Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

áp dụng biện pháp dạy học tích cực vào giải bài toán chuyển động đều lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.64 KB, 27 trang )

Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

PHẦN I . MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Mục đích của việc dạy học ở trường tiểu học là cung cấp cho học
sinh những kiến thức cơ bản và toàn thể về tự nhiên và xã hội để trẻ tiếp
tục ở cấp II, đồng thời chuẩn bò cho trẻ những kiến thức, kỹ năng cần
thiết cho công việc lao động của trẻ sau này.
Trong các môn học, môn toán đóng một vai trò quan trọng. Môn
toán cung cấp những kiến thức cơ bản về số, những phép tính, đại lượng
và khái niệm cơ bản về hình học. Bên cạnh đó môn toán còn giúp cho
học sinh suy nghó để xác đònh mối quan hệ giữa các đại lượng và làm
quen với những yếu tố đại số. Môn toán ở tiểu học là một môn học thống
nhất không chia thành các phân môn khác nhau. Như vậy môn toán góp
phần vào việc phát triển tư duy khả năng suy luận, trao đổi trí nhớ, kích
thích học sinh tìm hiểu, khám phá và góp phần hình thành nhân cách trẻ
ngay từ ở tiểu học.
Giải toán có lời văn là một những vấn đề cần được coi trọng, vì nó
được coi là hoạt động nhằm mục đích : giúp học sinh biết cách vận dụng
những kiến thức về toán, được rèn luyện kỹ năng thực hành với những
yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học
giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư
duy, rèn luyện phương pháp suy luận . Giải toán là một hoạt động bao
gồm những thao tác : xác lập được mối liên hệ giữa các dữ kiện, giữa cái
đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán mà thiết lập được các
phép tính số học tương ứng: chọn được phép tính thích hợp trả lời đúng
câu hỏi của bài toán. Để tiến hành được điều đó, giáo viên cần phải xác
đònh cho được 3 mức độ sau để hướng dẫn học sinh :
-Mức độ thứ nhất : Hoạt động chuẩn bò cho việc giải toán.
-Mức độ thứ hai : Hoạt động làm quen với việc giải toán.


-Mức độ thứ ba : Hoạt động hình thành kỹ năng giải toán.
Môn toán ở tiểu học là một môn thống nhất, không phân chia thành
phân môn. Do đó căn cứ vào sự phát triển tâm lý của học sinh theo từng
lứa tuổi nên cấu trúc nội dung môn toán cho phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của học sinh

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

1

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

Điều quan trọng của dạy học giải toán có lời văn được nêu dưới
dạng các bài toán có lời văn. Đây là loại toán có tính chất tổng hợp các
kiến thức, kó năng, phương pháp….học được môn toán trong tiểu học.
Điều chủ yếu của việc giải toán là giúp học sinh tự mình tìm hiểu
được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái đã phải tìm trong điều kiện của
bài toán mà thiết lập được các phép tính số học tương ứng, phù hợp.
Như vậy khi dạy học loại giải toán là sự vận dụng một cách hợp lý
các phương pháp dạy học theo đặc trưng của môn toán, cho phù hợp với
mục đích yêu cầu của việc dạy – Học giải toán ở bậc tiểu học và hình
thành các bước trọng quá trình giải toán sao cho phù hợp với mục tiêu ,
nội dung, các điều kiện dạy hoc.
Từ những lý do trên và do việc học về số đo thời gian rất khó, các
phép tính trên số đo thời gian khác với các số tự nhiên nhưng không
thuộc hệ ghi số thập phân. Do đó bản thân mới chọ đề tài : “ Áp dụng

dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở toán lớp 5 “
II . Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu chương trình môn toán – sách giáo khoa mới
- Tìm hiểu lý luận dạy học tích cực
- Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học các về toán chuyển
động đều ở toán lớp 5
- Thực nghiệm đề xuất ý kiến một số ý kiến, giải pháp để thực hiện
tốt hơn khi áp dụng dạy học tích cực vào vào dạy học về Toán chuyển
động đều .
III/. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu: đọc tài liệu, giáo trình có liên quan đến vấn
đề dạy học tích cực.
- Điều tra thực trạng việc dạy và học của giáo viên và học sinh khi
dạy về toán chuyển động đều (thông qua dự giờ).
- Thực nghiệm, rút kinh nghiệm.

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

2

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

PHẦN II . NỘI DUNG
CHƯƠNG I
DẠY HỌC TÍCH CỰC LÀ GÌ ?
I/-Khái niệm về phương pháp dạy học tích cực

Khi nói đến phương pháp dạy học tích cực thì thực tế là nói đến
nhóm các phương pháp dạy học theo hương phát huy tính tích cực của học
sinh. Nó là hệ thống các phương pháp đáp ứng được yêu cầu cơ bản của
mục tiêu giáo dục tổng quát có khả năng đònh hướng cho việc tổ chức quá
trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình kết hợp quá cá nhân hóa
và xã hội quá việc học tập.
Hệ thống phương pháp dạy học cũng là sự thích hợp và kết hợp
nhiều phương pháp gần gũi như nhau : phương pháp hợp tác, phương pháp
học bằng hành động, phương pháp tình huống, phương pháp nêu vấn đề…
phương pháp tích cực bao giờ cũng nổi bật lên đặc điểm quan trọng : trẻ
em là hoạt động tích cực là diễn viên, thầy là người đạo diễn tổ chức cho
trò chơi để trẻ chơi mà học, hành mà học bằng hành động của chính
mình.
Ví dụ : Từng nhóm học sinh làm thí nghiệm, ghi chép những gì
quan sát được, trình bày kết quả quan sát của nhóm mình, các nhóm khác
bổ sung hoặc trình bày những điểm khác, giáo viên nêu kết luận từ những
kết quả của học sinh.
II/.Phương pháp dạy học tích cực xác đònh mối quan hệ biện chứng
giữa trò – lớp – thầy :
Trò là chủ thể hoạt động dạy học. Trò không thụ động nghe thầy
giảng và truyền đạt kiến thức mà học tích cực bằng hoạt động của mình
“hành để học” nhằm mục tiêu “học để hành”
Người học đứng trước những sự việc, tình huống, vấn đè, xuất hiện
nhu cầu càn giải quyết trước những khó khăn mâu thuẫn trong nhận thức
của mình để tìm ra cái trưa biết càn khám phá. Trước tình huống đối với
mình, người học quan sát, tìm hiểu, tra cứu làm thí nghiệm… Cuối cùng tự
mình tìm ra kiến thức, mà học sinh tự khám phá ra không rập khuôn theo
một mẫu có sẵn mà đều là tri thức và phương pháp mới. Tuy nhiên lớp
học sẽ giúp người học khắc phục một phần thiếu sót đó.


Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

3

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

-Lớp học là cộng đồng của chủ thể, là thực tiễn của xã hội ngày
nay và mai sau, lớp học được tổ chức nhằm giáo dục làm môi trường
trung gian giữa thầy và trò.
Hành động giáo dục diễn ra trong môi trường xã hội lớp học không
thể nào là hành động cá nhân thuần túy mà phải là một hành động hợp
tác.
-Lớp học là nơi giao tiếp thường xuyên giữa trò với trò, giữa trò với
thầy phải bố trí lại không gian cho phù hợp theo nhóm không gian hình
tròn hoặc chữ U để biểu tượng cho vai trò cụ thể, trung tâm của người học
và mối quan hệ giữa thấy – trò mới.
Trong quá trình tự lực kham phá tri thức, người học có thể tự ra sản
phẩm giáo dục ban đầu (gồm tri thức mới và phương pháp hành động mới
), song sản phẩm đó có thể chưa mang tính khách quan khoa học nay đủ.
Thông qua việc trình bày bảo vệ sản phẩm của mình ở tập thể lớp học,
trao đổi tranh luận với các bạn, kiến thức khách quan của người học mới
giảm bớt phần chủ quan phiến diện tăng thêm tính khách quan khoa học.
Học bạn, biết cách học bạn, hợp tác với bạn trong các hoạt động học tập
người học mới có thể nâng mình lên trình độ mới “Học thầy không tày
học bạn”
Tuy vậy, cả cá nhân và cộng đồng các chủ thể lớp học có thể gặp

những vấn đề nan giải, những tình huống, những cuộc tranh luận không
xử lí được, những tri thức trưa ai biết đều đó phải nhờ đến thầy.
-Thầy giáo : không còn coi là người truyền đạt kiến thức có sẵn mà
là người đònh hướng, đạo diễn mà cho học sinh tự khám phá tri thức cùng
với cách tim ra tri thức. Người thầy dạy cho các em biết cách ứng xử,
cách giải quyết vấn đề, cách sống và trưởng thành. Người thầy còn đòi
hỏi phải có trình độ chuyên môn sâu, trình độ sư phạm lành nghề, có
năng lực sáng tạo, có năng lực tổ chức và hướng dẫn hoạt động học tập
của học sinh. Đồng thời, người thày phải có năng lực làm thức tính tìm
năng của học sinh chuẩn bò tốt cho học sinh tham gia phát triển cộng
đồng.
III/. Những dấu hiệu cụ thể để nhận biết phương pháp dạy học là tích
cực
1/-Dạy học bằng cách tổ chức tích cực hoạt động học tập của học sinh

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

4

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

Người học tự tìm kiến thức cùng với hành động của mình. Nhân
cách của trẻ được hình thành thông qua hoạt động chủ động, thông qua
các hành động có ý thức.
J.Piagie cho rằng chí thông minh của trẻ phát triển và mở rộng hoạt
động nhờ sự đối thoại giữa chủ thể hành động với đối tượng và môi

trường “suy nghó tức là hành động”, nhà triết học Kant (Đức) cũng viết
“cách tốt nhất để hiểu là làm”.
Chương trình dạy học phải giúp cho từng cá nhân người học phải
biết hành động và tích cực tham gia vào các chương trình hoạt động của
cộng đồng.
Từ những năm 70 đến nay đã có đònh hướng lại chức năng giảng
dạy khoa học, từ chỗ học sinh phải biết những gì chuyển sang mục tiêu
nhấn mạnh học sinh có thể làm được những gì, tiến lên một bước cao hơn
là người học sinh sẽ trở thành người như thế nào.
Như vậy mục đích học tập đã phát triển cao hơn từ học để biết đến
học đến học để hành và học để thành người.
Từ những tiền đề trên cho ta thấy phương pháp tích cực, học và
hành, học chữ và học làm người gắn chặt với nhau.
2/-Dạy học lấy học sinh làm trung tâm
Qua sự phân tích về bản chất của phương pháp tích cực ta nhận
thấy dù ở thời điểm nào vai trò của người học luôn tập trung và chú
ý,xem người học là chủ thể của quá trình dạy học.
Hoạt động học tập có thể đạt được hiệu quả nếu học sinh tiến hành
các hoạt động học tập tích cực,chủ động,tự giác với động cơ nhận thức
sâu sắc.Bằng những hoạt động động học tập của học sinh tự hình thành
và phát triển nhân cách của mình mà không ai có thể làm thay được
Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trọng tâm phát triển ở mỗi
học sinh kó năng và năng lực học tập, giải quyết vấn đề, học sinh và giáo
viên cùng nhau giải quyết vấn đề, cùng nhau khảo sát các khía cạnh của
vấn đề đặt ra. Vai trò của giáo viên là tạo ra những tình huống để phát
hiện vấn đề, thu thập tư liệu đề làm sáng tỏa và thử nghiệm giải quyết,
rút ra kết luận.
3/-Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự nghiên cứu
Xã hội càng phát triển khối lượng thông tin, kiến thức càng phong
phú. Đối với mỗi con người việc học tập, tiếp thu kiến thức là quan trọng

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

5

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

nhưng việc học phương pháp còn quan trọng hơn nhiều. Từ lâu các nhà sư
phạm đã thấy vai trò của việc dạy phương pháp học. Nhà giáo dục học
Disterverg (Đức) đã viết : “Người thầy tôi truyền đạt chân lý, người thầy
giáo giỏi dạy cách tìm chân lý”
Trong xã hội hiện đại, khoa học và công nghệ đang phát triển như
vũ bảo thì việc dạy học không thể hạn chế ở chức năng dạy kiến thức mà
phải chuyển sang dạy phương pháp. Như vậy, muốn phát huy tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học thì cần xem việc rèn luyện phương
pháp học cho học sinh không chỉ là một phương tiện nâng cao hiệu quả
dạy học mà phải xem đó là một mục tiêu dạy học. Trong quá trình dạy
học, giáo viên không truyền thụ tri thức dưới dạng có sẵn, người học chỉ
can ghi nhớ mà phải đònh hướng, tổ chức cho học sinh không chỉ lónh hội
được nội dung khoa học mà đồng thời còn tìm ra được phương pháp đạt
tới nội dung đó một cách hiệu quả nhất. Nói đến phương pháp học tập thì
cốt lỗi là phương pháp tự học. Bởi vậy, cần rèn luyện để người học có kó
năng phương pháp thói quen tự học, biết ứng dụng những điều đã học vào
tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra.
Như vậy, sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong
mỗi con người, kết quả học tập tăng lên, học sinh có năng lực học suốt
đời bời vậy người ta chuyển hoạt động học tập của học sinh từ thụ động

sang học tập chủ động, tích cực.
4/. Dạy học giúp học sinh phát triển năng lực tự đánh giá
Việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận đònh thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà qua đó còn có điều kiện
nhận đònh thực trạng và đònh hướng điều chỉnh hoạt động dạy học của
thầy
Hiện nay, trong dạy học đã chú ý rèn luyện phương pháp tự học
cho học sinh, đồng thời giáo viên phải hướng tới rèn luyện cho học sinh
khả năng tự đánh giá để họ có khả năng tự điều chỉnh cách học.
Trong dạy học tích cực, việc kiểm tra đánh giá không chỉ dừng ở
yêu cầu tài liệu kiến thức và lặp lại các kó năng mà phải khuyến khích
sáng tạo phát hiện ra sự chuyển biến về thái độ và xu hướng, hành vi của
người học trước những vãn đề của đời sống, của xã hội, như vậy phải có
phương pháp và kó thuật đánh giá phù hợp.

