Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sử dụng nội dung biển đảo vào dạy học tiết 16 ngoại khóa những vấn đề xã hội ở địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU

- Lí do chọn đề tài: Trong những năm gần đây,vấn đề biên giới, biển đảo luôn là vấn
đề mang tính thời sự nóng bỏng thu hút sự quan tâm của Đảng và toàn dân ta. Đặc
biệt là tình hình Biển Đông rất phức tạp, nguyên nhân chính là do từ phía Trung Quốc
đang cố áp đặt chủ quyền, tham vọng của mình ở khu vực này khi đưa ra yêu sách
“đường lưỡi bò” đầy phi lí và hư ảo. Trước những diễn biến bất ổn và lo ngại chung
của khu vực và thế giới về tình hình an ninh trên biển Đông, Đảng và Nhà nước ta đã
có những việc làm khẳng định chính sách nhất quán về đối ngoại và chủ quyền lãnh
thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Đảng và Nhà nước đã khẳng định quyền, chủ quyền và
quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo qui định
của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Vấn đề về chủ quyền biển đảo trong những năm gần đây đang nổi lên rất nóng
bỏng khi Trung Quốc đưa ra yêu sách“đường lưỡi bò” hết sức phi lý bao gồm cả hai
quần đảo Trường sa và hoàng Sa của Việt Nam , nghiêm trọng hơn là việc đưa giàn
khoan khổng lồ HD 981 vào vùng thềm lục địa, lãnh thổ của nước ta. Trong thực tế
đó, việc giáo dục cho thanh niên, học sinh – những người chủ tương lai của đất nước
có nhận thức đúng đắn về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hàng Sa,
Trường Sa nói riêng và vùng biển của Việt Nam nói riêng có ý nghiã vô cùng quan
trọng. Một mặt, giúp thanh niên, học sinh khẳng định đúng đắn về tính pháp lý chủ
quyền của Hai quần đảo trên; mặt khác giáo dục cho học sinh ý thức trong việc chung
tay bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, vì màu cờ sắc áo, vì chủ quyền của đất
nước.
Để giúp giáo viên có những kiến thức, thông tin về vấn đề vấn biển đảo Việt
Nam, tính pháp lý khẳng định chủ quyền về hai quần đảo Trường Sa, Trường Sa của
Việt Nam trong dạy - học bộ môn giáo dục công dân Tôi đưa ra sáng kiến: “Sử dụng
nội dung biển đảo vào dạy - học tiết 16 - ngoại khóa những vấn đề xã hội ở địa
phương” môn giáo dục công dân lớp 10.
- Mục đích nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu mằm mục đích nâng cao nhận thức
của giáo viên và đặc biệt là về phía học sinh hiểu được vai trò, tầm quan trọng của
biển đảo quê hương. Giúp giáo viên và học sinh có nhận thức đúng đắn để khẳng


định chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam cả về mặt cơ
sở pháp lý và về cơ sở thực tiễn. Qua đề tài một mặt giúp giáo viên và học sinh hiểu
rõ được quan điểm đấu tranh của Đảng và Nhà nước ta và những âm mưu lợi dụng
tình hình biển đảo để gây bạo động, mất ổn định của các thế lực thù địch. Mặt khác,
giúp các thế hệ học sinh có nhận thức và những việc làm đúng đắn để góp phần bảo
vệ chủ quyền biển đảo quê hương.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu, tổng kết về tình hình biển đảo quê
hương. Cụ thể là nghiên cứu về cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử khẳng định chủ quyền hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, những hoạt động, những âm mưu
thủ đoạn của Mỹ và Trung Quốc về Biển Đông trong những năm gần đây.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp quan sát: qua tiết dạy thực tế trên lớp
+ Phương pháp nghiên cứu lí luận
+ Phương pháp khảo sát, thống kê, tổng kết kinh nghiệm
1


Đối với mỗi công dân Việt Nam hiện nay, việc nhận thức đúng, hiểu rõ tình
hình biển đảo và thể hiện trách nhiệm, bày tỏ lòng yêu nước đúng lúc, đúng chỗ có ý
nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thiết thực vào thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Chính vì vậy,
chúng ta cần phải có những định hướng đúng đắn về cách tư duy, nhìn nhận, đánh giá
vấn đề một cách hết sức cụ thể, thuyết phục và đặc biệt là cần phải tăng cường mở
rộng tuyên truyền, giáo dục về nội dung biển đảo cho học sinh trong các trường học –
những người chủ tương lai của đất nước. Khi được trang bị những nhận thức đúng
đắn, đầy đủ và sâu sắc, lớp trẻ Việt Nam hôm nay sẽ trở thành những sứ giả nhiệt
huyết tạo nên sự kết nối trong toàn xã hội, thúc đẩy những hành động thiết thực trong
cộng đồng, các dân tộc Việt Nam trên toàn thế giới
Có thể khẳng định rằng, hơn ai hết, các thầy cô giáo là những người trực tiếp
giáo dục các em, chúng ta không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn truyền lại cho thế

