và lấy thêm ví dụ thực tế
GV: nhận xét và hướng dẫn HS rút ra kiến thức bài học.
Kết luận: Mỗi sự vật, hiện tượng đều có chất đặc trưng và có lượng đặc
trưng, phù hợp với nó. Khi chất mới ra đời lại bao hàm một lượng mới phù hợp,
tạo nên sự thống nhất giữa chất và lượng.
15
Ngoài ra, ở phần củng cố bài tôi cũng tích hợp kiến thức liên môn, làm
cho bài học trở nên sinh động, đa dạng, tăng thêm hứng thú cho giờ học. Cụ thể :
Củng cố luyện tâp:
Bài tập 1: Đoạn văn sau đây, ý nào nói về lượng, ý nào nói về chất của
phong trào cách mạng nước ta: Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 đã
dẫn đến việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. “Đây là kết quả
tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày
thành lập Đảng, từ cao trào Xô - viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936
– 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945, mặc dù cách mạng có
những lúc bị dìm trong máu lửa. Chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta bị
xoá bỏ, một kỷ nguyên mới mở ra, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”
Yêu cầu của bài tập được biên soạn dựa trên cơ sở tích hợp kiến thức của
Môn Sử. Cụ thể kiến thức tổng hợp của chương II, chương III, Phần II: Lịch sử
Việt Nam từ 1930 – 1945 - Lịch sử 9.
Gv: Yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức của bài kết hợp với kiến thức đã
học của môn Sử (Kiến thức tổng hợp của chương II, chương III Phần II: Lịch sử
Việt Nam từ 1930 – 1945, trong Lịch sử 9) để giải quyết
1. Lượng: 15 năm ( Từ cao trào Xô - viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ
1936 – 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945)
- Độ ( giới hạn ): từ 1930 đến trước tháng 8 năm 1945 .
- Điểm nút: Cách mạng tháng Tám 1945.
2. Chất: Bản chất của cuộc cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân.
3. Sự vật mới ra đời: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bài tập 2:
Cho Hs xem một đoạn vi deo Hoa nở (Video được xây dựng trên cơ sở
tích hợp kiến thức của Môn Sinh: Quá trình phát triển của cây).
- Gv? Thông điệp mà đoạn video này gửi đến chúng ta là gì?
- Hs vận dụng kiến thức được học trong môn sinh để giải quyết yêu cầu của bài
tập
- Gv cung cấp làm rõ đáp án:
+ Chất cũ: Nụ
+ Lượng: Quá trình sinh trưởng của Nụ
+ Độ: Quá trình sinh trưởng của Nụ từ nhỏ đến lớn
+ Điểm nút: Thời khắc Nụ nở
+ Chất mới: Hoa
=> Thông điêp được gửi tới:
Đó là bài học về sự kiên trì, nhẫn nại trong học tập, trong cuộc sống. Dù khó
khăn đến đâu, nếu chúng ta biết học tập chuyên cần, tích luỹ nhiều kiến thức...
Thì sẽ gặt hái được sự thành công nhất định ( sẽ nở Hoa )
“ Nên thợ nên thầy nhờ có học
No ăn, ấm mặc bởi hay làm ”
16
2.4 Kết quả thu được.
Với việc vận dụng kiến thức liên môn vào trong thực tiễn dạy học, kết
hợp với việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, cách thức tổ
chúc giờ học linh động, sáng tạo, không gò ép... tôi nhận thấy: Quá trình đó đã
khơi dậy lòng ham hiểu biết, tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc
khám phá, lĩnh hội các tri thức mới. Nội dung bài học được các em tiếp nhận rõ
ràng, không áp đặt, không xa rời thực tiễn; các tiết học trở nên lôi cuốn, học sinh
yêu thích môn học giáo dục công dân hơn. Qua việc vận dụng kiến thức liên
môn cũng giúp hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sống, các năng
lực như: Năng lực tự học; hợp tác làm việc nhóm; giao tiếp; giải quyết vấn đề;
tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với cuộc sống, học tập; tự chịu trách
nhiệm và thực hiện trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, nhà trường và xã
hội...
Đặc biệt khi Bộ - Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa tổ chức cuộc thi
“Dạy học theo chủ đề tích hợp kiến thức liên môn”. Cá nhân tôi đã tham gia
soạn và thực giảng tại lớp 10a1. Kết quả là: Năm học 2014-2015 Giáo án, giờ
dạy của tôi đạt giải Nhì cấp Tỉnh, Giải khuyến khích cấp Bộ. Năm học 20152016 tôi vẫn tham gia cuộc thi này và giáo án, giờ dạy của tôi đạt giải Ba cấp
Tỉnh. Đối với học sinh, những lớp mà tôi tham gia giảng dạy, các em cũng rất
tích cực vận dụng kiến thức liên môn vào trong quá trình học tập của mình. Nổi
bật có hai em là em Nguyễn Minh Hương và Bách Hồng Nhung lớp 10a1 đạt
giải Khuyến khích cấp Tỉnh cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết
các tình huống trong thực tiễn”. Ngoài ra khi khảo sát về chất lượng học tập của
học sinh tôi thu được kết quả như sau:
Bảng kết quả học tập của học sinh trước khi nghiên cứu đề tài
Lớp Tổng số Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
10a1
47
1 2.1 20 42. 26 55.
0
0
0
0
6
3
10a2
43
0
0
20 46. 21 48.
2
4.7
0
0
5
8
Bảng kết quả học tập của học sinh sau khi nghiên cứu đề tài
Lớp Tổng số Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
10a1
47
5 10.6 25 53. 17 36.
0
00
0
0
2
2
10a2
43
1 2.3 24 55. 18 41.
0
0
0
0
8
9
17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo không chỉ cho hôm nay mà cho
cả mai sau. Vì thế trường THCS & THPT Thống Nhất luôn nỗ lực hết mình
trong Dạy và Học. Tập thể sư phạm nhà trường nói chung và bản thân tôi luôn
nhận thức rõ muốn làm tốt nhiệm vụ trồng người, ươm mầm cho các thế hệ
tương lai mai sau thì ngoài việc người giáo viên luôn không ngừng tự nâng cao
trình độ chuyên môn của bản thân mà cần phải tìm kiếm, áp dụng các phương
pháp dạy học hiện đại khác phù hợp với thực tiễn dạy học của mình để chất
lượng dạy học luôn đạt thành tích cao nhất. Bằng những việc đã làm, với những
kết quả đã đạt được, tôi thiết nghĩ tích hợp kiến thức liên môn vào dạy học là
cần thiết và nên phổ biến rộng rãi kinh nghiệm cho đồng nghiệp, góp phần thực
hiện thắng lợi mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo; tạo đà
cho sự phát triển bền vững đất nước, dân tộc Việt Nam mai sau.
3.2.Kiến nghị
Kính mong Sở Giáo dục và Đào tạo thường xuyên tổ chức các đợt tập
huấn, sinh hoạt chuyên đề về tích hợp kiến thức liên môn để giáo viên có điều
kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau.
Nên phổ biến rộng rãi (nếu được có thể in thành tuyển tập) các “sản
phẩm” giáo dục đã được hội đồng khoa học các cấp thẩm định đánh giá về chất
lượng như: Giáo án đã đạt giải trong các kỳ thi tích hợp kiến thức liên môn của
Bộ, Sở trong các năm học vừa qua, các sáng kiến kinh nghiệm... để giáo viên
tham khảo, học hỏi, tăng thêm tài liệu bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho bản
thân.
XÁC NHẬN
CỦATHỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Vũ Văn Thành
Trịnh Thị Thắm
18