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

6

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

Người ta có thể dựa vào mục tiêu của từng chương, từng bài cụ thể
để đánh giá và tự đánh giá.
Trong quá trình tự tìm ra kiến thức, người học tạo được sản phẩm
ban đầu. Sản phẩm này mặc dù chưa chính xác, chưa khoa học, sau khi
trao đổi trước lớp được sự góp ý của giáo viên, người học tự đánh giá lại

sản phẩm ban đầu của mình, tự sữa chữa những sai sót làm cho sản phẩm
ban đầu trở nên hoàn thiện.
IV/.Các hình thức dạy học thường áp dụng trong dạy học tích cực
Trong những năm qua, bậc tiểu học Việt Nam đã thực hiện những
thay đổi trong toàn bộ quá trình dạy và học. Một minh chứng cụ thể nhất
đó là sự ra đời của chương trình tiểu học 2000 với những đổi mới đồng bộ
về mục tiêu giáo dục và phương pháp dạy học. Cách đánh giá kết quả
học tập của học sinh. Môn Toán cũng là một trong những môn chủ chốt
của chương trình tiểu học 2000 cũng phải thực hiện đổi mới như trên. Để
tích cực hóa hoạt động của học sinh, môn Toán cần phải có phương pháp
hình thức dạy học phù hợp. Sự đổi mới phương pháp, hình thức dạy học
trên cơ sở phát huy những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của
cách dạy học truyền thống.
1/.Dạy học bằng phương pháp nêu vấn đề
Trong dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, giáo viên tạo ra tình
huống gợi vẫn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự
giác, tích cực chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề` và thông qua đó
mà kiến tạo kiến thứctri thức, rèn luyện kỹ năng và đạt được những mục
đích khác
Vấn đề được chứa trong tình huống mà học sinh mong muốn được
giải quyết, nhưng để giải quyết phải vượt qua khó khăn bằng sự cố gắng
trí lực của bản thân một cách tự giác và hi vọng sẽ giải quyết được vấn
đề đó.
Quá trình dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề có thể mô tả như
sau :
Tình huống
vấn đề

Phát hiện vấn đề
Tìm hiểu vấn đề


Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

Đònh hướng GQVĐ
Giải quyết VĐ

7

Phân tích VĐ
Mở rộng VĐ

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

Trong phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, giáo
viên là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức triển khai tình huống,
gợi cho học sinh hướng đi, giúp đỡ học sinh thực hiện phương pháp học để
đạt mục đích học tập đã đặt ra; học sinh là người tìm cách học, biết huy
động kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đã có, bằng nỗ lực của chính
mình, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lónh tri thức và sắp xếp
nó vào hệ thống hiện có.
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là một đònh hướng xuyên
suốt quá trình học toán từ tiểu học đến trung học phổ thông. Do đặc điểm
tâm lí và nhận thức của học sinh tiểu học trong học tập toán , vấn đề được
hướng tới thường đơn giản, việc phát hiện và giải quyết vấn đề dựa vào
trực quan (nhất là trực quan tượng trưng), không cần một quá trình suy
luận dài.

Trên cơ sở vận dụng các phương pháp dạy học giáo viên không đưa
ra mà chỉ hướng cho học sinh cách suy nghó để học sinh tự phát hiện
khám phá hoặc chỉ sử dụng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy
nghó và tự trả lời, từng bước tiến dần đến kết quả cần thiết, giúp học sinh
tự tìm kiếm kiến thức mới.
Thông qua việc tự khám phá, phát hiện giúp học sinh lónh hội kiến
thức giúp học sinh lónh hội kiến thức chủ động, độc lập, góp phần xây
dựng tiết học sinh động, học sinh tự diễn đạt lại kiến thức đó một cách
chắc chắn.Và khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý : vấn đề nêu ra phù
hợp với đối tượng học sinh, không quá dễ hay quá khó. Nội dung chính
xác phù hợp với mục đích, nội dung bài học. Vấn đề nêu ra phải gợi
hướng để học sinh suy nghó trả lời. Cùng vấn đề đó có thể gợi ý nhiều
cách suy nghó và trả lời khác nhau. Nên dự đoán những khả năng những
vấn đề mà học sinh chưa phát hiện, giáo viên cần gợi mở đặt câu hỏi phụ
nhằm dẫn dắt học sinh tập trung vào những vấn đề chủ yếu, trọng tâm.
Sau khi học sinh suy nghó trả lời giáo viên chú ý lắng nghe để nhận xét
bổ sung sửa sai kòp thời. Tuy nhiên để sử dụng phương pháp này có hiệu
quả giáo viên phải lựa chọn đúng lúc, đúng mức độ đối với trình độ học
sinh.
Ngoài việc giáo viên lựa chọn cho mình phương pháp thích hợp với
nội dung từng bài, giáo viên cũng nên phối hợp các hình thức dạy học

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

8

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán

lớp 5

một cách hợp lý để giờ học đạt hiệu quả tốt không bò nhàm chán, đơn
điệu.
2/.Tổ chức dạy học nhóm
Trong dạy học nói chung và môn Toán nói riêng ba hình thức dạy
học: dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm và dạy học theo lớp, thường
được phối hợp chặt chẽ với nhau. Có thể nói giáo viên đã nắm khá vững
cách tổ chức dạy học theo lớp do đó sau đây chỉ trao đổi thêm về hình
thức tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm.
Học tập nhóm là một phương pháp học tập mà theo phương pháp
đó học sinh trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học
tập. Học sinh trao đổi ý tưởng và nguồn kiến thức với các thành viên
trong nhóm. Những học sinh có khả năng cao hơn giúp đỡ học sinh có khả
năng yếu hơn trong học tập. Các thành viên của nhóm tham gia tích cực
và hợp tác với nhau để lónh hội những kỹ năng mới. Trong không khí học
tập nhóm, người học không chỉ có trách nhiệm với các việc học của mình
mà còn có trách nhiệm với việc học của bạn khác.
Học theo nhóm sẽ tạo bầu không khí hợp tác học tập : học tập có tổ
chức, có trách nhiệm giữa các thành viên trong một nhóm học sinh. Khi
học theo nhóm, mỗi học sinh phải phát biểu ý kiến riêng của mình, phải
thực hiện nhiệm vụ cụ thể để hoàn thành nhiệm vụ chung của cả nhóm.
Tùy nội dung bài học và số lượng đồ dùng dạy học chuẩn bò được,
giáo viên quyết đònh số học sinh ở mỗi nhóm là 2, 3 hay 4, 5 em. Có thể
chia nhóm theo trình độ học sinh hoặc theo hoạt động. Cần cử một nhóm
trưởng và có thể một thư ký trong trường học cần thiết khi nhóm làm
việc. Nên cho học sinh luân phiên nhóm trưởng và thư ký để em nào cũng
có cơ hội tập điều hành công việc trong nhóm.
Điều quan trọng khi tổ chức học nhóm là nhiệm vụ được giao cho
mỗi nhóm phải thật rõ ràng. Nhiệm vụ đó đòi hỏi học sinh phải thực

hành, bàn bạc thảo luận để làm ra những sản phẩm cụ thể.
Trong khi học sinh làm việc, giáo viên phải theo dõi diễn biến
công việc của từng nhóm để hiểu rõ từng học sinh và cần lónh hội bài học
như thế nào và biết cách hướng dẫn giúp đỡ cụ thể. Giáo viên cũng dự
kiến làm việc với nhóm nào trước, nhóm nào sau. Thời gian đầu không
nên yêu cầu học sinh làm việc quá nhiều. Khi các em đã quen với cách
học nhóm, giáo viên có thể tăng thêm nhiệm vụ và kéo dài thời gian học
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

