Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường môn GDCD lớp 10 ở trường THPT bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO HỌC SINH
THÔNG QUA TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
MÔN GDCD LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC

Người thực hiện: Bùi Thị Yến
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: GDCD

THANH HÓA, NĂM 2016


PHẦN

1

2

3
4

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiêm cứu
4. Phương pháp nghiên cứu


NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận và thực tiễn
2.2 Thực trạng trước khi thực hiện đề tài
2.3 Nguyên tắc cơ bản của việc dạy học tích hợp giáo
dục bảo vệ môi trường ở môn GDCD
2.4 Hướng tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường
trong dạy học môn GDCD lớp 10
2.5 Các biện pháp thực hiện
7Năng lực liên tưởng trong tiếp nhận văn học
8Năng lực khái quát hóa chi tiết nghệ thuật trong
tác phẩm
2.6 Kiểm nghiệm thực tế
2.7 Một số lưu ý khi thực hiện việc dạy học lồng ghép
bảo vệ môi trường
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
2. Đề xuất
TÀI LIỆU THAM KHẢO

TRANG
2

4

5
7

11
15
18

19
21

2


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môi trường là tài sản quý báu của mỗi quốc gia, có tầm quan trọng đặc
biệt đối với đời sống của con người, của sinh vật và sự phát triển của kinh tế văn hóa - xã hội. Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 định nghĩa: Môi trường
bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật .
Như vậy, môi trường sống của con người gồm hai yếu tố tự nhiên và xã hội :
- Môi trường tự nhiên : Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học,
sinh học( ánh sánh, núi , sông , biển cả, khí hậu, động và thực vật, tài nguyên…)
tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng luôn chịu tác động của con người.
- Môi trường xã hội: Là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con người
thông qua các quy ước xã hội, định chế luật pháp, ứng xử, hành vi…) Lịch sử xã
hội là một bộ phận của thế giới tự nhiên. Con người và xã hội loài người gắn bó
một cách mật thiết, hữu cơ với môi trường sinh sống, chịu ảnh hưởng của môi
trường và tác động trở lại môi trường.
Tuy nhiên, trong vài ba thập kỷ gần đây, do sự bùng nổ dân số, khai thác
cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ý thức bảo vệ môi trường của con
người còn nhiều hạn chế đã tạo ra những hiểm họa khôn lường cho cuộc sống
của chính mình như nguồn tài nguyên trên trái đất ngày càng cạn kiệt, môi
trường sống bị suy thoái nghiêm trọng, thậm chí ở một số vùng có nguy cơ bị
phá hủy hoàn toàn. Hàng loạt các vấn đề nảy sinh như biến đổi khí hậu toàn cầu,
suy thoái đa dạng sinh học, suy giảm tầng ô zôn, hoang mạc hóa đất đai…Các
vấn đề nêu trên đang là những thách thức lớn đối với sự sống còn của loài
người. Trước tình hình đó, chính phủ và nhân dân các nước trên thế giới không

thể thờ ơ trước lời kêu gọi của nhiều tổ chức quốc tế “ Hãy cứu lấy trái đất”.

3


Hình ảnh về chung tay bảo vệ môi trường
Ở nước ta , bảo vệ môi trường cũng đang là vấn đề được quan sâu
sắc.Nghị quyết số 41/NQ - TƯ ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về tăng cượng
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Quyết định số 1363/QĐ - TTg ngày 17 tháng 10 năm 2001 của thủ
tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án: “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường
vào hệ thống giáo dục quốc dân” và Quyết định số 256/ 2003/ QĐ- TTg ngày
02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ…đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
những nổ lực và quyết tâm bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển một
tương lai bền vững của đất nước.
Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân ở trường
trung học phổ thông Bá thước - Là một huyện vùng núi, tôi thấy hiện tượng
người dân phá rừng làm biết bao ngọn đồi xanh thành đồi núi trọc,khai thác các
nguồn lâm sản , sử dụng quá mức các loại thốc bảo vệ thực vật, chăn nuôi chưa
chú trọng xử lí nước, phân thải, bỏ xác động vật chết, xả rác bừa bãi…vào môi
trường đang là một vấn đề đáng được cơ quan các cấp, chính quyền địa phương
thật sự quan tâm. Điều đáng nói là những hành vi lệch lạc trên lại tác động
không nhỏ đến học sinh, đặc biệt là học sinh cấp 3 đang ở lứa tuổi tập làm
“người lớn”. Các em có thể chưa ý thức được rằng hành động không bỏ rác vào
thùng, phá hoại cây xanh…là chưa đúng. Chính vì thế , việc giáo dục môi
trường là việc làm hết sức cần thiết, thường xuyên và liên tục trong các nhà
trường phổ thông.
Nước ta có khoảng 23 triệu học sinh , đây là lực lượng xung kích, hùng
hậu nhất cho công tác vận động , tuyên truyền bảo vệ môi trường cho gia đình,
cộng đồng dân cư của khắp địa phương cả nước. Hơn nữa việc giáo dục ý thức

cho học sinh đồng nghĩa với việc hình thành kỹ năng sống của người lao động
mới, kết hợp được giữa việc phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường
của con người. Nếu giáo dục có hiệu quả sẽ tạo được ở các em một tình yêu

