Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sử dụng chuyện kể, thơ, tục ngữ, kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực vào dạy bài 13 công dân với cộng đồng, sách GDCD 10 nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.5 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội hiện nay, sự nghiệp Giáo dục
đào tạo có ý nghĩa vô cùng to lớn, giữ vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển
đất nước. Chính vì vậy việc phát triển Giáo dục đào tạo trong xu thế hội nhập là
một trong những thách thức đang đặt ra đối với nước ta. Làm thế nào để giáo
dục đào tạo đạt kết quả vững chắc, làm thế nào để Giáo dục đào tạo giữ vai trò
chủ đạo và làm thế nào để Giáo dục Việt Nam có thể phát triển kịp với nền giáo
dục quốc tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã xác định: “
Thực hiện đổi mới căn bản toàn diện về Giáo dục đào tạo, thực hiện đồng bộ các
giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng Giáo dục đào tạo, thực hiện đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo
hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo
dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng, đạo đức lối sống, năng
lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã
hội...” [ 1]
Một nhà hiền triết đã nói “ Mục tiêu của Giáo dục không phải là dạy cách
kiếm sống, hay cung cấp cung cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con
đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái “ chân” và thực hành cái “ thiện” [2].
Đặc thù của môn Giáo dục công dân là kiến thức khô khan, khó hiểu,
nặng về lí thuyết, học sinh coi thường môn học, không thích học...Vì vậy để gây
hứng thú học tập cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải biết tìm tòi sáng tạo,
không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt phải biết “dẫn lối tâm hồn”
để học sinh yêu thích môn học, bài học và say mê học tập. Trong quá trình dạy
học tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để gây hứng thú cho học sinh,
song trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình tôi chỉ chọn một bài tiêu biểu
của chương trình Giáo dục công dân lớp 10 để thực hiện với đề tài “ Sử dụng
chuyện kể, thơ, tục ngữ kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực vào
dạy bài 13 – Công dân với cộng đồng – sách GDCD 10 nhằm nâng cao
hứng thú học tập cho học sinh”.


1. 2. Mục đích nghiên cứu.
Cùng với các môn học khác, môn Giáo dục công dân góp phần đào tạo ra
những con người lao động mới, có tri thức khoa học, có đạo đức, có năng lực
hoạt động thực tiễn, có phẩm chất chính trị, tư tưởng, có ý thức trách nhiệm với
cộng đồng, với gia đình và với chính bản thân mình. Tuy nhiên ở trường THPT
1


môn Giáo dục công dân chưa được học sinh yêu thích và coi trọng, bởi nội dung
kiến thức khô khan, khó hiểu, nặng về lí thuyết. Vì vậy để học sinh yêu thích
môn học và bài giảng của mình, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Sử dụng chuyện
kể, thơ, tục ngữ, kết hợp với sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
dạy Bài 13 – Công dân với cộng đồng - Chương trình GDCD lớp 10 Nhằm
nâng cao hứng thú học tập cho học sinh” làm đề nghiên cứu với mục đích
phát triển năng lực tư duy tổng hợp và thực sự yêu thích đối với môn học.

1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
Với đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu và đưa vào bài dạy những câu
chuyện ý nghĩa, gần gũi với nội dung bài học, những câu thơ, tục ngưc, thành
ngữ mang ý nghĩa giáo dục cao, đồng thời kết hợp với việc sử dụng một số
phương pháp dạy học tích cực để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh.
Đối tượng để thực hiện đề tài là học sinh lớp 10 ở trường THPT Triệu Sơn 5.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phân tích và tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp trực quan, hình ảnh, câu chuyện minh họa.

2


2. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận.
- Quan điểm dạy học: Dạy học là những định hướng tổng thể cho các
hành động, phương pháp, trong đó có sự kết hợp giữa các nguyên tắc dạy học
làm nền tảng, những cơ sở lí luận dạy học, những điều kiện dạy học và tổ chức
cũng như những định hướng về vai trò của giáo viên và học sinh trong quá trình
dạy học. [3]
- Phương pháp dạy học: là những hình thức và cách thức hoạt động của
giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục
đích dạy học. Phương pháp dạy học là hình thức và cách thông qua đó bằng cách
nào đó giáo viên và học sinh lĩnh hội những hiện thực tự nhiên và xã hội xung
quanh trong những điều kiện học tập cụ thể. [ 3]
Hiện nay ngành giáo dục đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
Khoản 2, điều 28 luật giáo dục ghi “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học; Bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến
tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. [ 4]
Cùng với các môn học khác môn giáo dục công dân đang góp phần
thực hiện mục tiêu của giáo dục là đào tạo ra những con người phát triển toàn
diện về đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản.

2.2. Thực trạng vấn đề.
Qua nghiên cứu trong những năm gần đây đã có một số đề tài viết về vấn
đề nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trong giảng dạy môn GDCD như đề
tài “ Những phương pháp tạo hứng thú trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở
trường THPT Đông Sơn 1”, hay đề tài “ Sử dụng chuyện kể, thông tin cùng
những tấm gương trong thực tiễn đời sống để giảng dạy phần Công dân với đạo
đức – GDCD 10”. Tuy nhiên chưa có đề tài nào đi sâu viết vào một bài dạy cụ
thể nào.
Đi sâu tìm hiểu về thực trạng dạy học của giáo viên ở các trường THPT

còn nhiều hạn chế, đó là giáo viên chưa chú ý đến việc tìm hiểu thật kỹ nội dung
để từ đó lựa chọn phương pháp phù hợp; Giáo viên chuẩn bị lên lớp còn sơ sài;
Qua việc dự giờ của giáo viên trong nhóm bộ môn tôi nhận thấy giáo viên còn
làm theo khuôn mẫu, trình tự nhất định, còn dập khuôn theo sách giáo khoa,
không có tính sáng tạo. Vì vậy học sinh có thể biết thầy làm gì và dạy gì từ đó
3


học sinh không có hứng thú trong học tập. Những hạn chế trên đã ảnh hưởng
đến tính tích cực nhận thức của học sinh, do đó làm giảm chất lượng môn học.
Qua điều tra về mức độ hứng thú học tập của học sinh đối với môn GDCD
ở khối 10 – Trường THPT Triệu Sơn 5.