9

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

nhóm. Cần lưu ý, nếu giáo viên không chuẩn bò kế hoạch dạy học và
không dự kiến được các tình huống có thể xảy ra thì dạy học nhóm sẽ
không đạt được kết quả mong muốn.
Hình thức dạy học theo nhóm được áp dụng chủ yếu khi học sinh
tìm hiểu kiến thức mới. Từng học sinh tham gia trả lời câu hỏi do giáo
viên ghi trong phiếu.
Việc tổ chức dạy học theo nhóm có một số cách chia như sau :
+ Cách chia nhóm ngẫu nhiên : được tiến hành khi không cần sự
phân biệt giữa các đối tượng học sinh, mọi học sinh đều phải hoạt động
để cùng giải quyết vấn đề cùng chiếm lónh tri thức. Nhiệm vụ được giao
không khác nhau nhiều về nội dung, ít có sự chênh lệch về độ khó, cùng
chung yêu cầu.
+ Chia nhóm có cùng trình độ : được áp dụng khi cần có sự phân

hóa về mức độ khó dễ của nội dung bài học, bài tập cho từng đối tượng.
Thường chia làm 4 nhóm : nhóm gồm các học sinh giỏi, nhóm gồm các
học sinh khá, nhóm gồm các học sinh trung bình, nhóm gồm các học sinh
yếu. Nếu sự chênh lệch giữa các nhóm về trình độ học tập quá cao chẳng
hạn có sự khác biệt về trình độ giữa các lớp này với lớp khác, khi đó sự
chia nhóm này trở thành sự chia nhóm trong một lớp ghép.
+ Chia nhóm gồm đủ trình độ: cách chia này thông thường được sử
dụng khi nội dung hoạt động hỗ trợ lẫn nhau chẳng hạn khi tổ chức thực
hành ngoài lớp học, ôn tập hoặc giải bài toán khó.
Hình thức tổ chức dạy học theo nhóm tuy không phải là biện pháp
duy nhất để phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Tuy nhiên
so với các hình thức dạy học trước đây thì việc tổ chức dạy học theo
nhóm sẽ gây hứng thú cho học sinh suy nghó gợi lên sự tìm tòi thích thú
trong học tập.
Mặt khác để sử dụng tốt hình thức này giáo viên cần phải biết lựa
chọn cách tổ chức phù hợp với nội dung từng bài cụ thể. Bên cạnh đó
việc tổ chức học nhóm cũng phải phối hợp chặt chẽ với các hình thức học
tập khác để tiết học thêm phong phú sinh động.
Khi tiến hành dạy toán dưới các hình thức tổ chức dạy học nào đều
cần có phương tiện hỗ trợ. Phiếu học tập là một trong các phương tiện đó.
Phải nói rằng dạy học toán bằng các phiếu học tập chỉ là một trong các

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

10

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán

lớp 5

biện pháp dạy học, không nên coi trọng nói là duy nhất để đổi mới
phương pháp dạy học toán trong các trường tiểu học hiện nay.
Tuy nhiên dạy học toán bằng nhiều phiếu học tập có nhiều tác
dụng thiết thực góp phần tích cực vào sự khởi đầu quá trình đổi mới
phương pháp dạy học toán ở tiểu học.
Trước hết dạy học toán bằng phiếu học tập tạo môi trường thuận
lợi để phát huy tích cực tự giác học tập của học sinh. Giáo viên được chủ
động lựa chọn nội dung kiến thức và điều kiện làm việc trực tiếp với học
sinh. Giáo viên và học sinh hòa vào bầu không khí học tập tích cực. Quan
hệ thầy trò gần gũi hơn. Học sinh năng động và tự tin hơn.
Phiếu học tập có thể xem là một phần của vở bài tập, làm riêng
cho một tiết hoặc một phần của tiết, coi như một phương tiện tổ chức hoạt
động dạy học. Có nhiều loại phiếu học tập như : phiếu giao việc, phiếu
thực hành và phiếu kiểm tra. Thông qua các phiếu học tập các em có
điều kiện làm quen được nhiều bài toán đa dạng, có nhiều tình huống
phong phú và cập nhật với đời sống hàng ngày giúp các em phát triển tuy
duy, sáng tạo hơn. Giáo viên có điều kiện thực hiện “cá thể hóa” triệt để.
Từng học sinh làm việc độc lập trên mỗi phiếu. Tùy theo sức học của mỗi
em mà hoàn thành các bài tập thuộc các diện khác nhau đại trà, nâng
cao, bổ sung.
Dạy học toán bằng phiếu học tập còn giúp học sinh tự kiểm tra
đánh giá lẫn nhau từ đó điều chỉnh cách giải theo kết quả mà bạn hoặc
giáo viên khẳng đònh là đúng. Chẳng hạn sau mỗi bài tập trên phiếu mà
các em thường tự chữa đúng - sai hoặc đổi phiếu cho nhau theo từng cặp
hay nhóm để chấm chữa cũng có khi các em trao đổi thảo luận để tìm ra
kết quả đúng, việc làm đó hình thành ở các em phương pháp học tập tốt
nhất mà cách dạy gò ép trước đây khó có điều kiện thực hiện được.
Bên cạnh đó việc sử dụng đồ dùng học tập hỗ trợ trong việc học

toán là hết sức cần thiết, rèn luyện tư duy trừu tượng cho học sinh dựa
trên những biểu tượng cụ thể để hình thành kiến thức. Đồ dùng dạy học
toán phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cách. Đúng chỗ ở đây hiểu là
phải biết sử dụng đồ dùng nào là dạy học kiến thức nào. Chẳng hạn, khi
cần thì sử dụng, khi không cần thì không sử dụng. Ví dụ trong quá trình
dạy học về bảng cộng thì lúc đầu cần sử dụng các que tính để lập bảng,
nhưng dần dần phải buộc học sinh đọc được kết quả phép cộng mà không
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

11

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

cần que tính. Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên lạm dụng
việc sử dụng đồ dùng dạy học mà cũng làm hạn chế kết quả dạy học
không kém gì dạy “chay”.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học đúng lúc, đúng chỗ sẽ tăng thêm
hiệu quả của tiết dạy, học sinh sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức mà giáo
viên đỡ phải tốn thời gian để giảng lại nhiều lần. Mặt khác thông quan
việc sử dụng đồ dùng dạy học có thể đánh giá được giáo viên có vững về
kiến thức của tiết dạy không.
Khi tiến hành dạy một bài hay một nội dung nào đó, việc áp dụng
nhiều hình thức dạy học là rất cần thiết. Trò chơi toán học là trò chơi
trong đó có chứa một yếu tố toán học nào đó. Thực tế cũng cho thấy hình
thức tổ chức trò chơi toán học để được học sinh hưởng ứng và tích cực
tham gia. Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi toán học

có thể là trò chơi nhằm dẫn dắt, hình thành tri thức mới. Trò chơi nhằm
củng cố kiến thức, luyện kỹ năng, trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy
trong giờ ngoài khóa. Nếu phân loại theo các mạch kiến thức của toán
tiểu học, ta có thể nói tới chằng hạn : trò chơi về tính toán, trò chơi về vẽ
hình, đếm hình, cắt và ghép hình, trò chơi về giải toán.
Căn cứ vào nội dung kiến thức, trình độ học sinh và điều kiện hiện
có, giáo viên lựa chọn trò chơi để đưa vào dạy học như một hoạt động
dạy học toán. Các bước chuẩn bò và tiến hành trò chơi như sau :
- Chuẩn bò : giáo viên chuẩn bò các dụng cụ cần thiết, có thể giao
cho học sinh chuẩn bò những dụng cụ dễ kiếm.
- Công bố luật chơi: giáo viên giải tích cách chơi, trong đó nêu rõ
những ai trực tiếp, ai cổ động, ai đánh giá (người đánh giá không nhất
thiết phải là giáo viên), chơi như thế nào, chơi trong bao lâu, phần thưởng
là gì . chú ý chọn hình thức ngắn gọn, rõ gàng dể giải thích cách chơi.
Không nên giải thích dài dòng khiến học sinh mất hứng thú ngay từ khi
chưa tham gia trò chơi.
- Tiến hành : dù trực tiếp hay gián tiếp, tất cả học sinh của lớp phải
tham gia vào trò chơi: giáo viên theo dõi và giúp học sinh thao gỡ vướng
mắc nếu cần.
- Nhận xét : giáo viên nhận xét, động viên, khuyến khích học sinh.
Hoạt động của HS trong giờ học :