4


thieennhieen và ý thức giữ gìn cho môi trường trong sạch, bảo vệ chính môi
trường sống của các em sau này.
Hiện nay dạy học tích hợp đang là một trong những quan điểm giáo dục
đang được quan tâm. Thực hiện tích hợp trong dạy học sẽ mang lại nhiều lợi ích
cho việc góp phần hình thành và phát triển năng lực hành động, năng lực giải
quyết vấn đề cho học sinh.
Dạy học tích hợp được hình thành trên cơ sở những quan niệm tích cực
về quá trình học tập và quá trình dạy học, thực hiện quan điểm tích hợp trong
giáo dục sẽ góp phần phát triển tư duy tổng hợp, năng lực giải quyết vấn đề và
làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn với học sinh so với việc học tập và
thực hiện các mặt giáo dục một cách riêng rẽ. Môn giáo dục công dân trang bị
cho học sinh những kiến thức về môi trường, mối quan hệ giữa con người với
môi trường tự nhiên. Giúp các em có ý thức, thái độ, hành vi về môi trường như
ý thức bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có tình cảm
yêu quý thiên nhiên, đất nước, tôn trọng những vẻ đẹp thiên nhiên, có thái độ
thân thiện với môi trường...
Xuất phát từ thực tế và qua thời gian thực hành thấy có hiệu quả , tôi
mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh
thông qua tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Bá Thước.”để đồng nghiệp cùng tham khảo.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thông qua thực trạng về môi trường sống bị ô nhiễm và ý thức bảo vệ
môi trường hiện nay của các em học sinh trường THPT Bá Thước , chúng tôi

khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi
trường vào một số bài giáo dục công dân lớp 10 để giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường sống một cách thiết thực nhất, hiệu quả nhất và nhằm nâng cao chất
lượng giờ dạy của giáo viên, giúp học sinh tích cực chủ động trong giờ học,
thông qua những việc làm cụ thể. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng học tập
của học sinh, góp phần đẩy mạnh hơn nữa nền giáo dục nước nhà. Giúp học sinh
có phương pháp học tập hợp lý hơn với yêu cầu hiện tại. Từ đó giúp học sinh
thêm hứng thú với môn học được coi là khô khan và khó học này.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu:
Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy
học, mỗi năm tôi chọn 4 lớp 10 của trường THPT Bá Thước. Đề tài được nghiên
cứu trong thời gian 2 năm học: 2014- 2015, 2015- 2016 cụ thể là:
- Năm học: 2014 - 2015: Lớp đối chứng: 10A1, 10A2
Lớp thử nghiệm: 10A7, 10A8
- Năm học: 2015 - 2016: Lớp đối chứng: 10A1, 10A2
Lớp thử nghiệm: 10A3, 10A5
* Phạm vi nghiên cứu:

5


Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là tích hợp, lồng ghép nội dung bảo vệ
môi trường vào một số bài học cụ thể trong trương trình GDCD lớp 10.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp tham quan, điều tra, khảo sát, nghiên cứu thực địa, đánh giá
quá trình học tập của học sinh.
Phương pháp hoạt động thực tiễn, phương pháp giải quyết vấn đề cộng
đồng, phương pháp lấy ý kiến của đồng nghiệp và học sinh.
PHẦN 2: NỘI DUNG

2.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Trong những năm gần đây, nạn suy thoái môi trường đã và đang ảnh
hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người. Con người phải gánh chịu những
hậu quả do thiên tai gây ra. Chính vì thế giáo dục ý thức bảo vệ môi trường là
việc làm hết sức cần thiết, thường xuyên và liên tục. đặc biệt trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với một lượng rác thải khổng lồ vào môi trường sống
thì vấn đề bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách. Bộ GD-ĐT đã đưa các nội
dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục nhằm tác động đến thái độ, hành
vi của học sinh bằng chương trình tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường
trong các môn Văn, Sử, Địa… đặc biệt là môn Giáo dục công dân.
Chiến lược môi trường và bảo vệ môi trường của mỗi quốc gia, mỗi vùng,
mỗi địa phương phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp và hiệu quả của công tác
giáo dục môi trường. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề giáo dục môi trường trở
nên cấp bách vì:
- Sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của loài người nhanh hơn mức
độ tiến hóa của sinh quyển. Vì vậy, sự tiến hóa của sinh quyển không thể đương
đầu với sự mất cân bằng môi trường gây ra bởi sự tiến bộ của kinh tế, văn hóa
mà loài người tạo ra.
- Vấn đề môi trường phải được xem xét trong phạm vi từng địa phương,
từng quốc gia và trong phạm vi toàn cầu để tạo ra nhận thức, thái độ và hành vi
của mỗi cá nhân trong việc trân trọng , giữ gìn và bảo vệ môi trường( Những
vấn đề của thời đại – NXBĐHSP năm 2005).
Các hình thức giáo dục môi trường rất phong phú và đa dạng như giáo
dục theo cá nhân, theo nhóm, theo cộng đồng; Tuyên truyền giáo dục qua
phương tiện thông tin đại chúng; Phổ biến chính sách, pháp luật về môi trường,
tiến hành hoạt động thông qua các tổ chức đoàn thể, quần chúng, giáo dục trong
nhà trường…Trong đó giáo dục môi trường trong nhà trường là biện pháp trực
tiếp, phổ biến rộng rãi và có hiệu quả.
Giáo dục bảo vệ môi trường là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất,
kinh tế nhất và có tính bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu bảo

vệ môi trường và phát triển bền vững đất nước. Thông qua giáo dục, từng người
và cộng đồng được trang bị kiến thức về môi trường, ý thức bảo vệ môi trường,
năng lực phát hiện và xử lí các vấn đề môi trường.