Lớp

Số học
sinh

10 B1
10 B2
10 B3
10 B4

39
44
40
37

Tổng


160

HS yêu thích
Vì GV giảng
vì môn học
bài hấp dẫn
bổ ích

10
12
12
15

15
16
13
12

49 = 30,4 % 56 = 34,7%

Vì kiến
thức khó
học khó
hiểu

Vì thầy
giảng bài
không hấp
dẫn


Lý do
khác

10
10
9
5

4
4
5
5

0
2
1
0

34 = 21 %

18= 12 %

3 =1,9 %

Như vậy qua kết quả điều tra, ta nhận thấy có 30,4% học sinh cảm thấy
thích môn học; 34,7% học sinh thích vì giáo viên giảng bài; 21 % học sinh thấy
kiến thức khó hiểu; 12 % học sinh cho rằng giáo viên giảng bài không hấp
dẫn...Nhiều học sinh chưa nhận thức đúng về vị trí vai trò tầm quan trọng của
môn GDCD, học sinh không hứng thú với môn học, thậm chí có học sinh còn
chán, không chịu học.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên đó là do học sinh không
thích học môn GDCD công dân vì kiến thức khô khan, khó hiểu và do giáo viên
giảng bài không hấp dẫn.
Vì vậy để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trong quá trình giảng
dạy tôi đã không ngừng đổi mới phương pháp dạy học tìm tòi trăn trở và suy
nghĩ để tìm ra giải pháp nâng cao hứng thú học tập cho học sinh . Bằng những
câu chuyện sưu tầm trong sách, báo, lịch sử, vận dụng những vần thơ, những câu
tục ngữ, ca dao vào bài học để tiết học trở nên sinh động, hấp dẫn và giúp học
sinh tiếp thu bài nhẹ nhàng hơn, dễ nhớ hơn.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
2.3.1. Sử dụng chuyện kể vào dạy bài 13 - Công dân với cộng đồng - chương
trình GDCD 10.
2.3.1.1. Một số yêu cầu chuẩn bị .
* Đối với giáo viên:
Bước 1: Chuẩn bị
Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy.
Giáo viên chuẩn bị sẵn sàng những câu chuyện mà mình sẽ kể
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi cho học sinh
Giành thời gian phù hợp cho các em chuẩn bị
Nghiên cứu phương pháp phù hợp để kết hợp với câu chuyện nhằm đem lại
hiệu quả cao.
4


Bước 2: Giáo viên kể chuyện minh họa cho học sinh nghe
Giáo viên có thể đọc một câu chuyện trong sách, báo đã chuẩn bị hoặc tự kể
bằng ngôn ngữ của mình.
Bước 3: Kết luận.
Qua những câu chuyện đã kể, giáo viên cùng với học sinh nhận xét, chốt
lại vấn đề đó chính là nội dung bài học mà giáo viên cần truyền tải đến học sinh.

* Đối với học sinh:
Nghiên cứu trước nội dung sách giáo khoa
Rút ra nội dung bài học sau khi nghe nội dung chuyện kể
Vận dụng và liên hệ với thực tiễn xung quanh.

2.3.1.2. Sử dụng chuyện kể kết hợp với phương pháp nêu vấn đề.
Đối với một tiết học yếu tố để tạo nên sự lôi cuốn và hấp dẫn đối với học
sinh, có những giáo viên bắt đầu bằng một vài thông tin thời sự ngày hôm qua,
những tin tức nổi bật trên báo, hay tình thế giới hiện nay thế nào, hoặc giáo viên
có thể kể một câu chuyện có liên quan đến nội dung bài học. Với tôi để tạo hứng
thú học tập cho học sinh, lôi cuốn các em vào tiết học của mình tôi đã kể cho các
em nghe một câu chuyện về người sói ở Ấn Độ: “ Số phận của những trẻ em
bị tách khỏi xã hội loài người”
Ở Ấn Độ có 2 em bé tên là A - ma - la và Ca - ma - la cùng sinh ra trong
một gia đình. Khi lên 8 tháng tuổi hai em bị lạc cha, mẹ sống trong rừng, các
em lớn lên nhờ bú sữa của sói mẹ và sống cùng với bầy sói. Năm 1958 nhà
truyền đạo Xing đã phát hiện ra trong đàn sói có hai em bé. Chẳng bao lâu sau
A- ma - la chết, còn Ca - ma - la sống với người mẹ nuôi Xing thêm 9 năm. Bà
đã cố dạy cô bé những thói quen của con người, lúc đầu Ca – ma – la chỉ có
thể bò bốn chân, ban đêm đi lang thang và hú lên như chó sói. Sau 2 năm cô bé
mới bắt đầu phát âm được được vài tiếng rời rạc và sau 6 năm mới học được
30 từ. Dần dần người ta dạy cho cô bé uống nước bằng cốc.
Trong 9 năm lao động kiên trì người ta không thể dạy thêm gì cho cô bé.
Từ năm 1966 sức khỏe của người sói đột ngột giảm sút. Các nhà khoa học đã
xác định người
sói chết năm 27 tuổi không hề biết nói và biết đi bằng 2 chân. [5]
Từ câu chuyện trên giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề. Các
em sẽ thắc mắc và đặt ra nhiều câu hỏi. Tại sao người sói Ca – ma – la, lại
không biết nói tiếng người như những người bình thường khác? Tại sao khi tách
rời khỏi gia đình, cộng đồng người sói lại không ăn uống đi đứng và sinh hoạt

như con người ? Cộng đồng là gì? Cồng đồng có vai trò như thế nào đối với
cuộc sống con người. Học sinh sẽ tích cực tranh luận và đưa ra nhiều ý kiến
khác nhau, tạo không khí học tập tích cực và hứng thú đối với học sinh.
Từ đó GV dẫn dắt vào bài học: Mỗi con người đều sinh ra và lớn lên từ gia
đình, làng xóm, được giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ, tiếng nói và các mối
quan hệ xã hội. Vì thế con người không ai có thể sống thiếu cộng đồng