hệ sau có nhận thức đứng đắn về chủ quyền biển đảo, trong đó đặc biệt là chủ quyền
của hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, giáo dục cho các em tình yêu thắm thiết
đối với những vùng biển, đảo của Tổ quốc thân yêu. Chúng ta giúp cho các em xác
định được tình yêu lớn nhất cao cả và thiêng liêng nhất là tình yêu Tổ quốc, tình yêu
dân tộc, yêu chuộng hòa bình, tự do. Các em cần ý thức được rằng các em học không
chỉ để lập thân, lập nghiệp mà còn vì tình yêu quê hương đất nước thôi thúc trong
lòng .

2


2. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận:
Để đáp ứng được yêu cầu về mục tiêu giáo dục hiện nay của Đảng và Nhà
nước ta: "nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đẩy mạnh đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học..." trong môn giáo dục công dân, không chỉ dừng lại ở việc
truyền thụ tri thức cho học sinh, mà phải tổ chức cho học sinh tìm hiểu, nghiên cứu
với các chủ đề ngoại khóa về các vấn đề thực tế trong đời sống xã hội.
Qua các hoạt động tìm hiểu ngoại khóa này giúp các em có những cái nhìn
đúng đăn, từ đó hình thành thói quen đạo đức, ý thức sống và chấp hành pháp luật,
hình thành các kỹ năng vận đụng những điều đã học vào đời sống thực tế. Tránh lối
dạy nhồi nhét, một chiều, thụ động không tạo được hứng thú học tập của học sinh.
2.2. Thực trạng:
Hiện nay, không chỉ riêng trường THPT Hậu Lộc 3 mà hầu hết tất cả các
trường THPT trong tỉnh trong các môn học ở trường Trung học phổ thông không có
môn học nào, bài học nào đi sâu vào chuyên đề: giáo dục, tuyên truyền nội dung về
biển đảo quê hương mà phần lớn việc tuyên truyền, giáo dục về biển đảo chỉ được
tích hợp vào một số bài, một số kiến thức của một số môn đặc thù như: môn Giáo dục
công dân, môn Địa lý, môn Lịch sử, môn Văn học.... Không những thế, do thiếu tài

liệu về nội dung biển đảo cho nên việc tích hợp nội dung này vào dạy - học, tuyên
truyền cho học sinh còn gặp những khó khăn nhất định. Chính điều này làm cho công
tác tuyên truyền, giáo dục nội dung biển đảo trong nhà trường đạt hiệu quả không
cao.
Cụ thể: trong các năm học 2012 – 2013 khi Tôi chưa đưa nội dung biển đảo vào
dạy học tiết ngoại khóa môn giáo dục công dân lớp 10, thông qua phiếu điều tra xã
hội học cho học sinh tìm hiểu về biển đảo cho thấy tỉ lệ học sinh nhận thức không đầy
đủ và nhận thức không đúng về biển đảo chiếm tỉ lệ còn khá caocao, cụ thể Tôi điều
tra ở các lớp 10B1, 10B2, 10B3, 10B4, 10B5 có kết quả như sau:
TT

Nội dung dược hỏi

1
2
3

Vai trò của biển đảo nước ta
Chỉ trên lược đồ vùng biển đông
Chỉ trên lược đồ các đảo và quần
đảo của nước ta
Cơ sở pháp lý quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa
Luật biển Việt Nam
Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982
Quan điểm đấu tranh giữ gìn
biển đảo của Đảng, Nhà nước ta

4

5
6
7

ý kiến học sinh (%)
Nhận thức
Nhận thức
Nhận thức
đúng
không đầy đủ
không
đúng
40%
35%
25%
42%
40%
18%
43%
38%
19%

3

10%

35%

55%


12%
9%

40%
30%

48%
61%

26%

32%

42%


Trước thực trạng trên và qua thực tế dạy học môn giáo dục công dân ở trường
Trung học phổ thông, theo Tôi ngoài việc đưa vấn đề tuyên truyền, giáo dục về biển
đảo vào tích hợp dạy học bộ môn thì giáo viên có thể giành một tiết ngoại khóa của
môn giáo dục công dân lớp 10 để giảng dạy cho học sinh tìm hiểu về vấn đề này.
2.3. Giải pháp giải quyết vấn đề
CHỦ ĐỀ: “CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG”