6


Giáo dục bảo vệ môi trường cũng góp phần hình thành nhân cách người
lao động mới, người chủ tương lai của đất nước – người lao động, người chủ có
thái độ thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế hài hóa với việc bảo vệ môi
trường, bảo đảm nhu cầu của hôm nay mà không phương hại đến các thế hệ mai
sau. Giáo dục bảo vệ môi trường là vấn đề có tính chiến lược của mỗi quốc gia
và toàn cầu.
2.2. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
2.2.1. Thuận lợi.
Tình hình chung về giảng dạy môn giáo dục công dân ở trường: Đội
ngũ giáo viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy, 100% cho rằng giáo
dục bảo vệ môi trường trong dạy học môn giáo dục công dân là điều rất cần
thiết.
Tình hình trường lớp, học sinh: Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép,
vâng lời thầy cô, ham tìm tòi, học hỏi và có khả năng tiếp thu kiến thức cao nên
quá trình truyền tải, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được diễn ra thuận lợi.
Cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học trong trường tương đối đầy đủ, phù hợp
với điều kiện dạy học của giáo viên và học sinh.
Các phương tiện thông tin đại chúng như: báo đài, internet…cung cấp
nhiều thông tin, sự kiện về môi trường.
2.2.2 Khó khăn:
Huyện Bá Thước là một huyện miền núi vùng sâu, vùng xa nên những
thiết bị cần thiết cho nhu cầu giữ vệ sinh hằng ngày như thùng rác, nhà vệ
sinh… vẫn chưa đủ tiêu chuẩn và chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Về phía giáo viên: Trên thực tế do vấn đề thời lượng và nội dung kiến
thức còn nặng nên việc lồng ghép dạy học giáo dục công dân với giáo dục bảo
vệ môi trường còn rất hạn chế.
Về phía học sinh, ý thức bảo vệ môi trường còn chưa tốt. Các em thường
vứt giấy, phấn, vỏ bút, túi ni lông…bừa bãi khắp lớp học và sân trường.
Do nhà trường còn nhiều khó khăn nên chưa thể tổ chức được những
buổi tham quan về môi trường ở các vùng công nghiệp, đặc biệt là những nơi bị
ô nhiễm.
2.2.3 Tìm hiểu thực trạng ô nhiễm môi trường ở Việt năm và địa
phương.
a.Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam:
Sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng đã làm thay đổi hoàn toàn bộ
mặt đất nước việt nam trong thời gian qua. Nhưng cùng với sự phát triển kinh tế,
dân số tăng nhanh, quá trình đô thị hóa thì môi trường của Việt nam cũng đang
xuống cấp nghiêm trọng, thậm chí ở một số nơi đang ở mức báo động.
Mất rừng , đồi núi trọc, đất bị sói mòn rửa trôi, chế độ thủy văn và khí hậu
thay đổi theo chiều hướng xấu, mất đa dạng sinh học, nhất là những động thực
vật quý hiếm.
Bên cạnh “lá phổi xanh” của con người đang có nguy cơ cạn kiệt dần tác
dụng thì tài nguyên đất cũng đang bị đe dọa. Tỉ lệ đất canh tác đang rơi vào tình
7


trạng lãng phí do con người quá lạm dụng đất mà không có biện pháp bảo vệ
hợp lí, lạm dụng thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật quá mức cho phép làm cho đất
đai ngày càng trở nên xấu đi, lượng thuốc hóa học dư thừa lại thấm vào lòng đất
gây ô nhiễm môi trường nước, nguy hại đến tính mạng và sức khỏe con người.
Ô nhiiễm môi trường đất, nước, không khí và tiếng ồn đã xuất hiện nhiều
nơi, nhất là khu công nghiệp. Rác thải ngày càng nhiều và là một vấn đề nan
giải, xử lý chưa triệt để, các dòn sông , các thành phố bị ô nhiễm ở mức khác

nhau, bụi gia tăng, các loại khí cos nơi SO 2 vượt 14 lần cho phép, CO2 vượt 2,7
lần cho phép.
b. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương:
Do huyện Bá Thước là một huyện có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp
nên hiện tượng ô nhiễm môi trường chỉ xảy ra dưới hình thức ô nhiễm môi
trường đất, nước và không khí. Lượng đất canh tác nông nghiệp của huyện Bá
Thước còn hạn chế nên nguời dân thường tăng số lượng mùa vụ cây trồng trong
năm. Để cây trồng cho năng suất cao thì người dân lại sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật, thuốc diệt cỏ quá nồng lượng cho phép. Chính điều này đã làm cho đất
canh tác ngày càng xấu, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và làm ô nhiễm luôn
mạch nước ngầm. Bên cạnh đó có nhiều hộ gia đình chăn nuôi gia súc như lợn,
trâu bò… vẫn chưa có hệ thống xử lí nước thải nên gây ra hiện tượng ô nhiễm
nước và ô nhiễm không khí.
Ở trường THPT Bá Thước nơi tôi công tác, tôi thấy đại đa số học sinh đã
có ý thức giữ gìn việc sinh trường lớp. Sân trường rất ít rác thải. Có chăng là
nhiều lá cây rụng do trường tôi có rất nhiều cây xanh lâu năm. Các em biết bỏ
rác vào thùng rác đặt ở nhiều vị trí thuận tiện trong khuôn viên nhà trường.
Nhưng bên cạnh đó có một số học sinh còn xem nhẹ ý thức bảo vệ môi trường,
vẫn còn hiện tượng học sinh vứt rác bừa bãi ngoài sân trường, trên đường đi học
về và khu vực mình sinh sống. Do đặc trưng của trường học là có lao công dọn
vệ sinh lớp học nên học sinh còn thải rác trong hộc bàn và sàn lớp. Thăm dò
kiến thức chỉ khoảng 49% học sinh nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của môi
trường đối với cuộc sống con người và tác hại nếu ta hủy hoại môi trường và tài
nguyên thiên nhiên.
2.3. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA VIỆC DẠY HỌC TÍCH HỢP
GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN.
1.Nguyên tắc chung:
Việc tích hợp giáo dục môi trường vào môn học là điều cần thiết nhưng
không phải muốn đưa vào bài học nào cũng được, mà phải căn cứ vào nội dung
của bài học có liên quan với vấn đề môi trường mới có thể tích hợp được.Việc

tích hợp phải đảm bảo tính khoa học, kiến thức trọng tâm của bộ môn, không
biến giờ học thành một giờ giáo dục bảo vệ môi trường.Không lạm dụng quá
nhiều kiến thức về môi trường dẫn đến quá tải.
2.Nguyên tắc cụ thể:
- Tập trung vào những kiến thức trọng tâm của bài học.
- Hệ thống câu hỏi cho bài học phải hợp lý, khoa học.
8