2.3.1.3. Sử dụng chuyện kể kết hợp với phương pháp thảo luận
nhóm.
5


Không chỉ sử dụng chuyện kể vào phần giới thiệu mới tạo được hứng thú
học tập cho học sinh, giáo viên có thể kể câu chuyện để minh chứng cho nội
dung bài học, hoặc ý nghĩa của bài học. Ở nội dung kiến thức 2. Trách nhiệm
của công dân với cộng đồng, để học sinh hiểu được thế nào là nhân nghĩa, biểu
hiện của truyền thống nhân nghĩa, giáo viên có thể kể câu chuyện nói về tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện tấm lòng của người lãnh tụ đối với nhân
dân, những người nghèo khổ, hoặc những câu chuyện trong lịch sử thể hiện tinh
thần nhân nghĩa của ông cha ta.
Câu chuyện thứ 1 : “Có thể cho người nghèo những thứ ấy”
Khoảng năm 1914, Bác Hồ lúc bấy giờ tên gọi là Nguyễn Tất Thành đã đến
Luân Đôn - Thủ đô của nước Anh. ở đây có thời gian Bác phải làm phụ bếp cho
khách sạn Các tơn. Ở khách sạn Cáctơn, hàng ngày Người phải phục vụ dưới
bếp. Những người phục vụ sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát
đĩa... và đổ tất cả các thức ăn thừa vào cái thùng to rồi sau đó đem đổ đi. Có
khi những thức ăn thừa là một phần tư con gà, hay cả đĩa bánh mỳ và những
miếng bít tết to tướng...
Đến lượt anh Thành làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh
đem để riêng và đậy lại cẩn thận sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà

bếp. Thấy vậy ông đầu bếp Etscôtsphie hỏi lại anh. Tại sao anh không đem
những thức ăn này đổ vào thùng rác như những người khác ?Anh Thành điềm
tĩnh trả lời : Không nên đem vứt những thứ này đi. Ông có thể cho người nghèo
những thứ ấy.
Câu nói của anh Thành làm cho ông đầu bếp rất ngạc nhiên, vì ông thấy
từ trước tới nay chưa chưa có ai ở khách sạn này nghĩ và nói như anh Thành.
Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh biểu hiện một sự quý mến và khâm phục
trước tấm lòng yêu thương của anh đối với những người nghèo” [ 6]
Câu chuyện thứ 2 : Trong lịch sử của dân tộc Việt Nam khi giải quyết
những vấn đề liên quan đến chính trị cha ông chúng ta luôn lấy nhân nghĩa làm
gốc, với tinh thần Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay
cường bạo. Khi đất nước ta lâm nguy cả dân tộc đứng lên diệt giặc bảo vệ đất
nước, nhưng khi kẻ thù quy hàng thì hành xử khoan dung : Trong trận chiến
thắng lịch sử của quân ta ở Tây Kết( khoái Châu – Hải Hưng) tướng giặc là
Toa Đô bị trúng tên chết và Ô Mã Nhi phải chốn chui xuống thuyền vượt biển
chạy về Trung Quốc. Khi các tướng thắng trận đưa đầu Toa Đô về nộp. Nhân
Tông thấy người dũng kiện mà lại hết lòng với Chúa, nên xúc động mới than
rằng : “ Làm bầy tôi nên như người này ”, rồi cởi áo ngự bào đắp vào đầu Toa
Đô, sai quân dùng lễ mai táng cho tử tế. Khi bóng quân Mông cổ không còn
trên đất Nam triều đình bắt được một tráp chưá các biếu hàng của một số quan.
Số là khi quân giặc đang cường thịnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy má đi
lại với chúng. Đình thần muốn lục tráp ra để trị tội, nhưng Nhân Tông và Thánh
TôngThượng Hoàng nghĩ xa đến sự hòa giải dân tộc nên sai đốt tráp đi cho yên
lòng mọi người, cùng nhau xây dựng lại Cố đô.[ 7]
6


Hay quan điểm của Lê Lợi và Nguyễn Trãi sau khi đánh giặc Minh :
“ Người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn
giận một lúc, mà lại chịu tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng cho muôn

vạn con người sống mà khỏi được các mối tranh chiến về đời sau,lại để tiếng
thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh.... Trong chiến thắng quân Minh Lê Lợi
đã trao trả số người về nước là 84.640 tù binh và cấp cho 1.200 con ngựa...
” [7]
Sau khi kể những câu chuyện trên gíao viên đưa ra hệ thống câu hỏi cho học
sinh thảo luận.
Nhóm 1 : Em có nhận xét gì về tấm lòng nhân nghĩa của Bác Hồ,Trần Nhân
Tông và Lê Lợi ?
Nhóm 2 : Em hiểu thế nào là nhân nghĩa ?
Nhóm 3 : Nêu những biểu hiện của truyền thống nhân nghĩa.
Nhóm 4 : Hãy kể 1 vài câu chuyện, tấm gương thể hiện tinh thần nhân nghĩa
hiện nay mà em biết.
Thời gian thảo luận 5 phút, các nhóm cử đại diện trả lời.
Giáo viên lắng nghe câu trả lời của học sinh, nhận xét và kết luận.
Nhân là lòng thương người
Nghĩa là điều được coi là hợp lẽ phải
Nhân nghĩa là lòng thương người và đối sử với người theo lẽ phải. ở các câu
truyện trên nhân nghĩa thể hiện ở tấm lòng thương người của Bác Hồ đối với
người nghèo, là sự đối xử khoan hồng của vua Trần Nhân Tông, của Lê Lợi đối
với tù binh, với kẻ thù của mình....
Nhân nghĩa giúp cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn, có ý nghĩa
hơn, giúp con người ta thêm yêu cuộc sống và có thêm sức mạnh để vượt qua
mọi khó khăn.
Biểu hiện của truyền thống nhân nghĩa.
Nhân nghĩa thể hiện ở lòng nhân ái, sự thương yêu giúp đỡ lấn nhau trong
khó khăn hoạn nạn, không đắn đo, tính toán
Nhân nghĩa thể hiện ở sự tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động và cuộc
sống.
Nhân nghĩa thể hiện sâu sắc ở lòng vị tha cao thượng, sự đối xử khoan hồng
đối với người có lỗi lầm biết hối cải.