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

12

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán

lớp 5

Đối với môn Toán, hoạt động chủ yếu của HS trong giờ học có thể
là: hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết , nhưng trong giờ
dạy theo đònh hương đổi mới , chúng ta cần tăng cường hoạt động giao
tiếp .
Các hoạt động này được tổ chức theo các hình thức khác nhau
- Làm việc độc lập. (trường hợp các câu hỏi, bài tập đã cụ thể)
- Làm việc theo nhóm. (trường hợp các câu hỏi, bài tập trừu tượng,
đòi hỏi một sự khái quát nhất đònh; nếu làm việc chung theo lớp sẽ có ít
HS hoạt động)
- Làm việc theo lớp ( trường hợp GV giới thiệu bài, củng cố bài ;
những câu hỏi không yêu cầu phải suy nghó lâu ; HS trình bày kết quả
làm việc)
Học sinh <---> Học sinh
+ Trao đổi
+ Giải thích thắc mắc về bài tập, bài học
+ Phân công thực hiện theo lệnh của GV
+ Theo dõi bạn, góp ý
+ Đặt câu hỏi, bổ sung ý kiến
+ Tự đánh giá mình, đánh giá bạn.
 Hoạt động của GV trong giờ học theo PPDH mới:
* Giao việc cho HS:
+ Cho HS trình bày yêu cầu của câu hỏi.
+ Cho HS làm bài mẫu một phần.
+ Tóm tắt nhiệm vụ, dặn dò HS (gọn, không dài dòng).
*Kiểm tra HS:
+ Xem HS có làm việc không.
+ Xem HS có hiểu việc phải làm không.
+ Trả lời thắc mắc của HS.

*Tổ chức báo cáo kết quả làm việc
+ Các hình thức báo cáo (trực tiếp với GV; trong nhóm, trước lớp)
+ Các biện pháp báo cáo (bằng : miệng, bảng con, phiếu học tập,
giấy hoặc thi đua giữa các nhóm, trình bày cá nhân)
* Tổ chức đánh giá :
+ Các hình thức đánh giá (tự đánh giá, đánh giá trong nhóm hoặc
trước lớp)
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

13

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

+ Các biện pháp đánh giá (khen, chê ---> đònh tính - cho điểm --->
đònh lượng)
Chú ý :
* Giao lưu giữa GV và HS phải được thực hiện một cách tự nhiên ,
cởi mở.
* GV chỉ nên nói từ 30 - 40% thời lượng tiết dạy.
Nội dung nói là :
+ Gợi mở, dẫn dắt tư duy của HS theo logic của bài giảng bằng
những câu hỏi cụ thể, vừa sức HS.
+ Nói khi cần kết luận, nhấn mạnh, điều chỉnh, giao việc.
+ Lời nói cần nhẹ nhàng, rõ ràng, thu hút HS.
V/ .THỰC TẾ DẠY HỌC Ở ĐỊA PHƯƠNG
Giáo viên đã nắm bắt được mục tiêu dạy học, phương pháp dạy học

theo hướng tích cực.
Giáo viên đã dạy học tích cực như thông qua hoạt động, hướng dẫn
thực hiện một số vấn đề lấy học sinh làm khâu trung tâm từ khâu xây
dựng bài mới đến khâu luyện tập. Giáo viên nêu vấn đề cho học sinh giải
quyết. Giáo viên cho học sinh tự xác đònh yêu cầu để giải bài tập, đồng
thời chiếm lónh kiến thức được.
Tuy bên cạnh những mặt tốt đó còn có một số hạn chế như sau :
-Sử dụng phương pháp còn đơn điệu, giáo viên chỉ là người thông
báo kiến thức là chủ yếu.
-Ít chú ý đến sự phát triển của học sinh về nhiều mặt như : nhu cầu,
hứng thú, hay các vốn sống kinh nghiệm thực tế của các em.
-Chưa chú ý và thực hiện đến phương pháp học tập, nhất là phương
pháp học tập mạng tính chủ động sáng tạo của học sinh.
-Chưa đặc biệt quan tâm đến phương tiện dạy học như đồ dùng trực
quan, mô hình… vì giáo viên cho rằng các phương tiện phục vụ môn toán
ở trường chưa thật đày đủ. Điều này đã làm tăng khảng cách giữa lí
thuyết với thực hành.

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

14

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

CHƯƠNG II
Nội dung dạy học giải toán chuyển động đều


Thời gian gắn bó chặt chẽ với cuộc sống con người nên những kiến
thức về thời gian rất cần thiết cho mọi người và được đưa vào khá sớm
trong chương trình.
I/.Dạy – học phép đo thời gian
Dạy – học phép đo thời gian ở tiểu học gặp nhiểu khó khăn hơn
dạy học phép đo các đại lượng khác. Đó là vì các lí do chủ yếu sau đây :
a)- Thời gian là một đại lượng rất khó mô tả bằng những mô hình
trực quan, làm cho việc dạy học thiếu chỗ dựa cần thiết đối với học sinh
tiểu học. Trên thực tế lại thiếu một dụng cụ đo thời gian dễ sử dụng.
b)- Chương trình đưa ra xen kẽ với gắn bó với nhau hai khái niệm :
Thời điểm và khoản thời gian tương ứng với hai loại đại lượng, dễ
gây ra nhận thức lẫn lộn. Thời điểm là đại lượng vô hướng tuy gắn bó với
thời gian một cách rất tế nhò đối với học sinh tiểu học còn thời gian là
một đại lượng vô hướng cộng được. Việc nhận thức thời gian đối với học
sinh nhỏ không những khó về lí do nói trên mà còn vì nhận thức đó hay bò
chi phối bởi tâm trạng chủ quan của học sinh (khi vui trẻ em cảm thấy
thời gian trôi qua nhanh, khi phải chờ đợi lại cảm thấy thời gian lại kéo
dài).
c)- Khi học các phép đo các đại lượng ngoài thời gian, học sinh sử
dụng các tập hợp số (các số tự nhiên, các số thạp phân) được cáu tạo theo
nguyên tắc hệ gi số thập phân. Khi học phép đo thời gian, học sinh gặp
các số đo được biết không theo hệ số ghi số thập phân mà theo hệ số ghi
số 60 – phân đối với đơn vò (trong đó có đơn vò cơ bản là giây) còn đối
với một số đơn vò quen thuộc hơn (ngày, tháng, năm...) lại có nhiểu ngoại
lệ. Việc dạy phép đo thời gian kết hợp với củng cố, bổ sung các kiến thức
số học ( cụ thể là hệ ghi số ) làm cho nhiệm vụ dạy học này phức tạp,
khó khăn hơn.
d)- Chương trình quy đònh dạy tất cả các đơn vò đo thời gian từ guây
đến thế kỷ theo nguyên tắc kiến thức nào dễ tiếp thu hơn (vì sử dụng

quen, dễ nhận thức )thì học trước, các đơn vò đo tuy cơ bản nhưng khó
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