2.3.1. Mục đích: Giúp học sinh nắm được:
a. Về kiến thức:
- Đặc điểm, vị trí, tiềm năng, thế mạnh của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
- Lịch sử và giá trị pháp lý của vùng biển, đảo và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
của Việt Nam trên trường quốc tế;
- Âm mưu và thủ đoạn độc chiếm biển Đông của Trung Quốc

- Các quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc đấu tranh gìn giữ biển đảo quê
hương
b. Về kỹ năng :
- Học sinh chỉ trên bản đồ Việt Nam biết được vị trí biển Đông, vịnh Bắc Bộ, vịnh Hạ
Long, vịnh Thái Lan, các đảo và quần đảo Cái Bầu, Cát Bà, Phú Quốc, Hoàng Sa,
Trường Sa...
- Biết được vai trò to lớn và tầm quan trọng của biển đảo Việt Nam trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
c. Về thái độ :
- Tích cực tham gia hưởng ứng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước,
góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế biển, đảo và bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
- Kiên quyết đấu tranh với mọi luận điệu xuyên tạc về chủ quyền biển, đảo Việt Nam,
phản bác yêu sách “đường lưỡi bò” và mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung
Quốc.
- Sẵn sàng tham gia nghĩa vụ quân sự khi Tổ quốc yêu cầu
2.3.2. Phương pháp:
Kết hợp phương pháp đàm thoại với thảo luận nhóm, động não, thuyết trình
2.3.3. Tài liệu và phương tiện
- Máy chiếu hắt; máy Projector, Các đoạn phim về biển đảo Việt Nam
- Giấy A0, A4, bút dạ, băng dính
- Tranh, ảnh, bản đồ, vi deo... liên quan về biển đảo Việt Nam
2.3.4. Cách tiến hành:
* Hoạt động 1: Nghe bài hát: “Tổ Quốc Gọi Tên Mình” Sáng tác: Đinh Trung
Cẩn – Lời thơ: Nguyễn Phan Quế Mai.
• Mục tiêu: Giúp học sinh liên tưởng, hướng về về hình ảnh vẻ đẹp của hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nghe thấy tiếng gọi của Tổ Quốc từ biển cả bao la,
từ đó thấy được trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn biển đảo quê hương.
• Cách tiện hành:
Bước 1: Giáo viên sử dụng máy chiếu Projector mở bài hát: “Tổ quốc gọi tên

mình” của Đinh Trung Cẩn cho học sinh nghe
4


Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời: Qua bài hát em có cảm nhận
như thế nào về bài hát này của nhạc Đinh Trung Cẩn?
Trên cơ sở học sinh trả lời giáo viên kết hợp giảng giải và kết luận giới thiệu vào
bài mới: Ngày nay, vấn đề Biển Đông luôn là vấn đề hết sức nóng bỏng, nhạy cảm,
chi phối trực tiếp, mang tính quyết định đến sự ổn định, lành mạnh và phát triển của
các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vậy, các em hiểu như thế nào về vị trí, vai trò
cũng như là lịch sử, giá trị pháp lý của biển đảo Việt Nam. Để hiểu được điều này
chúng ta sang hoạt động tiếp theo
* Hoạt động 2: “Tìm hiểu về đảo và quần đảo ở nước ta”
• Mục tiêu: Giúp học sinh nêu đặc điểm của đảo và quần đảo nước ta và vai
trò của đảo, quần đảo.
• Cách tiện hành:
Bước 1: Giáo viên sử dụng máy chiếu Projector chiếu một số tranh ảnh về vùng
biển Việt Nam, lược đồ khu vực biển đông

Bản đồ vùng biển Việt Nam

Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi chia nhóm cho học sinh thảo luận:
+ Nhóm 1: Em hiểu thế nào là đảo và quần đảo?
+ Nhóm 2: Chỉ trên bản đồ địa lý tự nhiên Việt Nam các đảo và quần đảo chính của
nước ta?
+ Nhóm 3: Nêu đặc điểm của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của nước ta?
5


+ Nhóm 4: Cá đảo, quần đảo nước ta có giá trị gì?

Học sinh: Các nhóm thảo luận trong 3 phút, sau đó đại diện các nhóm lên trình bày.
Giáo viên: Kết hợp lược đồ giảng giải và kết luận:
- Đảo và quần đảo: Đảo: là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy
triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là một tổng thể các đảo, kể cả
các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có
liên quan với nhau chặt chẽ với nhau.
- Các đảo và quần đảo ở nước ta: Ở biển Đông, Việt Nam có khoảng 3.000
đảo, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở hai khu vực vịnh Bắc bộ và Nam bộ.
Những đảo, quần đảo ven biển có dân cư sinh sống như: Cô Tô, Cái Bầu, Cát Bà,
Bạch Long Vĩ, Hòn Lớn, Lý Sơn, Côn Sơn, Phú Quốc,... Đặc biệt có hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa nằm ngoài khơi phía Đông tỉnh Quảng Trị, Thừa
Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Thuận vào đến các tỉnh Nam bộ, bao
gồm nhiều đảo nhỏ, nhiều bãi cát ngầm, bãi đá, bãi san hô.
- Đặc điểm và vai trò của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
+ Quần đảo Hoàng Sa:Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và
bãi cạn, nằm trong khu vực biển có vị trí từ 15 độ 45 phút đến 17 độ 15 phút vĩ Bắc
và 111 độ đến 113 độ kinh Đông, cách đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi khoảng 190 km
(khoảng 120 hải lý), cách đảo Hải Nam TQ khoảng 200 hải lý).