- Khai thác các vấn đề liên quan đến môi trường nhằm hình thành ở các
em ý thức hành vi bảo vệ môi trường.
2.4. HƯỚNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10.
Ngoài việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các môn học như
Văn, sử, Địa,Sinh ,Giáo dục công dân…Trong đó môn Giáo dục công dân đóng
vai trò khá quan trọng, giáo dục bảo vệ môi trường là việc làm được tổ chức
thường xuyên của nhà trường. Ngoài việc dọn vệ sinh trường lớp, chăm sóc cây
cảnh bồn hoa 15 phút đầu giờ, trong những buổi sinh hoạt đầu tuần: Lớp trực
ban, đội thanh niên xung kích, Ban giám hiệu nhà trường luôn luôn chú ý nhận
xét về tình hình vệ sinh chung của trường lớp, có khen chê kịp thời đối với
những tập thể lớp ,cá nhân thực hiện tốt và chưa thực hiện tốt vệ sinh lớp học ,
vệ sinh cầu thang…
Trong chương trình giáo dục công dân lớp 10 có một số bài học có nội
dung liên quan đến vấn đề môi trường cũng như ý thức của học sinh trong việc
bảo vệ môi trường. Đó là những thuận lợi tạo điều kiện để giáo viên có thể tích
hợp giáo dục bảo vệ môi trường. Khi dạy các bài này ngoài những kiến thức
trọng tâm cần truyền đạt cho học sinh, giáo viên cần khai thác những khía cạnh
khác nhau của vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường.
Ví dụ 1: Ở bài 2: “Thế giới vật chất tồn tại khách quan” sách giáo khoa
giáo dục công dân lớp 10

Giáo viên dạy học bài này theo hướng tích hợp, lồng ghép về giáo dục bảo
vệ môi trường cho học sinh. Khi giảng dạy nội dung bài này học sinh cần hiểu
được:
Về kiến thức: Con người có thể cải tạo môi trường tự nhiên nhưng phải
tuân theo quy luật khách quan của tự nhiên.
Về kỹ năng : Tham gia bảo vệ, cải tạo môi trường tự nhiên phù hợp với
lứa tuổi.
Về thái độ: Tôn trọng quy luật khách quan, tôn trọng quy luật tự nhiên.
Đơn vị kiến thức : Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên
a, Con người là sản phẩm của giới tự nhiên
Hoạt động: Thảo luận lớp tìm hiểu nguồn gốc của con người.
b, Xã hội là sản phẩm của giới tự nhiên
Hoạt động: Động não và đàm thoại tìm hiểu nguồn gốc của xã hội.
c, Con người có thể nhận thức, cải tạo thế giới khách quan
Hoạt động1: Đọc và thảo luận thông tin về khả năng nhận thức của con
người.
Hoạt động2: Thảo luận nhóm về khả năng cải tạo thế giới khách quan của
con người.
Mục tiêu: Học sinh nêu được :
- Con người có thể cải tạo môi trường tự nhiên nhưng phải tuân theo quy
luật khách quan của giới tự nhiên.

9


- Hậu quả của việc cải tạo môi trường tự nhiên không tuân theo quy luật
khách quan.

Sói mòn đất


Chặt phá rừng

Cách tiến hành: GV nêu câu hỏi thảo luận nhóm:
Câu 1: Dựa vào đâu con người có thể cải tạo thế giới khách quan ? Nêu
một ví dụ?
Câu 2: Trong những hoạt động tác động vào tự nhiên mà em biết, hoạt
động nào có ích cho giới tự nhiên , hoạt động nào gây hại cho giới tự nhiên? Vì
sao em xác định như vậy?
Câu 3: Trong cải tạo môi trường tự nhiên , nếu không tuân theo quy luật
khách quan. Điều gì sẽ xảy ra? Nêu một ví dụ?
Câu 4:Trong cải tạo xã hội , nếu không tuân theo quy luật khách quan.
Điều gì sẽ xảy ra? Nêu một ví dụ?
GV chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm trả lời một câu hỏi.
Đại diện từng nhóm báo cáo kết quả thảo luận. Lớp tranh luận bổ sung,
thống nhất đáp án.
GV kết luận: Con người không thể tạo ra giới tự nhiên nhưng con người
có thể cải tạo được giới tự nhiên vì lợi ích của mình, trên cơ sở tôn trọng và tuân
theo các quy luật vận động khách quan vốn có của nó.Nếu không tôn trọng và
tuân theo các quy luật khách quan con người không chỉ gây hại cho môi trường
nói riêng , giới tự nhiên nói chung mà còn gây hại cho chính mình.
Ví dụ 2: Ở bài 10: “Quan niệm về đạo đức” sách giáo khoa giáo dục công
dân lớp 10.
Giáo viên dạy học bài này theo hướng tích hợp, lồng ghép về giáo dục bảo
vệ môi trường cho học sinh.
Đơn vị kiến thức 1: Quan niệm về đạo đức sách giáo khoa giáo dục công
dân lớp 10
Hoạt động 1: Xử lí tình huống để tìm hiểu đạo đức là gì?
Hoạt động 2: Thảo luận nhóm để phân biệt đạo đức với pháp luật.
Hoạt động 3: Đàm thoại để phân biệt đạo đức với pháp luật có liên quan
đến môi trường.

10


Khi giảng dạy nội dung bài này học sinh cần hiểu được:
- Bảo vệ môi trường là chuẩn mực xã hội cần phải tuân theo
- Những tập quán gây hại cho môi trường cần phá bỏ.
Cách tiến hành:
Giáo viên nêu một số câu hỏi đàm thoại:
Câu1: Em biết hành vi nào gây hại cho môi trường ( hành vi đó chưa có
khung hình phạt của pháp luật nhưng lại bị xã hội lên án)
Câu 2: Em biết những việc làm nào gây hại cho môi trường?
Câu 3: Theo em, chúng ta có thể làm gì để xử lí được những việc làm đó?
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu, thảo luận.
Giáo viên gọi học sinh trả lời ý kiến cá nhân
Giáo viên gọi học sinh khác bổ sung, góp ý
Giáo viên có thể nêu lên một số ví dụ như:
Ví dụ 1: Có người biết nhà hàng xóm buôn bán động vật hoang dã nhưng
làm ngơ không tố giác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật chưa có
quy định về tội này, nhưng việc người đó không tố giác là đã tiếp tay cho việc
làm hại tài nguyên, môi trường và sẽ bị xã hội lên án.
Ví dụ 2: Những người dân xả rác thải bừa bãi ra môi trường, hay việc
phân loại rác thải chưa tốt cũng ảnh hưởng đến môi trường sống của chúng ta.
Sau đó giáo viên đưa ra kết luận:
Bảo vệ môi trường cũng là một chuẩn mực đạo đức, mỗi người cần phải
tuân theo. Có những hành vi ảnh hưởng xấu đến môi trường, tuy nhiên chưa đến
mức bị pháp luật xử lí nhưng vẫn bị dư luận xã hội lên án.Chúng ta có thể tham
gia vận động, tuyên truyền…để người dân hiểu rõ tác hại của các việc làm đó
đến môi trường.