15

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

nhận thức hơn (như giấy) thì học sau. Trong một số kiến thức (chẳng hạn
tuần lễ, xem lòch...) hai mặt “thời điểm” và thời gian thường được dạy
xen kẽ. Chẳng hạn, khi dạy về “tuần lễ” , thì vừa dạy “tuần lễ” coi như
một đơn vò thời gian, vừa dạy các ngày trong tuần lễ với tư cách là các
thời điểm. Nhiều kiến thức về thời gian tuy học sinh chưa học nhưng đã
có kó năng sử dụng trong thực tế.
II/.Phương pháp dạy – học phép đo thời gian
Phương pháp dạy – học phép đo thời gian do đặc điểm của phần
này nên phương pháp chung cần được vận dụng và cụ thể hóa một cách
thích hợp. Sau đây là những gợi ý cho những vận dụng đó.
1/.Tận dụng và khai thác vốn sinh sống của học sinh
Trên cơ sở nâng cao và chính xác hóa từng bước nhận thức khi hình
thành khái niệm (khoảng) thời gian. Chẳng hạn từ giữa lớp 2, học sinh đã
được giới thiệu khái niệm “tuần lễ” nhưng khi đó các em đều đã biết
ngày và đem theo nghóa thông dụng. Khi nói tuần lễ có 7 ngày, giáo viên
cần trước hết uốn nắn cách hiểu “ thông dụng” đó để làm cho học sinh có
ý niệm về ngày theo nghóa khoa học và hiểu được tuần lễ có 7 ngày là
khoảng thời gian như thế nào. Nhưng khi nói 7 ngày trong tuần lễ là : chủ
nhật..., thứ bảy cần lưu ý đến thứ tự các tên gọi các ngày mà không phải

là nói đến khoảng thời gian.
Ở đây chưa nên vội đưa ra khái niệm đơn vò đo thời gian mà mới
coi tuần lễ là một khoảng thời gian xác đònh mà các em có thể hình dung
qua vốn hiểu biết thực tiễn về ngày, chưa chính xác trên cơ sở so sánh với
giờ là đơn vò đo thời gian thông dụng trong khoa học. Từ đó giúp các em
bước đầu phân biệt ; ngày chủ nhật..., thứ bảy là giống nhau về thứ tự
trong tuần lễ. Từ đó thấy sự khác nhau giữa khái niệm “thời gian” và
“thời điểm”.
Việc chỉnh hóa nhận thức về tuần lễ sẽ thông qua dạy phép đo thời
gian ở các lớp sau, nhất là dạy các đơn vò đo thời gian như giờ, phút, giây,
ngày,tháng, năm.
2/.Dạy hệ thống đo thời gian
Dạy hệ thống đo thời gian kết hợp từng bước giúp học sinh phân
biệt 2 khái niệm “thời điểm” và “thời gian”.Trong hệ thống đơn vò đo,
giây là đơn vò cơ bản và mặt khoa học đo lường quốc tế song đó là
khoảng thời gian quá nhỏ, khó cảm nhận đối với học sinh lớp 1,2 nên chỉ
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

16

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

được đưa ra ở lớp 4. Cần chú ý làm cho học sinh từng bước có khái niệm
chính xác hơn về giờ, trong quan hệ với ngày và phút. Kết hợp với việc
này, sử dụng đồng hồ để xem giờ. Khi dạy giờ, phút,sẽ cho học sinh quan
sát, theo dõi sự chuyển dòch của kim giây trên mặt đồng hồ để bàn vừa

quan sát vừa đếm nhòp nhàng đều đặn (theo hiệu lệnh hoặc theo sự
chuyển dòch của kim giây) từ 1 đến 60 hoặc quan sát chuyển động của
kim giây trọn 1 vòng. Khoảng thời gian đó là một phút. Để tiếp tục củng
cố nhận thức về phút, cần nêu ra các thí dụ khác, gần gũi như : tiết học 40
phút, giữa buổi học được nghỉ ra chơi 20 phút, đi từ nhà đến trường mất 5
phút.
Giờ được đưa ra và nhận thức quan hệ với phút, nhận thức về ngày
được chính xác hóa trong quan hệ với giờ...
Việc dạy về đơn vò thời gian cần chú ý dạy cho học sinh các cách
ghi kí hiệu. Trong khoa học, giờ và giây đợc kí hiệu là h và s. Ở tiểu học,
nên giới thiệu kí hiệu thông dụng là giờ và giây, (phút).
Trong bảng đơn vò đo thời gian, cần làm cho học sinh nắm chắc
quan hệ giữa ba đơn vò giờ, phút, giây : 1 giờ = 60 phút, 1 phút = 60 giây
và những ngoại lệ trong quan hệ giữa các đơn vò : 1 ngày = 24 giờ, ngày
với tháng, năm và một số ngoại lệ của chúng.
Qua việc dạy này, lưu ý cho học sinh về tính cộng được của thời
gian và tính xếp các thứ tự của thời điểm.
III/. Các phép tính đối với số đo thời gian
1)-Hệ ghi số đo thời gian
Hệ ghi số đo thời gian không phải là một hệ ghi số đo vò trí, nó có
nhiều quy đònh riêng thể hiện trên bảng đơn vò đo thời gian.
Khi dạy – học các số đo thời gian, cần làm cho học sinh nắm chắc
quy tắc “lập nhóm – chuyển đổi” đối các đơn vò này. Chẳng hạn 60 giây
thì chuyển đổi thành một đơn vò kế cận cao hơn là 1 phút ....
Đối với tháng, năm thì việc lập nhóm–chuyển đổi lại còn có các
quy đònh riêng khác nữa mà giáo viên sẽ làm cho học sinh nhớ và vận
dụng.
2)-Các phép tính đối với số đo thời gian
Ở tiểu học, thường sử dụng các số đo hỗn hợp (dùng nhiều đơn vò
đo). Khi thực hiện phép cộng hay trừ các số đo thời gian, nhân hay chia

các số đo thời gian với một số tự nhiên, cần làm cho học sinh thấy tính
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

17

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

chất tương tự với các phép tính tương ứng đối với các số thập phân mà
học sinh đã học, thể hiện ở chỗ :
a) Các số đo được cộng, trừ, nhân, chia theo từng nhóm đơn vò khác
nhau ;
Ví dụ :
3 giờ 55 phút
8 giờ 47 phút
5 giờ 24 phút
5 giờ 29 phút
8 giờ 79 phút
3 giờ 18 phút
79 phút = 1 giờ 19 phút
Nên : 8 giờ 79 phút = 9 giờ 19 phút
b) Sau đó thực hiện chuyển đổi các kết quả tính theo đơn vò thấp
thành kết quả tính theo các đơn vò kế cận hoặc ngược lại.
Đồng thời có ý thức về các khác biệt do quan hệ khác biệt giữa hệ
thống đơn vò đo thời gian và hệ thống đơn vò thập phân.
Nói chung các phép tính đối với các số đo thời gian thường phức
tạp nên khó đối với học sinh tiểu học. Vì vậy các bài tập đối với đại bộ

phận học sinh chỉ nên là các bài tập ít phức tạp.
Đối với học sinh khá, giỏi, có thể đưa ra thêm một số bài tập dễ,
biểu diễn các số đo thời gian dưới dạng số thập phân đơn giản. Khi dạy
vè chuyển đổi các số đo, cần tiếp tục làm rõ nguyên tắc “lập nhóm –
chuyển đổi” trong hệ ghi số, trong sự so sánh với việc chuyển đổi các số
đo độ dài và diện tích đã học.
IV.Các bài toán về chuyển động thẳng đều
Đó là các bài toán xoay quanh 3 đại lượng chủ yếu : quãng đường,
vận tốc và thời gian, khi biết giá trò của hai đại lượng và tìm giá trò của
đại lượng thứ ba tương ứng.
Ngoài ra còn có các bài toán về hai chuyển động thẳng đều cùng
chiều hay ngược chiều.
1/.Bài toán về tìm vận tốc – quãng đường – thời gian
Khi dạy các bài toán loại này, cần làm cho học sinh nắm được khái
niệm vận tốc, các quy tắc và công thức để áp dụng giải toán :
-Muốn tìm vận tốc, ta lấy quãng đường chia cho thời gian (v = s : t)
-Muốn tính quãng đường ta lấy vận tốc nhân với thời gian (s= v ×
t)
-muốn tính thời gian ta lấy quãng đường chia cho vận tốc (t = s : v)
2/.Loại toán về chuyển động ngược chiều và cùng chiều :
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