Quần đảo Hoàng Sa

Nhóm An Vĩnh (Nhóm Đông): nguyên là tên của một xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn, đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh
Côn và các bãi ngầm chính, trong đó đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm (khoảng 2,3km2).
Nhóm Trăng Khuyết (Nhóm Tây hay còn gọi là nhóm lưỡi liềm, Trăng khuyết): có
hình cánh cung hay lưỡi liềm gồm có các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng,
Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quỷ, Tri Tôn và các bãi ngầm, trong đó có đảo Hoàng
Sa dài 950m, rộng khoảng 650m, diện tích 0,32km2. Về yếu tố quân sự, đảo Hoàng
6



Sa là đảo chính của quần đảo nhưng không phải là đảo lớn nhất. Nhà Nguyễn đã
chính thức đặt chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
+ Quần đảo Trường Sa: Nằm trong khu vực biển ở vị trí từ 6 độ 50 phút đến 12 độ
vĩ Bắc và 111 độ 30 phút đến 117 độ 20 phút kinh Đông, cách đảo Phú Quý, Bình
Thuận khoảng 203 hải lý, cách Philippines khoảng 300 km và cách Trung Quốc
khoảng 1.500 km. Toàn thể quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 160.000 km
vuông, gồm trên 100 đảo và những bãi đá nhô lên mặt biển.

Quần đảo Trường Sa

Quần đảo Trường Sa án ngữ đường hàng hải quốc tế nối liền Thái Bình Dương
với Ấn Độ Đương và Đại Tây Dương, giữa châu Âu, châu Phi, Trung Cận Đông với
Trung Quốc, Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á, một tuyến đường
huyết mạch có lưu lượng tàu thuyền tấp nập vào hàng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Địa
Trung Hải).
* Hoạt động 3: “Tìm hiểu cơ sở pháp lý và lịch sử của quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa”
• Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử khẳng định hai
quần đảo Trường Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
• Cách tiện hành:

7


Bước 1: Giáo viên sử dụng máy chiếu Projector chiếu một số tranh ảnh về hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những bản đồ là cơ sở pháp lý khẳng định chủ
quyền hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận lớp:
+ Cơ sở lịch sử - thực tiễn nào để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai

quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ?
+ Cơ sở pháp lý nào để khẳng định chủ quyền các vùng biển và thềm lục địa Việt
Nam ?
Học sinh: Các nhóm thảo luận trong 3 phút, sau đó học sinh trả lời
Giáo viên: Kết hợp lược đồ giảng giải và kết luận:
- Cơ sở lịch sử - thực tiễn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường:
Trong lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại
xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc gia trong các giai đoạn đó đã bị quân xâm lược tiêu
hủy với mục tiêu xóa sạch văn hóa Việt để dễ bề đồng hóa. Tuy nhiên, chỉ với những
tài liệu chính sử còn lại đến nay cũng đủ để chứng minh người Việt Nam đã có chủ
quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này, hoàn
toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế về việc xác lập và khẳng định
chủ quyền lãnh thổ.
Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên:
“Bãi Cát Vàng” và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi.
Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ
Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính
Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản nhà
Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi
Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông.
Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố
và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào
năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và
tuyên bố chủ quyền. Liên tục từ đó, Việt Nam đã có nhiều hoạt động cũng cố chủ
quyền trên 02 quần đảo Hoàng sa.
- Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền vùng biển và thềm lục địa Việt Nam:
+ Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS):
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 có 162 quốc gia phê chuẩn

và tham gia (tính đến ngày 03/6/2011). Công ước Luật Biển năm 1982 được coi là
Hiến pháp của thế giới về các vấn đề biển và đại dương. Công ước Luật Biển năm
1982 nêu mỗi quốc gia ven biển có 5 vùng biển, bao gồm: Nội thủy, lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Năm 1994, Quốc hội nước ta đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn và
chính thức trở thành thành viên của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982. Bằng việc phê chuẩn này, chúng ta có đầy đủ cơ sở pháp lý để khẳng định chủ
quyền các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.
+ Luật Biển Việt Nam:
8