Thanh niên tình nguyện tham gia tổng vệ sinh

Ví dụ 3: Ở bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại
sách giáo khoa giáo dục công dân lớp 10 .
Đây là bài có nhiều nội dung liên quan đến môi trường. Việc lồng ghép
vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường là cần thiết. Theo cá nhân tôi, khi dạy bài này
giáo viên cần:
11


a.Về kiến thức: Giáo viên cần giúp học sinh thấy được hậu quả của sự gia
tăng dân số cũng làm ảnh hưởng đến môi trường, thực trạng môi trường hiện
nay và tại sao vấn đề dân số và vấn đề môi trường lại được coi là vấn đề cấp
thiết của nhân loại ngày nay.
Giáo dục học sinh biết làm những việc bảo vệ môi trường, hạn chế sự
bùng nổ dân số để giảm thiểu sự tác động đến môi trường.
Học sinh biết tham gia vào các hoạt động lao động vệ sinh trường học, nơi
ở, đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh...
b. Về phương tiện, đồ dùng học tập: Giáo viên và học sinh cùng chuẩn bị
tranh ảnh, băng hình,...
c .Thực hiện: Giáo viên nên đặt ra hệ thống câu hỏi lồng ghép
Câu1: Tài nguyên thiên nhiên và môi trường có ý nghĩa như thế nào đối
với cuộc sống của con người?
Câu 2: Thực trạng tài nguyên thiên nhiên và môi trường hiện nay và biện
pháp bảo vệ?
Câu 3: Hậu quả xã hội của việc tăng dân số? Cần phải có những giải pháp
như thế nào để khắc phục?

Hình ảnh về bùng nổ dân số
Hoặc giáo viên cũng có thể cho học sinh đóng vai trò là Tổng thư ký liên
hiệp quốc để nhìn nhận về thực trạng, tác động của những vấn đề cấp thiết của
nhân loại hiện nay đối với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Từ đó ra

lời kêu gọi toàn thể nhân loại hãy đoàn kết cùng nhau giữ gìn, bảo vệ ngôi nhà
chung trái đất.
Qua việc đặt câu hỏi, đóng vai…giúp học sinh thấy được hậu quả của việc
khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, bùng nổ dân số tác động mạnh mẽ đối
với con người không phải chỉ ngay bây giờ mà nó còn là vấn đề lâu dài mà cả
nhân loại cùng phải gánh chịu.
2.5.CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để lựa chọn được những hình thức và phương pháp thích hợp trong việc
giáo dục môi trường đạt hiệu quả cao cần vận dụng linh hoạt các phương pháp
khác nhau để bài giảng thêm sinh động, học sinh hứng thú với môn học.
12


2.5.1. Phương pháp đàm thoại , gợi mở:
Đàm thoại thực chất là phương pháp dạy học mà ở đó giáo viên sử dụng
hệ thống câu hỏi để dẫn dắt, chỉ đạo học sinh tìm hiểu và lĩnh hội nội dung của
bài học. Như vậy hệ thống câu hỏi là cốt lõi của phương pháp đàm thoại. Giáo
viên hỏi, học sinh trả lời, cuối cùng giáo viên chốt chuẩn kiến thức.
Ví dụ: Giáo viên đưa ra một số nguyên nhân ô nhiễm không khí như: Khí
thải công nghiệp, cháy rừng ...sẽ làm hủy hoại tầng ô zôn.

Khói thải công nghiệp
Đốt rừng làm nương rẫy
Giáo viên đặt câu hỏi:
Câu hỏi: Thủng tầng ôzôn sẽ gây tác hại gì đối với môi trường và con người?
Học sinh trả lời câu hỏi qua đó giáo viên giáo dục tư tưởng bảo vệ môi trường
cho học sinh.

Lỗ thủng tầng ôzôn
2.5.2.Phương pháp trực quan .

Việc sử dụng tranh ảnh có nội dung về môi trường giúp học sinh dễ dàng
nhận biết được những vấn đề của môi trường như hiện tượng ô nhiễm không
khí, nước, hiện tượng xói mòn đất ở vùng đất trống đồi núi trọc...
Giáo viên sử dụng máy chiếu đưa những hình ảnh sôi động hoặc đoạn
phim nói về thực trạng môi trường hiện nay.

13


Ô nhiễm không khí

Cá chết ở biển miền Trung

Ô nhiễm môi trường đất do vỏ thuốc bảo vệ thực vật

Cá chết trên sông Bưởi (Thạch Thành- Thanh Hóa)

Ô nhiễm nguồn nước, cá chết hàng loạt ở bãi biển miền trung
Khi hướng dẫn học sinh quan sát, trực tiếp giáo viên cần xác định mục đích,
yêu cầu của việc quan sát hình ảnh. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh xem
những hình ảnh, đoạn phim đó để nói lên hiện tượng gì, vấn đề gì và mô tả hiện
tượng. Cuối cùng giáo viên gợi ý cho học sinh nêu nguyên nhân và hậu quả của
hiện tượng.
Học sinh quan sát hình ảnh, đoạn phim, sau đó thảo luận, đưa ra kết quả
Giáo viên theo dõi quá trình thảo luận, câu trả lời của học sinh rồi nhận xét bổ
sung.
Ví dụ giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn phim về việc nước thải,
chất thải chưa qua xử lý thải ra các con kênh, mương ở khu vực sông Thị Vải…
Lưu ý khi sử dụng hình ảnh, đoạn phim giáo viên cần chuẩn bị những câu hỏi
hướng dẫn học sinh khai thác nội dung cần được thể hiện trên hình ảnh, đoạn

phim và yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức của bài học để giải thích các hiện
tượng được thể hiện qua đoạn phim đó.
14