18

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5


a)- Loại toán về chuyển động ngược chiều :
Ví dụ : Hai người đi bộ bắt đầu đi cùng một lúc từ hai xã A và B và
đi ngược chiều nhau. Hai xã A và B cách nhau 18Km.Vận tốc của người
đi thứ nhất bằng 4km/h, vận tốc của người thứ hai bằng 5km/h. Sau mấy
giờ hai người đó gặp nhau ?
Dựa vào sơ đồ :
18km
C

A
4km/h

B
5km/h

Ta suy luận :
-Đến khi hai người gặp nhau ở C thì họ đã đi được 18 km trong
cùng một thời gian.
-Vậy để tính thời gian này, ta cần phải biết trong mỗi giờ cả hai
người đi được bao nhiêu kilômét
Bài giải
Mõi giờ hai người đi được :
4 +5 = 9 (km)
Hai người gặp nhau sau:
18 : 9 = 2(h)
Đáp số : = 2 (giờ)
Giáo viên giúp cho học sinh rút ra cách làm khái quát :
Thời gian = quãng đường : tổng 2 vận tốc
b)- Loại toán về chuyển động cùng chiều
Ví dụ :một người đi xe đạp từ A và một người đi bộ từ B. Hai người

đi cùng chiều và bắt đầu đi cùng một lúc (người ở A đi về phía B) vận tốc
của xe đạp là 14km/h, của người đi bộ là 5km/h. Quãng đường từ AB dài
18km. Sau mấy giờ người đi xe đạp đuổi kòp người đi bộ.
Dựa vào sơ đồ
18km
A
B
C
14km/h
5km/h
Giáo viên giúp cho học sinh suy luận
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

19

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

-Khi người đi xe đạp đuổi kòp người đi bộ ở C thì người đi xe đạp đi
được hơn người đi bộ một quãng đường là 18km.
-Vậy để tính được thời gian này, ta phải biết mỗi giờ người đi xe
đạp đi nhanh hơn người đi bộ bao nhiêu kilômét ?
Bài giải
Mỗi giờ người đi xe đạp đi nhanh hơn người đi bộ :
14 – 5 = 9 (km)
Người đi xe đạp đuổi kòp người đi bộ sau :
18 : 9 = 2 (giờ)

Đáp số : 2 giờ.
Giáo viên cần giúp chọc sinh rút ra qui tắc cách làm khái quát.
Thời gian = Quãng đường : hiệu 2 vận tốc

CHƯƠNG III

Mục tiêu chương trình toán 5 và toán về chuyển động đều

I/- Mục tiêu dạy học môn toán lớp 5
-Bổ sung những hiểu biết cần thiết về phân số thập phân, hỗn số để
chuẩn bò học số thập phân.
-Biết khái niệm ban đầu về số thập phân; đọc, viết, so sánh, sắp
thứ tự các số thập phân
*Lớp 5 là lớp cuối cùng ở tiểu học . Nội dung môn toán lớp 5 đã
được chỉnh lý theo tinh thần đổi mới giáo dục tiểu học . Sách giáo khoa
toán 5 được biên soạn theo nội dung đó được thể hiện theo chủ đề lớn sau
đây :
- Ôn tập và bổ sung về số tự nhiên .
- Phân số . Các phép tính về phân số.
-Số thập phân các phép tính về số thập phân
- Hình học , chu vi , diện tích và thể tích
- Số đo thời gian , toán chuyển động đều
- Ôn tập cuối năm
*Với nội dung trên toán 5 có vò trí .

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

20

Người thực hiện :



Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

- Hệ thống hóa và khái quát hóa ở mức độ hoàn chỉnh hơn lớp 4 đối
với các kiến thức về số tự nhiên ( đặc điểm cấu trúc của số tự nhiên , hệ
thập phân các phép tính, tính chất các phép tính và quy tắc tính , bổ sung
kiến thức về dấu hiệu chia hết cho 2 , 5 , 3 , 9 ) nó mở rộng khái niệm số
tự nhiên sang phân số và số thập phân , cách đọc và viết bốn phép tính
trên phân số , số thập phân .
- Bổ sung và hệ thống hóa các bảng đơn vò đo đại lượng thông
thường , trong đó các bảng đơn vò đo thời gian . Bảng đơn vò đo khối
lượng, đo độ dài , đo diện tích , đo thể tích . Các đơn vò đo đại lượng dược
viết dưới dạng số tự nhiên , phân số và số thập phân . Do đó các phép
tính trên số đo đại kượng , về thực chất là đưa về các phép tính trên số tự
nhiên , phân số và số thập phân .
- Tiếp tục sử dụng các biểu thức chữ để khái quát hóa bằng công
thức chữ tất cả các tính chất phép tính . Các quy tắc tính chu vi , diện tích
và thể tích các hình đã học . Giúp học sinh tiếp tục thực hiện giải phương
trình và bất phương trình đơn giản trên phân số và số thập phân .
- Tiếp tục củng cố kỹ năng giải toán và trình bày bài giải càc bài
toán đơn toán hợp với các số tự nhiên , phân số , số thập phân , số đo đại
lượng bổ sung các bài toán về vận tốc , quảng đường , thời gian trong
chuyển động đều
- Giới thiệu những biểu tượng về chu vi và diện tích hình tròn , về
thể tích hình hộp chữ nhật , hình lập phương , hình trụ , giới thiệu quy tắc
tính diện tích và thể tích các hình đã học .
II/.- Yêu cầu về kiến thức – kỹ năng của môn toán lớp 5
- Nắm được khái niệm về phân số và số thập phân biết đọc viết các

số đó , biết cách rút gọn phân số và qui đồng mẫu số các phân số , biết so
sánh các phân số và số thập phân .
- Biết thực hiện phép tính cộng , trừ , nhân , chia các phân số , số
thập phân và tính được các biểu thức số .
- Biết đổi đơn vò các số đo thời gian biết thực hiện cộng , trừ ,
nhân , chia số đo thời gian trong những trường hợp đơn giản .
- Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn và hợp với phân
số, số thập phân . Biết giải các bài toán đơn giản về chuyển động đều .
- Biết giải một số phương trình và bất phương trình đơn giản với
phân số số thập phân .
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

21

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

- Nắm được các đơn vò đo thể tích ( cm 3 , dm 3 , m 3 ) và mối quan
hệ giữa chúng . Biết vận dụng công thức để tính diện tích hình chữ nhật ,
hình lập phương , hình trụ .
III/.Yêu cầu về kiến thức – kỹ năng cần đạt về số đo thời gian và
chuyển động đều của môn toán lớp 5
1- Về số đo thời gian
- Biết mối quan hệ giữa một số dơn vò đo thời gian thông dụng :
Ví dụ : 1 thế kỉ = 100 năm
1tuần lễ = 7 ngày
1 năm = 12 tháng