Ngày 21/6/2012, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật
Biển Việt Nam. Đây là hoạt động lập pháp cần thiết để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
của Việt Nam, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát
triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điều kiện cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng
trưởng hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
- Một số hình ảnh tư liệu trong nước và quốc tế cho thấy quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam:

Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá vẽ (1686), đóng chung trong Hồng Đức bản đồ có ghi chép
về quần đảo Hoàng Sa như sau: Giữa biển khơi có dải cát gọi là Bãi Cát Vàng
dài khoảng 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng sừng sững giữa biển. (1686)

An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Paracels
(Cát Vàng, Hoàng Sa) nằm trong vùng biển Việt Nam

9



Châu bản triều Nguyễn ngày 21 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)
chứng minh chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa

Bản đồ bờ biển Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do người Hà Lan vẽ năm 1754

10


Tập Atlas Trung Quốc địa đồ xuất bản 1908 bằng tiếng Anh,
thể hiện điểm cực Nam của Trung Quốc chỉ kéo dài đến hết đảo Hải Nam.

Bản đồ phương Tây vẽ khu vực Đông Nam Á và Việt Nam thể hiện rõ chủ quyền Việt Nam đối với
Hoàng Sa và Trường Sa.

11


* Hoạt động 4: “Tìm hiểu âm mưu và những hành động xâm chiếm Biển đông
của Trung Quốc và quan điểm, chủ trương đấu tranh của Đảng và Nhà nước ta”
• Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được âm mưu độc chiếm biển Đông và những
hành động ngang ngược xâm chiếm, gây hấn của Trung Quốc trên vùng biển thềm
lục địa của Việt Nam. Hiểu được quan điểm đấu tranh của Đảng và Nhà nước ta về
bảo vệ chủ quyền biển đảo.
• Cách tiện hành:
Bước 1: Giáo viên sử dụng máy chiếu Projector chiếu bản đồ biển Đông
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh thảo luận lớp:
- Em cho biết âm mưu, những biểu hiện và hành động cụ thể của Trung Quốc xâm
chiếm biển Đông đặc biệt là quần đảo Hàng Sa - Trường Sa của Việt nam trong thời
gian gần đây?
- Việc làm này của Trung Quốc đúng say sai? Có dựa trên pháp luật quốc tế hay

không? Vì sao?
- Cho biết quan điểm đấu tranh của Đảng và Nhà nước ta về tranh chấp biển Đông,
đặc biệt là về việc Trung Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan HD981 đạt tại vùng biển
thuộc thềm lục địa của nước ta?
Học sinh: Các nhóm thảo luận trong 4 phút, sau đó học sinh trả lời
Giáo viên: Kết hợp hành ảnh và tư liệu giảng giải, giảng diễn cho học sinh và
kết luận:
* Yêu sách hoang đường và phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông: “Đường lưỡi
bò” hư ảo cùng những bước đi nguy hiểm.

Bản đồ thể hiện “Đường lưỡi bò” hết sức phi lý của Trung Quốc

Vào ngày 7-5-2009, cộng đồng quốc tế không khỏi ngạc nhiên khi Trung Quốc
bỗng dưng gửi Công hàm lên Tổng Thư ký Liên hợp quốc có kèm bản đồ thể hiện
12


"Đường lưỡi bò” chiếm đến 80% Biển Đông, bộc lộ đòi hỏi phi lý rằng gần như toàn
bộ diện tích Biển Đông sẽ trở thành "ao nhà” của mình.
Lý giải về xuất xứ của "Đường lưỡi bò” ham hố kỳ lạ, học giả Lý Lệnh Hoa nghiên cứu viên Trung tâm Thông tin Hải dương Trung Quốc - thừa nhận, năm 1946,
có một hạm đội của Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông và "đi cùng hạm đội có
một ông ở Bộ Địa chất và Khoáng sản vung bút vẽ đại một đường đứt khúc hư ảo
thành một cái túi to tướng. Sau khi quay về, in vào bản đồ của Chính phủ Trung Hoa
Dân Quốc, đem công bố, thế là ra đời một đường biên giới”. Thế nhưng "đường lưỡi
bò” hư ảo thể hiện bằng đường đứt khúc 11 đoạn từ sự "vung bút vẽ đại” của một cá
nhân lại được đem in trên bản đồ, được Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ Cộng
hòa Trung Hoa xuất bản tháng 2-1948 với tên gọi Nam hải chư đảo vị trí đồ. Bản đồ
có "đường lưỡi bò” này được thể hiện bao trùm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam trên Biển Đông. Năm 1949, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa tiếp tục ấn hành một bản đồ trong đó có "đường lưỡi bò” được thể hiện giống