Xả nước thải chưa qua xử lý ở khu vực sông Thị Vải…
2.5.3. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Giáo viên nêu vấn đề, tạo tình huống có vấn đề
Ví dụ giáo viên đưa ra tình huống1: Trong những ngày học cuối năm
khi đang vui chơi trong sân trường em bỗng nhìn thấy các anh chị lớp 12 thi
nhau trèo lên cây phượng để hái hoa, bẻ cành xuống để chụp ảnh lưu niệm cuối
năm học.
Khi gặp tình huống đó em sẽ làm gì? Tại sao em lại có thái độ như vậy?
Giải quyết: Khi gặp tình huống này em sẽ đến và khuyên các anh chị nên
dừng lại, không nên leo trèo ngắt hoa bẻ cành vì: Cây xanh được coi như là lá
phổi xanh điều hòa trái đất, nếu chúng ta hủy hại chúng chính là hủy hoại môi
trường sống của mình. Môi trường có vai trò quan trọng đối với con người, đó là
nơi con người chúng ta sinh ra, lớn lên, tồn tại và phát triển. Ngoài ra môi
trường còn là nơi con người nghỉ ngơi, hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên. Hẳn ai
cũng muốn ngồi ở một ghế đá dưới tán cây xanh rợp bóng mát và ngắm nhìn
những chùm hoa phượng đỏ rực sau một thời gian học tập trên lớp. Có ai đã
từng nghỉ đến tình huống phải ngắm nhìn những cây phượng trơ trụi hoa lá do
những cô cậu học sinh ngắt hoa, bẻ cành chỉ để chụp những bức hình lưu niệm.
Việc làm của các anh chị này là không tốt, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường.
Ví dụ giáo viên đưa ra tình huống 2: Trên đường đi học về Mai gặp một
bác nông dân đang vứt vỏ chai thuốc trừ sâu xuống con kênh gần nhà. Nếu em
là Mai thì em sẽ giải quyết tình huống này như thế nào?
Giải quyết: Nếu em là Mai thì em sẽ yêu cầu bác nông dân không được
vứt vỏ chai thuốc trừ sâu xuống kênh mương, vì như vậy sẽ gây ô nhiễm môi
trường nước, thậm chí gây bệnh cho con người. Bác nông dân nên chôn vỏ chai

thuốc để bảo vệ môi trường.
Kết luận: Môi trường có vai trò rất quan trọng đối với con người, vì vậy
mỗi cá nhân phải tự có ý thức bảo vệ môi trường sống của chính mình.Chúng ta
hãy chung tay bảo vệ môi trường và các tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là phải
bảo vệ và trồng thêm nhiều cây xanh để trái đất của chúng ta ngày một trong
lành hơn.
2.5.4. Phương pháp thảo luận nhóm.
Sử dụng phương pháp này, hệ thống câu hỏi phải khó, đòi hỏi phải có tính
tập thể để giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung bảo vệ môi trường.
15


Thảo luận nhóm được tiến hành theo các bước sau :
Giáo viên giới thiệu chủ đề thảo luận.
Chia lớp thành những nhóm nhỏ, giao nhiệm vụ cho các nhóm, quy định
thời gian và phân công vị trí làm việc của từng nhóm.
- Các nhóm thảo luận giải quyết các nhiệm vụ được giao, ghi kết quả thảo
luận ra giấy khổ lớn.
- Từng nhóm cử đại diện trình bày kết quả thảo luận của nhó trước lớp.
Các nhóm khác lắng nghe và trao đổi ý kiến, nhận xét, bổ sung.
Giáo viên tổng kết lại những nội dung, vấn đề mà học sinh cần nắm vững,
định hướng nhận thức, hành vi của học sinh, nhận xét kết quả làm việc của các
nhóm.
Ví dụ: Ở bài 2: “Thế giới vật chất tồn tại khách quan” phần con người có
thể nhận thức , cải tạo được giới tự nhiên và xã hội.
- Giáo viên tiến hành thảo luận lớp.
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm và nêu các câu hỏi thảo luận:
Câu 1: Theo các em, con người có thể cải tạo được thế giới khách quan
hay không? Vì sao cho ví dụ?
Câu 2: Dựa vào đâu con người có thể cải tạo được thế giới khách quan .

Câu 3: Trong những hoạt động tác động vào tự nhiên của con người mà
em biết, hoạt động nào là có ích, hoạt động nào gây hại cho con người và tự
nhiên.
câu 4: Trong quá trình cải tạo được giới tự nhiên và xã hội nếu không
tuân theo những quy luật khách quan thì điều gì sẽ xảy ra? Cho ví dụ minh họa.
- Sau khi học sinh thảo luận và báo cáo kết quả, giáo viên giảng giải và
kết luận:
+ Nhờ các giác quan và bộ não, con người có thể nhận thức được thế giới
khách quan . Khả năng nhận thức của con người ngày càng tăng lên.
+ Con người có thể cải tạo được thế giới khách quan , trên cơ sở tôn
ttrọng và tuân theo các quy luật của chúng. Nếu làm trái quy luật khách quan,
con người phải hứng chịu những hậu quả khôn lường. Với việc cải tạo giới tự
nhiên, với khả năng và nổ lực của mình, con người còn không ngừng cải tạo xã
hội, nhờ đó xã hội loài người đã không ngừng phát triển.
2.6.KIỂM NGHIỆM THỰC TẾ.
Để thấy được tính hiệu quả khi sở dụng tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường trong bài giảng , tôi đã tiến hành thử nghiệm và sử dụng phiếu điều
tra. Trong 2 năm học, 2014-2015,và 2015-2016, mỗi năm tôi đã chọn bốn lớp có
mức độ nhận thức tương đương nhau để thử nghiệm và đối chứng.
Thời gian theo dõi thông qua giáo viên, lớp trực ban và đội thanh niên xung
kích của nhà trường một cách sát sao, liên tục về ý thức và hành động của học
sinh về bảo vệ môi trường tại trường THPT Bá Thước trong 5 tháng sau khi dạy
bài này tôi đã thu được kết quả.
- Đa số học sinh hiểu bài, nắm được trọng tâm bài học, tầm quan trọng
của việc bảo vệ môi trường và hậu quả nếu ta phá hoại môi trường.
16


- Học sinh có hứng thú say mê tìm tòi tranh, ảnh phục vụ cho bài học.
- Giờ học sinh động hơn.