Các thế hệ sau luôn ghi lòng tạc dạ, công lao cống hiến của các thế hệ đi
trước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với việc sử dụng các câu chuyện kể kết hợp với phương pháp dạy học tích
cực tôi nhận thấy học sinh rất chăm chú lắng nghe, tích cực thảo luận và đưa ra
ý kiến tranh luận, khiến cho giờ học trở nên sôi nổi, tăng thêm phần hứng thú
cho học sinh.
2.3.1.4. Sử dụng chuyện kể kết hợp với phương pháp đàm thoại, vấn đáp.
Bác Hồ vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Bác Hồ là những bài học đạo đức quý giá, là sản phẩm tinh thần
vô giá để lại cho Đảng, cho nhân dân và học sinh. Vì vậy khi dạy đơn vị kiến
7


thức b) Hòa nhập, giáo viên có thể kể câu chuyện về đời hoạt động cách mạng
của Bác Hồ. Bác đã từng bôn ba ở nhiều nơi, đến rất nhiều nước trên thế giới
nhưng ở đâu Bác đều được nhân dân địa phương từ người già đến trẻ em, yêu
mến, gần gũi, tin cậy như một người thân trong gia đình họ, Giáo viên kể câu
chuyện “Bác Hồ với nông dân”.
Lần Bác về Hải Hưng tham gia chống hạn với nông dân, nghe tin Bác về
các đồng chí cán bộ Tỉnh tổ chức đón tiếp Bác long trọng Bác không hài lòng,
Bác phê bình ngay: “ Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón
tiếp. Bác ăn mặc quần áo như một lão nông thực sự, Người đi rất nhanh đến
chỗ nhân dân đang đào mương, Bác vội xắn quần xắn tay áo xuống cùng đào
đất với bà con, để lai phía sau các quan cách mạng. Cuối cùng tất cả cùng ào
xuống đào đất với bà con theo gương Bác Hồ. Bác không nói không hô hào
nhưng người đã làm cuộc cách mạng cho các quan trước muôn dân. Bác ăn
cơm chung với mọi người tại nơi đào mương. Bữa ăn có Bác thêm vui hẳn lên.
Bác hỏi chuyện các chú có biết nấu ăn không, mỗi người kể theo cách hiểu của
mình, Bác nói nghề nấu ăn ai biết nấu kể là biết ngay...” [8]
Hoặc kể câu chuyện “ Một cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ”

Truyện kể rằng vào đầu mùa xuân năm 1963 trên đường về Hà Nội thấy
ngọn đồi có nhiều cây cối sum xuê Bác cho nghỉ lại ăn cơm, vừa ăn xong nghỉ
một lát thì nghe có tiếng lội bì bõm và tiếng người nói rì rầm, mấy đồng chí đi
cùng Bác chạy ra thì thấy hàng chục cháu thiếu nhi trai có, gái có đang xách rổ
đi hái rau. Bác nói các đồng chí đi mời các cháu lại đây chơi với Bác nhưng
nhớ đừng làm các cháu sợ. Các cháu sung sướng chạy ùa đến và quây thành
vòng tròn quanh Bác, cháu nào cũng hớn hở vui mừng. Bác trìu mến nhìn khắp
lượt và hỏi.
- Các cháu làm gì mà đông thế?
Một bé trai đang lém lỉnh lễ phép đáp
- Thưa Bác chúng cháu muốn ra xem Bác ạ!
Bác cười rất vui vẻ và nói tiếp
- Muốn xem à, Bác ngồi đây cháu nào muốn xem thì xem cho kỹ.
Cả Bác, cháu và các chú cùng đi cười vui vẻ, rồi Bác hỏi chuyện các cháu
học hành, có ngoan không và Bác cùng múa hát với các cháu thiếu nhi...[8]
Sau khi kể chuyện xong Giáo viên hỏi: Em có nhận xét gì về phong cách
sống và ứng xử của Bác Hồ với nông dân và các cháu thiếu nhi?
Phong cách sống ấy có tác dụng như thế nào đối với người khác?
Em học được điều gì về phong cách sống của Bác Hồ.
Giáo viên gọi học sinh trả lời và kết luận: phong cách sống gần gũi chan
hòa vui vẻ đối với nông dân và thiếu nhi của Bác Hồ đó chính là sống hòa nhập,
nó có tác dụng tạo không khí vui vẻ chan hòa và thân thiện đối với những người
xung quanh, xóa đi khoảng cách giữa lãnh tụ với nông dân, giữa Bác với các
cháu thiếu nhi, giáo viên dẫn dắt vào khái niệm sống hòa nhập.
* Khái niệm
Sống hòa nhập là sống gần gũi chan hòa, không xa lánh mọi người: không
8


gây mâu thuẫn bất hòa với người khác; có ý thức tham gia các hoạt động chung

của cộng đồng.
* Để sống hòa nhập, thanh niên, học sinh cần phải:
- Tôn trọng, đoàn kết, quan tâm, gần gũi, cởi mở chan hòa với thầy cô giáo,
bạn bè và mọi người xung quanh; không xa lánh, bè phái, gây mâu thuẫn mất
đoàn kết với người khác
- Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội do nhà trường,
địa phương tổ chức; đồng thời vận động bạn bè và mọi người cùng tham gia
Với việc sử dụng chuyện kể kết hợp phương pháp đàm thoại giáo viên dẫn
dắt học sinh hiểu được thế nào hòa nhập tác dụng của việc sống hòa nhập đặc
biệt giúp các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và trực tiếp tham gia vào
các hoạt động tập thể phát triển năng lực tư duy và kỹ năng sống của mình.