1 ngày = 24 giờ
1 năm có 365 ngày
1 giờ = 60 phút
1 năm nhuận có 366ngày
1 phút có 60 giây
-Biết đổi đơn vò đo thời gian.
Ví dụ : Viết số thích hợp vào chỗ chấm :
a)6 năm = ……..tháng

3
giơ ø= ……….phút;
4

3 năm rưỡi = ………….tháng ;
0,5 ngày = ………..giờ
2 giờ 15 phút =…………………phút.
b) 60 giờ =……..ngày……….giờ ; 182 phút = ………..giờ………phút
75 giây = …….. phút ……… giây.
-Biết cách thực hiện :
• Phép cộng, phép trừ các số đo thời gian (có đến hai tên đơn vò
đo).
Ví dụ :Tính :
a)12 phút 43 giây + 5 phút 37 giây
b)5 giờ 20 phút – 2 giờ 45 phút.
• Phép nhân, phép chia số đo thời gian (có đến hai tên đơn vò
đo)với (cho)một số tự nhiên khác 0.
Ví dụ : Tính :
a). 12 phút 25 giây x 5;
b). 7 giờ 40 phút : 4
2- Vận tốc

Bước đầu nhận biết được vận tốc của một chuyển động.
Biết tên gọi, kí hiệu của một số đơn vò đo vận tốc (km/giờ; m/phút;
m/giây).
Ví dụ : Một ô tô đi quãn đường 170 km hết 4 giờ. Như vậy, trung
bình mỗi giờ ô tô đi được là : 170 : 4 = 42,5 (km). Ta nói vân tốc trung
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

22

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

bình, hay nói tắt vận tốc của ô tô là bốn mươi hai phẩy năm kilômét giờ,
viết tắt là 42,5km/giờ.
IV/.Một số dạng toán về toán chuyển động được dạy ở toán 5
Ví dụ 1 : Một máy bay bay được 1800km trong 2 giờ . Tính vận tốc
của máy bay.
-Giáo viên hướng dẫn học sinh giải
Trung bình mỗi giờ máy bay bay được :
1800 : 2 = 900 (km)
Đáp số : 900 km
-Giáo viên : Trung bình mỗi giờ máy bay bay được 900km. Ta nói
vận tốc trung bình hay nói vắn tắt vận tốc của máy bay là chin trăm ki-lômét giờ, viết tắt là 900 km/giờ.
Vậy vận tốc của máy bay là :
1800 : 2 = 900 (km/giờ)
-Giáo viên rút ra kết luận (qui tắc) : Muốn tính vận tốc ta lấy
quãng đường chia cho thời gian.

Gọi v là vận tốc, s là quãng đường, t là thời gian, ta có qui tắc sau
để tính vận tốc (v)
V=s:t
Ví dụ 2 : Một người đi xe đạp trong 2 giờ 30 phút với vận tốc 12,6
km/giờ. Tính quãng đường đi được của người đó.
Ví dụ 3 : Một ca nô đi với vận tốc 36 km/giờ trên quãng đường sông
dài 42 km. Tính thời gian đi của ca nô trên quãng đường sông đó.
Giải :
Thời gian đi của ca nô là :
7

42 : 36 = 6 (giờ)
7
1
1 giờ = 1 giờ 10 phút.
giờ
=
6
6

Đáp số : 1 giờ 10 phút.
Đáp số : 2 giờ
-Từ đó rút ra qui tắc : muốn tìm thời gia ta lấy quãng đường chia
cho vận tốc.

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

23

Người thực hiện :



Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

Ví dụ 4 : Hai thành phố A và B cách nhau 180km. Một ô tô đi từ
thành phố A đến thành phố B với vận tốc 54 km/giờ, cùng lúc đó một xe
máy đi thành phố B đến thành phố A với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi sau bao
lâu ô tô và xe máy gặp nhau ?
ô tô
xe máy
A
180km
B
Hướng dẫn :
Sau mỗi giờ cả ô tô và xe máy đi được quãng đường là :
54 + 36 = 90 (km)
Thời gian đi để xe ô tô gặp xe máy là :
180 : 90 = 2 (giờ)
Đáp số 2 giờ.
Ví dụ 5 : Một người đi xe đạp từ B đến C với vận tốc 12 km/giờ.
Cùng lúc đó một người đi xe máy từ A cách B là 48 km với vận tốc 36 giờ
và đuổi kòp theo xe đạp (xem hình dưới đây. Hỏi kể bắt đầu đi, sau mấy
giờ xe máy đuổi kòp xe đạp ?
xe máy

xe đạp

A


B

C

48 km
Hướng dẫn :

Sau mỗi giờ xe máy gần xe đạp là :
36 – 12 = 24 (km)
Thời gian đi để xe máy đuổi kòp xe đạp là :
48 : 24 = 2 (giờ)
Đáp số : 2 giờ

V/- Thực trạng việc dạy và học hiện nay về số đo thời gian và toán
chuyển động đều
1/.Đối với giáo viên
-Với loại toán này đã được dạy ở các lớp dưới nhưng chưa hình
thành tên gọi vận tốc của vật chuyển động nên đã thuận lợi cho giáo viên
khi đến lớp 5 dạy về toán chuyển động đều.
Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

24

Người thực hiện :


Đề tài : Á p dụng dạy học tích cực vào phần giải toán chuyển động đều ở Toán
lớp 5

-Giáo viên nắm bắt rất tốt về kỹ năng đổi số đo thời gian, xác đònh

được vận tốc khi được tính bằng km/giờ, khi m/giây, để từ đó tìm kết quả
đúng theo yêu cầu đề toán đặt ra.
2/.Đối với học sinh
-Học sinh được làm quen về thời gian ngay từ lớp 1, đã tạo thuận
lợi cho việc học số đo thời gian và toán chuyển động đều ở lớp 5.
-Kỹ năng tính số học đã khá thành thạo nên thuận lợi khi học các
phép tính cộng, trừ, nhân, chia số đo thời gian.
3/.Một số sai lầm khi học sinh học về số đo thời gian
3.1- Phân biệt thời điểm và thời gian
-Nhiều học sinh lẫn lộn thời điểm và thời gian, do đó học sinh sử
dụng từ ngữ thiếu chính xác.
Ví dụ :
Một học sinh nói :
+Thời gian em thức dậy sáng là 7 giờ.
+Thời gian em ăn cơm trưa là 11 giờ
+Các thời gian trong tuần là : thứ hai, thứ ba, thứ tư,. . .
-Thời gian em học là những ngày thứ hai, thứ ba, ,.....trong mỗi
tuần.
-Câu nói trên của học sinh là không chính xác, học sinh đã không
phân biệt được thời điểm và thời gian. Học sinh cần phải nói là :
+Em thức dậy lúc 7 giờ sáng.
+Em ăn cơm trưa lúc 11 giờ
+Những ngày trong tuần là : thứ hai, thứ ba, ...
+Mỗi tuần em học vào những ngày thứ hai, thứ ba, ...thứ sáu .
-Để khắc phục những sai lầm trên, giáo viên nên phân tích nguyên
nhân của những sai lầm đó là do học sinh chưa hiểu thời gian là đại lượng

Người hướng dẫn : TS. Trần Ngọc Lan

25


Người thực hiện :


×