- Học sinh đã biết áp dụng những điều đã học vào thực tế, có ý thức bảo
vệ môi trường.

Những buổi lao động của học sinh trường THPT Bá Thước

17


Học sinh chăm sóc bồn hoa 15 phút đầu giờ
Sau khi được giáo dục bảo vệ môi trường , học sinh trường THPT Bá
Thước đã có ý thức nhặt rác, vệ sinh lao động , chăm sóc bồn hoa làm cho ngôi
trường thêm sạch đẹp.
* Kết quả kiểm nghiệm.
a) Năm học 2014 – 2015:
Bảng 1: Kết quả về thực hiện bảo vệ môi trường (Đối với lớp đối chứng:
Khi chưa sử dụng phương pháp tích hợp, lồng ghép giáo dục môi trường trong
dạy học môn GDCD10) như sau:
Số học sinh có ý
Số học sinh có ý
Số học sinh chưa
thức bảo vệ môi
thức bảo vệ môi
có ý thức bảo vệ
Lớp Sĩ số
trường thường
trường nhưng chưa
môi trường
xuyên
thường xuyên
Số lượng


Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

10A1 45

23

51,1

15

33,4

7

15,5

10A2

44

22


50

16

36

6

14

Tổng

89

45

50,6

31

34,8

13

14,6

Bảng 2: Bảng thống kê kết quả về thực hiện bảo vệ môi trường (Đối với
lớp thử nghiệm: khi sử dụng phương pháp tích hợp, lồng ghép giáo dục môi
trường trong dạy học môn GDCD 10) như sau:

Số học sinh có ý
Số học sinh có ý
Số học sinh chưa
thức bảo vệ môi
thức bảo vệ môi
có ý thức bảo vệ
Lớp Sĩ số
trường thường
trường nhưng chưa
môi trường
xuyên
thường xuyên
Số lượng

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

18


10A7 44

29


65,9

14

31,8

1

2,3

10A8

43

26

60.5

15

34,8

2

4,7

Tổng

87


55

63,2

29

33,4

3

7,0

b) Năm học 2015– 2016:
Bảng 1: Kết quả về thực hiện bảo vệ môi trường ( Đối với lớp thử nghiệm:
Khi chưa sử dụng phương pháp tích hợp, lồng ghép giáo dục môi trường trong
dạy học môn GDCD10) như sau:
Số học sinh có ý
Số học sinh có ý
Số học sinh chưa
thức bảo vệ môi
thức bảo vệ môi
có ý thức bảo vệ
Lớp Sĩ số
trường thường
trường nhưng chưa
môi trường
xuyên
thường xuyên
Số lượng


Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

10A1 42

21

50,0

15

35,7

6

14,3

10A2

43

23


53,5

12

27,9

8

18,6

Tổng

85

44

51,8

23

31,8

09

16,4

Bảng 2: Bảng thống kê kết quả về thực hiện bảo vệ môi trường ( Đối với
lớp thử nghiệm: khi sử dụng phương pháp tích hợp, lồng ghép giáo dục môi
trường trong dạy học môn GDCD 10) như sau:

Số học sinh có ý
Số học sinh có ý
Số học sinh chưa
thức bảo vệ môi
thức bảo vệ môi
có ý thức bảo vệ
Lớp Sĩ số
trường thường
trường nhưng chưa
môi trường
xuyên
thường xuyên
Số lượng

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

10A3

43

30


70

10

23

03

7

10A5

44

31

70,4

11

25

02

4,5

Tổng

87


61

70,3

21

24

05

5,7

So sánh các bảng thống kê kết quả theo dõi ở hai năm học giữa các lớp đối
chứng và các lớp thử nghiệm cho thấy: Đối với lớp thử nghiệm: khi sử dụng
phương pháp tích hợp, lồng ghép giáo dục môi trường trong dạy học môn
GDCD 10 số lượng học sinh đã có ý thức bảo vệ môi trường thường xuyên
nhiều hơn cách biệt với số học sinh ở lớp đối chứng và số học sinh ở lớp thử
nghiệm chưa có ý thức bảo vệ môi trường ít hơn nhiều so với số học sinh ở lớp
đối chứng.
Tuy kết quả trên đây còn khiêm tốn nhưng phần nào khẳng định hiệu quả
của việc tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường vào bài giảng, lồng ghép
giáo dục bảo vệ môi trường vào dạy học môn GDCD lớp 10 là một trong những
biện pháp có hiệu quả trong việc nâng cao hứng thú học tập cho học sinh đối với