2.3.1.5. Sử dụng chuyện kể kết hợp với phương pháp đóng vai.
Nếu như giáo viên sử dụng truyện kể vào bài dạy các em sẽ chăm chú lắng
nghe và lĩnh hội, nhưng nếu để các em được trực tiếp tham gia và hóa thân vào
nhân vật, có lẽ sẽ thú vị hơn nhiều. Vì vậy để lôi cuốn học sinh vào bài học giáo
viên có thể cho học sinh đóng vai một câu chuyện ngắn thời gian khoảng 5 phút,
chẳng hạn khi dạy đơn vị kiến thức C) Hợp tác - Để học sinh nắm được vấn đề
hợp tác, GV có thể cho học sinh đóng vai “Câu chuyện bó đũa”: ( 3 học sinh,
1 em đóng vai người cha và 2 em đóng vai con)
“Một hôm người cha gọi hai con trai đến, đưa cho mỗi con một chiếc đũa
và bảo các con bẻ . Cả hai người con đều bẻ dễ dàng, người cha lại đưa cho hai
con 2 chiếc đũa nữa, họ vẫn bẻ được, nhưng đưa cho mỗi người con 3 chiếc đũa
thì khó bẻ. Đến khi người cha đưa cho con cả bó đũa thì cả hai đều không bẻ
nổi. Người cha nhìn các con và nói” Một chiếc đũa, hai chiếc đũa thì bẻ được,
nhưng nhiều chiếc đũa gộp lại thì không bẻ được, như vậy đoàn kết hợp tác tạo
nên sức mạnh” [ 5].
Sau khi đóng vai xong câu chuyện GV nhận xét và nêu câu hỏi : Câu
chuyện trên để lại cho ta ý nghĩa gì? Thế nào là hợp tác? Hãy nêu 1 vài ví dụ về
tinh thần hợp tác của học sinh?

Gv gọi sinh trả lời và kết luận: Đoàn kết hợp tác sẽ tạo nên sức mạnh để
vượt qua được mọi khó khăn, là nhân tố tạo nên thắng lợi cũng như hiệu quả
công việc.
* Khái niệm hợp tác
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một
công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
* Biểu hiện
Hợp tác là cùng bàn bạc với nhau trong công việc, phối hợp nhịp nhàng với
nhau, biết nhiệm vụ của nhau và sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần thiết.
* Nguyên tắc
Hợp tác phải trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi, không
làm phương hại đến lợi ích của những người khác
* Thanh niên học sinh cần phải rèn luyện tinh thần hợp tác với bạn bè và
9


mọi người trong các hoạt động học tập, lao động hoạt động tập thể, xã hội. Cụ thể:
Biết cùng nhau bàn bạc, xây dựng kế hoạch hoạt động và phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên.
Nghiêm túc thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ được phân công
Biết phối hợp nhịp nhàng với nhau trong công việc, sẵn sàng hỗ trợ giúp
đỡ nhau trong quá trình hoạt động.
Biết cùng các thành viên trong nhóm, đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi
hoạt động để có thể cùng nhau hợp tác tốt hơn trong các hoạt động tiếp theo.
Với việc sử dụng chuyện kể kết hợp với phương pháp đóng vai học sinh đã
được trực tiếp tham gia vào tiểu phẩm, hóa thân vào nhân vật. Vì vậy tiết học sẽ
trở nên sôi nổi hơn hứng thú hơn và các em sẽ tiếp thu bài tốt hơn.

2.3.2. Sử dụng thơ, tục ngữ, vào dạy bài 13 Công dân với cộng đồng.
2.3.2. 1. Một số yêu cầu

Đối với giáo viên.
Bước 1 : Chuẩn bị
GV phải nghiên cứu kĩ nội dung bài học
GV chuẩn bị sẵn thơ hoặc tục ngữ, thành ngữ phù hợp với nội dung bài học
Bước 2: GV đọc cho học sinh nghe
Bước 3: Kết luận qua việc sử dụng thơ, tục ngữ, thành ngữ vào bài học, GV
cùng với học sinh nhận xét, hiểu được ý nghĩa của việc vận dụng, khái quát
được các nội dung của bài học.
Đối với học sinh:
Nghiên cứu trước nội dung sách giáo khoa
Rút ra nhận xét và kết luận sau khi giáo viên đưa ra thơ, tục ngữ...
Biết vận dụng kiến thức liên hệ bản thân và đời sống xã hội.

2.3.2.2. Sử dụng thơ kết hợp với phương pháp thảo luận nhóm.
Không chỉ sử dụng chuyện kể mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh,
giáo viên có thể sử dụng những vần thơ, đặc biệt là những vần thơ có ý nghĩa
giáo dục đạo đức. Từ nhỏ các em đã được nuôi dưỡng tâm hồn bằng những lời
ru những câu hát của Mẹ, của Bà, lớn lên đến trường lại biết thêm nhiều điều bổ
ích qua các môn học. Để giảm bớt sự khô khan và khó hiểu của môn GDCD,
giáo viên có thể đọc những vần thơ có liên quan đến nội dung bài học. Chẳng
hạn khi dạy nội dung 1. Cộng đồng và vai trò của cộng đồng đối với cuộc sống
con người, để học sinh hiểu khái niệm và vai trò của cồng đồng giáo viên đọc
cho học sinh nghe đoạn thơ trong bài thơ “ Tiếng ru” của nhà thơ Tố Hữu.
“Con ong làm mật yêu hoa
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời
Con người muốn sống con ơi
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em
Một ngôi sao chẳng sáng đêm
Một thân lúa chín chẳng nên mùa màng
Một người đâu phải nhân gian