như bản đồ nói trên của Cộng hòa Trung Hoa (do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, đã bị
thất bại phải rút ra đảo Đài Loan). Do bản chất mơ hồ, cảm tính, thiếu cơ sở đã dẫn
đến sự bất nhất về hình thù của "đường lưỡi bò”. Cụ thể, năm 1953, bản đồ vẽ
"đường lưỡi bò” do Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn sau khi bỏ 2 đoạn đứt khúc.
Cho đến trước thời điểm ngày 7-5-2009, các quốc gia trên thế giới cũng như
các thiết chế quốc tế chưa bao giờ được biết một cách chính thức và cũng chưa bao
giờ chấp nhận "đường lưỡi bò” tùy tiện này của Trung Quốc.
Như vậy, rõ ràng, "đường lưỡi bò” không xuất phát từ những căn cứ khoa học,
khách quan, mà chỉ xuất phát từ lợi ích và tham vọng độc chiếm Biển Đông, bất chấp
luật pháp quốc tế của Trung Quốc. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn không thể giải thích
được về bản chất của "đường lưỡi bò” và chế độ pháp lý của vùng biển được bao bởi
đường vẽ tùy tiện này theo luật pháp quốc tế.

Tàu Bình Minh 02 của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam bị tàu Trung Quốc cắt cáp trong
vùng biển chủ quyền Việt Nam ngày 26-5-2011

13


Hiện nay, Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách hợp thức hóa "đường lưỡi bò”
trên Biển Đông, kể cả các hoạt động mang tính bạo lực. Đó là việc trang bị mạnh cho
lực lượng kiểm ngư để bắt giữ các ngư dân, các tàu cá Việt Nam và các nước hoạt
động bình thường hợp pháp trong khu vực này; gây hấn cắt cáp tàu Việt Nam hoạt
động trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam; táo tợn mời thầu quốc tế 9 lô nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam; cố tình tuyên bố gộp cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cùng vùng biển trong "đường lưỡi
bò” vào cái gọi là "Thành phố Tam Sa”.
Đặc biệt nghiêm trọng, từ 2-5-2014, Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ HD
981 cùng hàng chục tàu hộ tống táo tợn xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của Việt Nam, tấn công làm hư hại tàu Việt Nam đang thực thi pháp luật.


2-5-2014, Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ HD 981 cùng hàng chục tàu hộ tống táo tợn
xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, tấn công làm hư hại tàu Việt
Nam đang thực thi pháp luật.

Xâu chuỗi lại tất cả, cho thấy những bước đi hết sức nguy hiểm của Trung
Quốc trái với các quy định của Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc
và thông lệ quốc tế, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam. Yêu sách về
"đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc không chỉ vi phạm quyền lợi, xâm phạm chủ
quyền của Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của hầu hết các quốc gia trong
khu vực ASEAN cũng như các quốc gia liên quan trong cộng đồng thế giới.
* Chủ trương, quan điểm đấu tranh của Đảng, Nhà nước trong giải quyết tranh
chấp biển đảo, đặc biệt là trước sự kiện Trung Quốc đặt giàn khoan HD 981 vào
vùng biển - thềm lục địa của nước ta:
Ngay sau thông báo của Cục Hải sự Trung Quốc hôm 3/5/2014 ra thông báo
cho biết giàn khoan có tên Hải Dương 981 (HD-981) sẽ tiến hành khoan và tác
14


nghiệp tại vị trí có tọa độ trong thềm lục địa của Việt Nam từ ngày 2/5 đến 15/8 , Bộ
Ngoại giao Việt Nam khẳng định việc làm này của Trung Quốc đã xâm phạm quyền
chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên hợp
quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp phù
hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Đồng thời, Việt
Nam luôn thể hiện thiện chí, kiên trì giải quyết thỏa đáng bất đồng thông qua đàm
phán, đối thoại và các biện pháp hòa bình khác. Cụ thể là:
- Bảo vệ Tổ quốc phải dựa vào chính nội lực và sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
Đồng thời xử lý tranh chấp bằng con đường ngoại giao, không để sơ hở, không tạo cơ
hội cho Trung Quốc có những hành động làm phức tạp thêm tình hình.
- Cần nâng cao sức mạnh của các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo; động

viên ngư dân khôn khéo, kiên trì bám trụ; kiên quyết đấu tranh không lùi bước bằng
các biện pháp thích hợp. Thường xuyên minh bạch quan điểm, hành vi phù hợp với
luật pháp quốc tế và tạo tiếng nói ủng hộ từ cộng đồng quốc tế.
Đặc biệt ghi nhớ rằng đấu tranh phản đối Trung Quốc phải:
- Bám sát luật pháp quốc tế và Hiến pháp, pháp luật nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đấu tranh ngoại giao pháp lý là chủ yêu, đấu tranh trên thực địa,
không để đối đầu trực tiếp.