19


bộ môn GDCD và nâng cao rõ rệt ý thức bảo vệ môi trường của học sinh trường
THPT Bá Thước trong nhà trường, gia đình, địa phương.
Việc dạy học tích hợp, lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy

học môn GDCD lớp 10 đã đem lại kết quả khả quan, đã chuyển từ ý thức đạo
đức thành hành vi đạo đức. Học sinh có ý thức bảo vệ môi trường ở tại nơi mình
học tập như ở trường THPT Bá Thước: Học sinh có ý thức dọn dẹp vệ sinh lớp
học, trường học, trồng nhiều cây xanh, không xả rác thải bừa bãi…
2.7. MỘT SỐ LƯU Ý KHI THỰC HIỆN DẠY HỌC LỒNG GHÉP
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.
Trang bị đầy đủ tài liệu tích hợp giáo dục môi trường cho học sinh
Trong quá trình dạy học, việc tích hợp giáo dục môi trường cho học sinh
đòi hỏi cần có nhiều tài liệu để học tính lĩnh hội kiến thức và tham khảo về vấn
đề quan trọng cần thiết của việc giáo dục môi trường . Giáo viên cần trang bị
cho mình và học sinh những tài liệu liên quan đến môi trường để học sinh dễ
dàng hình thành kiến thức hơn.
Tìm tranh ảnh, hình ảnh, đoạn phim về môi trường cho học sinh quan sát,
tìm hiểu để học sinh thấy được tác hại của việc ô nhiễm môi trường. Qua đó học
sinh có thể thấy được sự cần thiết phải bảo vệ môi trường, từ đó có thể tuyên
truyền cho mọi người cùng bảo vệ môi trường với mình.
Phát huy vai trò chủ động tích cực của học sinh trong tiết học. Trong quá
trình dạy học việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường cần phải làm như thế nào
để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình học,
làm cho học sinh thấy ham muốn, thích thú trong khi học, cho học sinh thấy
được việc bảo vệ môi trường là luôn cần thiết và cần làm trước hết.

PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận
Một trong những vấn đề khá nhức nhối hiện nay là môi trường sống của
chúng ta ngày càng bị ô nhiễm nặng, trong khi đó ý thức bảo vệ môi trường của
người dân trong đó có các em học sinh còn rất thấp. Giáo dục cho học sinh ý
thức bảo vệ môi trường từ những việc làm bình thường hằng ngày trong cuộc
sống để trở thành nếp nghĩ, hành vi tự nhiên như ăn ,mặc, đi,đứng chuyển từ ý
thức đạo đức thành hành vi đạo đức...trong học tập cũng như trong cuộc sống là

điều cần thiết. Như thế sau này chúng ta sẽ có những công dân có ý thức bảo vệ
môi trường tốt.
20


Được thực hành, tìm hiểu, được nêu cảm nghĩ và đánh giá về việc bảo về
môi trường sẽ khắc sâu trong học sinh ý thức bảo vệ môi trường tốt nhất.
Việc giáo dục, bảo vệ môi trường không dừng lại ở bài học, trò chơi, làm
việc nhóm, ở những hoạt động tích cực mà cần được giáo viên bộ môn giáo dục
công dân, các giáo viên khác, lãnh đạo nhà trường, địa phương cùng kết hợp
giáo dục học sinh, coi đây là việc làm cần thiết, thường xuyên trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho con người thời đại mới..
Việc dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường qua môn giáo dục công
dân là cần thiết đối với nhận thức của học sinh. Tuy nhiên cách thức tổ chức
giảng dạy và lồng ghép cần nhẹ nhàng, tránh tình trạng tích hợp một cách miễn
cưỡng sẽ làm cho nội dung bài học thêm nặng nề, học sinh sẽ nhàm chán.
3.2. Đề xuất
Để thực hiện tốt công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh
thông qua tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong môn GDCD lớp 10 tôi xin
có một vài ý kiến đề xuất như sau:
Các giáo viên bộ môn giáo dục công dân trong nhà trường nên tích cực
dạy học tích hợp bảo vệ môi trường trong dạy học môn GDCD đối với những
bài có nội dung phù hợp. Bên cạnh đó, các bộ môn khác nên tích cực tích hợp
giáo dục bảo vệ môi trường trong các bài dạy có liên quan nhằm giáo dục đồng
bộ .
Giáo dục bảo vệ môi trường là hoạt động giáo dục liên bộ môn. Bởi vậy
tôi mong ngành giáo dục cung cấp thêm nhiều tài liệu về môi trường để đưa vào
dạy tích hợp, lồng ghép.
Trang bị, cập nhật thêm những tư liệu về ô nhiễm môi trường như phim,
ảnh…

Nên tổ chức nhiều ngày chủ nhật xanh để giáo dục cho học sinh.

21


Cấp phát cho các trường học những mẫu thùng rác tiện dụng…
Cần tổ chức cho giáo viên tham gia nhiều buổi tập huấn về bảo vệ môi
trường.
Tổ chức cho học sinh tham quan thực tế những khu vực ô nhiễm môi
trường như dòng suối bị ô nhiễm, đốt rẫy, …hoặc những nơi bảo vệ môi trường
tốt.Tiếp tục nâng cao nhận thức của cán bộ giáo viên và học sinh, gắn việc giáo
dục môi trường với việc triển khai thực hiện xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực. Tập trung xây dựng nhà trường xanh – sạch – đẹp.
Đề tài được nghiên cứu từ thực tiễn giảng dạy và kinh nghiệm của bản
thân trong quá trình dạy học nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh
thông qua tích hợp, lồng ghép giáo dục môi trường vào trong bộ môn giáo dục
công dân lớp 10 ở trường THPT Bá thước , chắc chắn đề tài còn có những hạn
chế, thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để tôi
tiếp tục nghiên cứu và vận dụng việc dạy tích hợp vào giảng dạy bộ môn GDCD
ngày càng có kết quả cao hơn và tạo được sự hứng thú cho học sinh đối với
môn học này.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 04 /4 /2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người thực hiện

Bùi Thị Yến

22


PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo , Giáo dục công dân 10, NXB Giáo dục Việt Nam.
2.Giáo dục bảo vệ môi trường trong môn GDCD trung học phổ thông, NXB
Giáo dục Việt Nam.
3.Sách giáo viên GDCD 10 , NXBGD.
4.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ
năng môn GDCD THPT, NXB Giáo dục Việt Nam.
5.Bộ giáo dục và đào tạo ( 2010) .Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học, kiểm
tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ
thông môn giáo dục công dân cấp trung học phổ thông.
6.Luật bảo vệ môi trường, NXB chính trị quốc gia – năm 2005.
7.Giáo trình những vấn đề thời đại , NXBĐHSP – năm 2005.
8. Một số bài báo về môi trường.

23



×