Sống trong một đốm lửa tàn mà thôi” [ 9]
10


Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm thảo luận.
Nhóm 1: Theo em bài thơ trên muốn răn dạy chúng ta điều gì? Cộng đồng
có vai trò như thế nào đối với cuộc sống con người?
Nhóm 2: Theo em điều gì sẽ xảy ra nếu con người phải sống tách biệt khỏi
cộng đồng?
Nhóm 3: Theo em lợi ích của cá nhân và của cộng đồng có khi nào mâu
thuẫn với nhau không? Nếu có cần giải quyết như thế nào?
Thời gian thảo luận 5 phút, giáo viên gọi học sinh trả lời, ghi tóm tắt ý kiến
lên bảng, nhận xét và kết luận.
Khái niệm Cộng đồng là toàn thể những người cùng sống, có những điểm
giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội
Vai trò của cộng đồng đối với cuộc sống con người
Cộng đồng là hình thức thể hiện mối liên hệ và quan hệ xã hội, là môi
trường để cá nhân thực hiện sự hợp tác.
Mỗi người sống trong cộng đồng phải thực hiện những nhiệm vụ mà cộng
đồng giao phó, tuân thủ những quy định, những nguyên tắc của cộng đồng
Cộng đồng chăm lo cuộc sống của cá nhân - đảm bảo cho mọi người có
điều kiện để phát triển.
Cộng đồng giải quyết hợp lí mối quan hệ lợi ích riêng và chung
Với việc sử dụng đoạn thơ trong bài thơ “Tiếng ru”, với giọng điệu ngọt
ngào, hình ảnh sinh động cách thức ví von giáo viên sẽ lôi cuốn được học sinh
vào bài giảng của mình cùng sự kết hợp với phương pháp thảo luận nhóm làm
cho nội dung tiết học trở nên sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn học sinh, với việc
lồng ghép bài thơ “Tiếng ru” ý nghĩa nội dung bài học trở nên sâu sắc hơn, học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ hơn, nâng cao hứng thú học tập cho học sinh.


2.3.2.3 . Sử dụng thơ kết hợp với phương pháp đàm thoại.
Trong các thể loại của văn học có lẽ thơ là thể loại truyền cảm và đi vào
lòng người nhất , thơ cũng có giá trị giáo dục rất cao đặc biệt là các vần thơ của
Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy để thay đổi không khí cho lớp học và tăng hứng
thú học tập cho học sinh. Ở mục C) Hợp tác GV có thể đọc cho học sinh nghe
bài thơ: “Hòn Đá” của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Hòn đá to, hòn đá nặng
Một người nhấc, nhấc không đặng
Hòn đá nặng, hòn đá bền
Chỉ ít người, nhấc không lên
Hòn đá to, hòn đá nặng
Nhiều người nhấc, nhấc lên đặng...
Biết đồng sức, biết đồng lòng
Việc gì khó làm cũng xong..” [ 10]
Sau khi đọc xong bài thơ Hòn đá giáo niên có thể hỏi học sinh: Theo em
qua bài thơ trên Bác Hồ muốn nhắn nhủ chúng ta điều gì?
Đó là trong công việc và cuộc sống phải biết đồng sức, đồng lòng, đoàn
kết, cùng chung sức chung lòng sẽ vượt qua mọi khó khăn và giành được thắng
11


lợi to lớn, đây cũng chính là tinh thần hợp tác.
Giáo viên đặt câu hỏi tiếp: Em hãy lấy một vài ví dụ thể hiện tinh thần hợp
tác trong học tập và trong cuộc sống .
Học sinh có thể vận dụng kiến thức vào thực tế lấy ví dụ và đặc biệt biết
thực hiện hợp tác trong học tập, trong cuộc sống để thu được kết quả cao, giải
quyết được các khó khăn trong học tập và lao động.

2.3.2.4. Sử dụng tục ngữ, kết hợp với phương pháp đàm thoại vào dạy
bài 13 - Công dân với cộng đồng.

Không chỉ sử dụng chuyện kể, thơ mới tạo hứng thú học tập cho học sinh
mà đối với môn Giáo dục công dân khi dạy học giáo viên còn có thể sử dụng
kho tàng văn học dân gian của dân tộc vào bài học chẳng hạn khi dạy mục a)
Nhân nghĩa (phần 2 – Trách nhiệm của công dân với cộng đồng)
Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe một số câu tục ngữ tục ngữ sau.
“ Thương người như thể thương thân
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”
“Lá lành đùm lá rách” [11]
GV hỏi những câu tục ngữ trên thể hiện điều gì?
HS trả lời, GV nhận xét kết luận: Các câu tục ngữ trên thể hiện tinh thần
nhân nghĩa, sự yêu thương chia sẻ giữa con người với nhau trong khó khăn hoạn
nạn cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó giáo viên dẫn dắt vào nội dung
của bài học – khái niệm nhân nghĩa: Nhân là lòng thương người
Nghĩa là điều được coi là hợp lẽ phải
Nhân nghĩa là lòng thương người và đối sử với người theo lẽ phải.
Hay khi dạy về mục C) Hợp tác Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe
câu tục ngữ
“ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” [ 11]
Giáo viên hỏi học sinh câu tục ngữ trên nói lên điều gì?
Gv gọi học sinh trả lời, nhận xét và dẫn dắt câu tục ngữ này nói lên tinh
thần hợp tác, một người sẽ chẳng làm nên được điều gì lớn lao, nhưng biết đoàn
kết, hợp tác, chung sức, chung lòng thì có thể làm nên việc lớn.
Với việc sử dụng tục ngữ, thành ngữ vào dạy bài 13 – Công dân với cộng
đồng tôi thấy đem lại giá trị rất lớn, đó là những bài học về đạo đức mà ông cha
để lại để răn dạy con cháu, là những kinh nghiệm sống được đúc kết từ trong lao
động, trong cuộc sống – đây sẽ là những tư liệu, những hành trang cho học sinh
học hỏi trên con đường tiếp nhận tri thức. Học sinh tiếp thu bài giảng cũng rất
nhẹ nhàng rất hứng thú, tiết học trở nên sôi nổi và hấp dẫn.