Màu cờ Việt Nam nhuộm đỏ góc phố nơi Đại sứ quán Trung Quốc đặt trụ sở để biểu tình phản
đối Trung Quốc.

15


Gần 800 học sinh và giáo viên của trường THPT Lê Quý Đôn (TP.Biên Hòa, Đồng Nai) xếp thành hình bản đồ Tổ quốc, với
thông điệp mạnh mẽ khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sáng 16/5, hơn 1.000 học sinh cùng toàn thể thầy cô giáo trường THPT Phan Huy Chú (Đống Đa, Hà Nội) tạo
hình lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của đất nước Việt Nam.

16


Hơn lúc nào hết, mỗi chúng ta hãy hết sức linh hoạt trong vấn đề đấu tranh
phản đối Trung Quốc tránh, đặc biệt không để kẻ xấu kích động, biểu tình đập phá
các doang nghiệp của Trung Quốc làm xấu đi hình ảnh một quốc gia yêu nước, yêu
chuộng hòa bình trên trường quốc tế. Đúng như yêu càu của Bộ chính trị thực hiện tốt
tinh thần chỉ đạo 6K:
1/ Kiên quyết (đấu tranh bảo vệ chủ quyền)
2/ Kiên trì ( Lâu dài, gian khổ)

3/ Không khiêu khích ( không tạo cớ cho chúng đánh chiếm xung đột)
4/ Không mắc khiêu khích
5/ Khôn khéo ( vừa đấu tranh ngăn cản, vừa tránh đâm va, vừa tuyên truyền
đặc biệt)
6/ Không để sảy ra xung đột
Tóm lại, Biển đảo Việt Nam là một bộ phận thiêng liêng của Tổ quốc Việt
Nam, nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc rất nặng nề. Nhiệm
vụ ấy đòi hỏi toàn dân tộc, mọi người con đất Việt, các thế hệ học sinh - người chủ tương lai
của dất nước, là trách nhiệm của chúng ta, của các thế hệ ngày nay và mai sau phải tiếp
tục gìn giữ, xây dựng và phát triển.
2.4. Hiệu quả:
Từ năm học 2013- 2014 đến nay Tôi mạnh dạn đưa nội dung biển vào giảng
dạy trong tiết học ngoại khóa kết quả cho thấy các em đã có nhận thức và cách nhìn
đúng đắn hơn về nội dung biển đảo của đất nước, cụ thể khi điều tra xã hội học ở học
sinh lớp Khối lớp 10 năm học 2013 - 2014, 2014 - 2015 cho kết quả như sau:
TT
Nội dung dược hỏi
ý kiến học sinh (%)
Nhận thức
Nhận thức
Nhận thức
đúng
không đầy đủ
không
đúng
1 Vai trò của biển đảo nước ta
89%
11%
0%
2 Chỉ trên lược đồ vùng biển đông

98%
2%
0%
3 Chỉ trên lược đồ các đảo và quần
100%
0
0%
đảo của nước ta
4 Cơ sở pháp lý quần đảo Trường
87%
13%
0%
Sa và Hoàng Sa
5 Luật biển Việt Nam
86%
14%
3%
6 Công ước Liên Hợp quốc về
85%
11%
4%
Luật Biển năm 1982
7 Quan điểm đấu tranh giữ gìn
98%
2%
0%
biển đảo của Đảng, Nhà nước ta
Với kết quả đối trứng như trên, có thể khẳng định rằng: Việc tích hợp giảng
dạy nội dung biển đảo quê hương vào tiết học ngoại khóa môn giáo dục công dân lớp
10 đem lại hiệu quả cao trong dạy - học. Với việc đưa nội dung giáo dục biển đảo quê

17


hương vào dạy học tiết ngoại khóa ở môn giáo dục công dân lớp 10 đem lại hiệu quả
rất lớn trong dạy học của giáo viên và học tập của học sinh. Cụ thể là:
Về phía giáo viên: giúp giáo viên chủ động hơn được về kiến thức trong dạy
học về vấn đề biển đảo, nhất là cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử - thực tiễn khẳng định chủ
quyền hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Cùng với đó, hỗ trợ và
định hướng cho giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích
cực, gây hứng thú cho học sinh học tập trong tiết học ngọai khóa. Thông qua tiết học,
giáo viên thực hiện tốt nội dung tuyên truyền về biển đảo cho học sinh, những mầm
non của đất nước, điều này không chỉ có ý nghĩa tức thời trong nhà trường mà còn có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc đóng góp vào hoạt động tuyên truyền về chủ quyền
biển đảo, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Về phía học sinh: giúp các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức về biển đảo dễ
dàng hơn, các em hứng thú, chủ động hơn trong học tập và tìm hiểu quan điểm, chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Từ việc
nhận thức rõ cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử - thực tiễn chủ quyền biển đảo, trong đó có
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, giúp các em có nhận thức và
thái độ đúng đắn và nghiêm túc trong việc tuyên truyền, bảo vệ biển đảo quê hương,
có kỹ năng đấu tranh, lên án phe phán những luận điệu xuyên tạc về chủ quyền biển
đảo của đất nước. Mặt khác, qua việc dạy học này, nâng cao nhận thức cho các em về
Luật Biển Việt Nam năm 2012, về Công ước Luật biển Quốc tế năm 1982, quyết tâm nỗ
lực của các nước ASEAN trong xây dựng, tiến tới thực hiện bộ quy tắc ứng xử trên Biển
Đông (COC). Đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù
địch, lợi dụng vấn đề Biển Đông để kích động, lôi kéo, chia rẽ giữa các nước trong khu
vực.