2.4. Hiệu quả sáng kiến đối với hoạt động giáo dục.
2.4.1. Đối với học sinh
Trong quá trình dạy học khi áp dụng sáng kiến : Sử dụng chuyện kể, thơ,
tục ngữ, thành ngữ, kết hợp với phương pháp dạy học tích cực vào dạy bài 13 –
công dân với cộng đồng tôi thấy.
12


Tạo sự hấp dẫn cho giờ học, học sinh sẽ cảm thấy thích thú vì chính nội
dung và các kiến thức mà giáo viên đưa ra.
Phát huy tính tích cực của học sinh vì nhận thức của các em học sinh lớp
10 đã được trang bị hệ thống kiến thức của các môn học khác, từ đây trong quá
trình nhận thức các em sẽ liên hệ với các môn học khác để tìm hiểu nội dung
môn Giáo dục công dân.
Bằng việc sử dụng các câu chuyện kể, các vần thơ, các câu tục ngữ, thành
ngữ cùng với các phương pháp dạy học tích cực, một cách có chủ đích cộng với
lượng kiến thức phong phú, hình ảnh thực tế sinh động, kỹ năng tổ chức điều
khiển của giáo viên đã phát huy tính tích cực, kích thích tư duy, nâng cao trí
tưởng tượng của học sinh. Các câu hỏi, các tình huống mà giáo viên đưa ra cũng
là phương pháp góp phần hình thành các kỹ năng tư duy, sáng tạo cho học sinh
trên con đường khám phá tri thức.
Tôi đã tiến hành thử nghiệm ở 2 lớp lớp 10 B4 dạy theo hướng sử dụng
chuyện kể thơ, tục ngữ kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực. Lớp 10
B3 dạy học theo phương pháp truyền thống giáo viên chỉ truyền tải nội dung
trong sách giáo khoa, không đầu tư . Kết quả thu được thật thú vị.
Lớp

Thực
10 B4

nghiệm
Đối chứng 10 B3

Số học
sinh

Mức độ
hứng thú

Bình
thường

Không
hứng thú

37

35 ( đạt 94 %)

2 ( 6%)

0

40

15(đạt 37,5%)

10 ( 25%)

15 (37,5%)


Như vậy theo kết quả bảng trên ta nhận thấy đối với lớp sử dụng chuyện
kể, thơ, tục ngữ, kết hợp với việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
dạy, mức độ hứng thú của học sinh đối với bài học đạt 94 %, số học sinh không
hứng thú là không. Còn đối với lớp giáo viên không áp dụng, không có sự đầu tư
mà chỉ dạy lần lượt theo nội dung sách giáo khoa mức độ hứng thú của học sinh
đối với bài học là 37,5 %, số học sinh không hứng thú cũng chiếm 37,5 %.
Trong năm học 2016 - 2017 tôi được phân công dạy 4 lớp 10 ở trường
THPT Triệu Sơn 5, kết quả cuối năm có 13/ 15 em tham gia thi học sinh giỏi cấp
trường và đạt giải.
Kết quả tổng kết năm học ở các lớp tôi dạy rất khả quan.
Lớp

Số
HS

10 B1 39
10 B2 44
10 B3 40
10 B4 37
Tổng 160

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu


Số
Số
Số
Số
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
lượng
lượng
lượng
lượng
15
38%
19
49,5%
4
10%
1
2,5%
3
6,8 %
20
46,4%
18
40%
3
6,8 %
8
20%

20
50%
12
30%
0
0
16
43%
16
43%
5
14%
0
0
42
26% 77
47,1% 39
24,4% 4
2,5 %
13


2.4.2. Đối với giáo viên.
Ngoài thăm dò ý kiến học sinh, tôi còn tham khảo sự góp ý của đồng
nghiệp thông qua dự giờ, nhận xét, đánh giá giờ dạy của đồng nghiệp. Tất cả các
giáo viên dự giờ đều đánh giá cao việc sử dụng chuyện kể, thơ, tục ngữ ca dao,
kết hợp với phương pháp dạy học tích cực vào dạy học, giờ học trở nên sôi nổi,
nhẹ nhàng và đem lại hiệu quả cao. Với việc làm này góp phần đổi mới phương
pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát huy năng lực người
học.

Kết quả đó là niềm khích lệ bản thân tiếp tục cố gắng, nỗ lực hơn nữa
trong giảng dạy, xây dựng tình yêu, niềm say mê đối với môn GDCD.
Kết quả khảo sát này là một kênh thông tin quan trọng để giáo viên rút
kinh nghiệm trong việc vận dụng kiến thức, sử dụng phương pháp dạy học tích
cực vào bài dạy tạo khí thế sôi nổi, hào hứng cho người học.
Với đề tài này tôi hi vọng mình sẽ góp một chút tư liệu nhỏ bé cho đồng
nghiệp trong quá trình giảng dạy.

2.5. Khả năng ứng dụng và triển khai sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến “Sử dụng chuyện kể, thơ, tục ngữ, kết hợp với các phương pháp
dạy học tích cực vào dạy bài 13 – Công dân với cộng đồng – sách GDCD lớp
10” có thể ứng dụng và triển khai sâu rộng và có hiệu quả hơn khi áp dụng đối
với nhiều bài học GDCD cấp THPT.
Thực tế những kinh nghiệm trên đã được bản thân GV sử dụng và đem lại
hiệu quả giáo dục cao, đó là sự thực hiện quan điểm của Bộ giáo dục về dạy học
tích cực.

14


3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đặt ra câu hỏi và trả lời cho ta thấy được
tác dụng của sự đổi mới trong trường học đối với cả giáo viên và học sinh. Bác
nói: “ Trong một trường học, các Thầy nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ
hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực. Các trò nên đua nhau học, biết tiết kiệm
giấy bút, biết giữ kỉ luật.” [ 12]
Câu nói của Bác rất giản dị, nhưng lại hàm chứa ý nghĩa sâu xa, đó chính
là phương pháp giảng dạy của Giáo viên và sự tiếp thu bài một cách tích cực của
học sinh. Qua việc sử dụng chuyện kể, thơ, tục ngữ, thành ngữ vào bài học giáo

dục công dân với những gì đã đạt được trong quá trình dạy học đã chứng minh
cho cách thức làm mới đó có hiệu quả không chỉ là kết quả về điểm số mà cả về
tinh thần, thái độ học tập của học sinh.
Trải qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy, sử dụng chuyện kể, thơ,
tục ngữ, vào dạy bài 13 – công dân với cộng đồng, chương trình giáo dục công
dân lớp 10. Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm sau.
Thứ nhất: Muốn giờ dạy giáo dục công dân đạt hiệu quả cao, có sức
thuyết phục, lôi cuốn học sinh giáo viên phải biết kết hợp nhiều phương pháp
dạy học, đặc biệt có sự liên hệ thực tế phong phú, biết đưa những câu chuyện,
văn thơ... phù hợp vào nội dung bài học.
Thứ hai: Giáo viên phải biết tìm tòi suy nghĩ, biết lựa chọn từng câu
chuyện phù hợp với nội dung kiến thức, phù hợp với đối tượng học sinh.
Thứ ba: Khi sử dụng chuyện kể, văn thơ, tục ngữ giáo viên phải biết kết hợp với
từng phương pháp phù hợp để đem lại hiệu quả cao nhất và ý nghĩa lớn nhất.
Thứ tư: Khi sử dụng chuyện kể, thơ, tục ngữ vào bài học, giáo viên đưa ra
hệ thống câu hỏi phù hợp để học sinh có thể tự tìm tòi, khám phá tri thức và từ
đó hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh, giáo viên phải nhận xét, kết luận,
dẫn dắt vào nội dung bài học.
Thứ năm: Trong phạm vi bài học giáo viên phải biết chắt lọc những câu
chuyện điển hình, những bài thơ, câu tục ngữ, thành ngữ có giá trị không nên
lạm dụng đưa vào quá nhiều, sẽ chiếm hết thời gian của nội dung chính bài
học.....
Đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi được đúc rút trong quá trình giảng
dạy ở trường THPT Triệu Sơn 5, có thể còn nhiều khiếm khuyết kính mong các
thầy cô đóng góp ý kiến để tôi sửa chữa và hoàn thiện hơn nữa những suy nghĩ
của mình và đem đến những điều mà giáo dục mong đợi đó là truyền bá văn
minh nhân loại.

15



3.2. Kiến nghị:
Để việc dạy học môn học ngày càng tốt hơn, góp phần khẳng định vị trí
của môn học trong nhà trường, tôi có một số kiến nghị đề xuất sau:
Đối với các cấp quản lý giáo dục: Cần quan tâm, chỉ đạo sát sao việc
thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, kịp thời khen thưởng, động
viên những GV đã có sáng tạo và thu được kết quả cao trong giảng dạy.
Đối với Sở GD & ĐT: Cần phối hợp các trường THPT tổ chức thường
xuyên các đợt tập huấn để nâng cao chất lượng bộ môn, tạo điều kiện cho các
GV trong tỉnh trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Đối với giáo viên bộ môn GDCD: Thường xuyên học hỏi, tích cực đổi
mới phương pháp dạy học, tích cực dự giờ thăm lớp, trau dồi chuyên môn, sử
dụng hợp lý có hiệu quả đồ dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin hợp lý
và hiệu quả, phát huy năng lực tư duy của học sinh, góp phần chung thực hiện
nhiệm vụ giáo dục của nghành.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Triệu Sơn, ngày 25 tháng 5 năm 2017
CAM KẾT KHÔNG COPY, SAO CHÉP

Lê Thị Tám

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lầ thứ XII
[ 2] Sách những câu nói hay về giáo dục
[ 3] Sách tài liệu bồi dưỡng giáo viên – NXB giáo dục

[ 4] Luật giáo dục Việt Nam 2005 – Điều 28
[ 5] Sách dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng môn GDCD lớp 10 NXB ĐHSP Hà Nội
[ 6] Theo Vũ Kỳ - Thư ký Bác Hồ kể chuyện, NXB chính trị Quốc gia Hà Nội
[ 7] Báo nghiên cứu lịch sử
[ 8] 117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia Hà Nội
[ 9] Thơ Việt Nam hiện đại – Tố Hữu – Gió lộng ( 1961)
[10] Sách Hồ Chí Minh toàn tập- tập 3 – NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2002
[11] Tục ngữ Việt Nam
[12] Tư tưởng Hồ Chí Minh về Giáo dục

17


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Tám
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Triệu Sơn 5, Triệu Sơn, Thanh hóa ( Năm 2004
– tháng 7 năm 2011 là giáo viên trường THPT Thường xuân 2)

TT

1.

Tên đề tài SKKN

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Sử dụng một số phương pháp
để dạy tốt môn Giáo dục công

2.

Cấp đánh giá
xếp loại

Sở GD và Đào
Tạo Thanh Hóa

C

2005 - 2006

Sở GD và Đào
Tạo Thanh Hóa

C


2009 - 2010

Sở GD và Đào
Tạo Thanh Hóa

B

2010 -2011

Sở GD và Đào
Tạo Thanh Hóa

C

2013 - 2014

dân ở trường THPT miền núi
Tích hợp giáo dục tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vào
dạy một số bài giáo dục công

3.

dân, sách GDCD lớp 10
Tích hợp giáo dục kĩ năng
sống vào dạy bài 13 - công
dân với cộng đồng - sách

4.


GDCD lớp 10
Tích hợp giáo dục phòng
chống tham nhũng vào dạy
một số bài pháp luật chương
trình GDCD lớp 12

18


MỤC LỤC

19



×