18



3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

- Kết luận:
Có thể khẳng định rằng: với việc đưa nội dung biển đảo vào dạy học tiết ngoại
khóa ở môn giáo dục công dân lớp 10, một mặt đã đáp ứng yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy và học theo hướng tích cực, đáp ứng nhu cầu khẩn thiết cả về nội dụng lần
thực tiễn của giáo viên và học sinh - những người dạy và học môn giáo dục công dân
đối với vấn đề biển đảo. Đối với học sinh, giúp học sinh có những nhận thức đúng
đắn về tình hình biển Đông ở nước ta hiện nay, cùng với quan điểm và chủ trương
của Đảng, Nhà nước về đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương. Từ đó, giúp
các em có những hàng động và việc làm ý nghĩa, thiết thực góp phần cùng với toàn
dân tộc chung sức giữ gìn biển đảo quê hương Tổ quốc ta.
Mặt khác, qua đó tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho mỗi thanh niên - học
sinh, người thân trong gia đình tình yêu biển đảo, tình yêu quê hương đất nước, ý
thức giữ gìn chủ quyền biển đảo quê hương và hơn hết là ý thức không ngừng học tập
vươn lên đem hết khả năng của mình để bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, biết
lên án, phê phán và đấu tranh chống lại mọi xuyên tạc về chủ quyền biển đảo của
nước ta.
- Kiến nghị:
Đối với giáo viên: Giáo dục, tuyên truyền về biển đảo quê hương - một bộ
phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, đây là một vấn đề mang tính thời sự, chính
trị, cho nên để giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên phải trang bị cho mình những
kiến thức sâu rộng về vấn đề biển đảo. Vì vậy, trong dạy học phải luôn nắm vững
những chủ trương và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề biển đảo và phải
có lập trường kiên định vững vàng, phải biết cập nhật, sàng lọc và nhận thức đúng
đắn về những thông tin, những tư liệu tiếp nhận được. Đặc biệt, trong mọi tình huống
giáo dục giáo viên phải xây dựng và vun đắp được tình yêu, niềm tin tuyệt đối trong
thanh niên - học sinh về quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề giải
quyết vấn đề biển đảo, luôn gơi dậy truyền thống yêu nước bảo vệ chủ quyền lãnh

thổ trong các em – người chủ tương lai của đất nước, từ đó các em thấy được nhiệm
vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc là rất nặng nề. Nhiệm vụ ấy là
trách nhiệm của toàn dân tộc, của mọi người con đất Việt, của các thế hệ ngày nay và
mai sau phải tiếp tục gìn giữ, xây dựng và phát triển.
Đối với sở giáo dục và đào tạo: Lâu nay bộ môn Giáo dục công dân vẫn bị
xem là một môn học phụ, môn học ngoài lề cho nên không thu hút được học sinh học
tập. Về tài liệu tham khảo, đồ dùng, thiết bị phục vụ cho dạy học bộ môn là rất thiếu
thốn. Nhất là những tài kiệu liên quan đến vến đề về biển đảo của đất nước.
Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong giáo dục, tuyên truyền nội
dung biển đảo quê hương qua dạy học bộ môn, đề nghị sở giáo dục và sở giáo dục
đào tạo cần quan tâm hơn nữa đến việc dạy và học của bộ môn giáo dục công dân, coi
trọng đúng mức tầm quan trọng của bộ môn. Cung cấp những tài liệu, sách tham
khảo, thiết bị, đồ dùng dạy học đầy đủ hơn cho bộ môn giáo dục công dân ở trường
trung học phổ thông, trong đó đặc biệt là những tài liệu liên quan đến vấn đề biển đảo
quê hương của Tổ quốc.
19


Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Xác nhận của Hiệu Trưởng

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của Tôi viết, không được
sao chép nội dung của người khác

Ngô Ngọc Tuyên

20




×