Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng môn giáo dục quốc phòng an ninh lớp 11 tại trường thpt thạch thành 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.16 KB, 19 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
An ninh quốc phòng là vấn đề quan trọng trọng tâm trong chiến lược bảo vệ
tổ quốc. Trong thời đại mới việc giáo dục tư tưởng và hành động cho học sinh- chủ
nhân tương lai cho tổ quốc về các những kiến thức cơ bản bước đầu về đường lối
quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực
lượng vũ trang khi cần thiết và về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người
mới XHCN càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến
lược đào tạo con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học
sinh nói riêng lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể,
tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường,
góp phần hình thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt khác, GDQP-AN còn
trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Trong quá trình công tác với nhiều năm giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng
– an ninh, bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy giáo viên phải chuyển tải nhiều
kiến thức đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như thực hành phải hợp lý
khoa học mới giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài dạy. Bên cạnh đó trước yêu
cầu không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi giáo viên cần phải đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hoá hơn nữa quá trình học tập của học
sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc học sinh phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm
bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến thức từ đó điều chỉnh, cải tiến
phương pháp học tập biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Xuất phát từ những điều đó và qua quá trình giảng dạy tôi đã rút ra một số
kinh nghiệm nhỏ về “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập môn
Giáo dục Quốc phòng- An ninh lớp 11 tại trường THPT Thạch Thành III” muốn
chia sẻ với các đồng nghiệp, nhằm góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy
học, nâng cao chất lượng dạy và học, từ đó làm tăng hứng thú học tập của học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu


Trong giáo dục dạy học nói chung và trong giáo dục quốc phòng nói riêng
việc nâng cao chất lượng học tập cho học sinh là rất quan trọng và cần thiết để từ
đó đào tạo nên con người mới phát triển toàn diện. Chính vì vậy mà tôi nghiên cứu
đề tài này nhằm tìm một số giải pháp giáo dục dạy học để từ đó nâng cao chất
lượng học tập của học sinh lớp 11.


3. Đối tượng nghiên cứu
- Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Giáo dục Quốc
phòng- An ninh của học sinh.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Phương pháp quan sát sư phạm.
+ Phương pháp điều tra đánh giá.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
+ Phương pháp đối chiếu kết quả so sánh.
+ Phương pháp trao đổi, thảo luận.


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
I. Cơ sở lí luận
Giáo dục quốc phòng-an ninh (GDQP-AN) cho học sinh THPT là một mặt
của quá trình hình thành nhân cách, là một khâu quan trọng của giáo dục toàn diện,
nằm trong chiến lược đào tạo con người mới của Đảng và Nhà nước ta. Môn học
GDQP-AN cho học sinh THPT được thực hiện từ năm 1961 và hiện nay trở thành
môn học chính khóa theo Nghị định 15/2001/NĐ-CP, ngày 01-5-2001 của Chính
phủ. Những năm qua, GDQP-AN cho học sinh THPT đã có bước phát triển mới,
đạt kết quả quan trọng. Ngoài việc trang bị kiến thức cần thiết về QP-AN, môn học
đã góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức

khỏe, thẩm mỹ và hướng nghiệp; xây dựng cho các em ý thức tổ chức kỷ luật, nền
nếp, kỷ cương trong nhà trường, nếp sống tập thể, mình vì mọi người, chống thói
ích kỷ, cá nhân, cùng với các hoạt động khác đẩy lùi các hành vi tiêu cực và tệ nạn
xã hội thâm nhập vào học đường.
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo cũng đã
nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Năm học 2015-2016 Trường THPT Thạch Thành III tiếp tục chỉ đạo triển
khai thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung trọng tâm: Nói không
với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích; nói không với vi phạm đạo đức nhà
giáo và việc cho học sinh ngồi nhầm lớp. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực
hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/6/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Để đạt được mục tiêu đề ra là
đảm bảo chất lượng giáo dục ổn định và phát triển vững chắc nên ngay từ đầu năm
học Trường THPT Thạch Thành III đã chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền đến
toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và các bậc phụ huynh hiểu rõ mục đích, yêu
cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Trường THPT Thạch Thành III là một trong những đơn vị trong huyện có
điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân bãi đáp ứng số lượng tiết
học giáo dục quốc phòng – an ninh cho gần 1000 học sinh. Tiết học giáo dục quốc
phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho học sinh những tri thức cơ bản của
nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết về tổ chức QĐND Việt Nam,
về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng


nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất

bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Trong Giáo dục quốc phòng an ninh lớp 11, học sinh được làm quen với tác
phong quân đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản
trong chiến đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến đấu
như ném lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ... Từ đó giáo dục cho học sinh lòng
yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn
biến hoà bình của kẻ thù. Vì vậy toàn bộ chương trình học tập môn Giáo dục quốc
phòng an ninh lớp 11 nói riêng và cả bậc THPT nói riêng được xây dựng theo
chương trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân
phối chương trình. Trong các tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh học sinh tham
gia học đầy đủ tích cực sôi nổi và hào hứng; Và phải được quán triệt trong tất cả
các môn học trong mọi hoạt động của học sinh, ở mọi lúc, mọi nơi, có vậy mới có
thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng hiện tại và tương lai.
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi
- Trường có một đội ngũ sư phạm trẻ có chuyên môn tốt đều đạt chuẩn và
trên chuẩn về kiến thức, nhiệt tình, tận tụy với công tác quản lý và giảng dạy.
- Tập thể sư phạm nhà trường đoàn kết, tương thân tương ái, chịu khó học
hỏi. Các đoàn thể có sự phối hợp chặt chẽ trong việc tổ chức các hoạt động giáo
dục dưới sự lãnh đạo toàn diện của chi bộ Đảng.
- Cơ sở vật chất của Nhà trường đã được xây dựng mới khang trang, thuận
lợi cho việc giảng dạy và học tập của cả thầy và trò.
- Đối với môn Giáo dục quốc phòng – An ninh:
+ Nhà trường cùng các cấp lãnh đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận
lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh đều được đào tạo vững về
chuyên môn, nhiệt tình và tâm huyết với môn học.
+ Cơ sở vật chất điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết
cho môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh tương đối đầy đủ.
- Nề nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng cấp,
từng khâu nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt.

2. Khó khăn
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn là giáo viên
được đào tạo từ chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An
ninh, tuy được đào qua lớp giáo viên giáo dục Quốc phòng và được tập huấn về


chuyên môn thường xuyên hàng năm, nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và
thời gian được lĩnh hội về chuyên môn có hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn
trong giảng dạy.
- Đối với học sinh: Các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình và do yêu
cầu về lượng kiến thức của các giờ học và môn học khác cộng thêm áp lực từ phía
không ít phụ huynh nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và việc xác định nhiệm
vụ học tập đối với bộ môn này. Đối với một phận nhỏ học sinh còn ngộ nhận và coi
đây là môn học phụ dẫn đến ý thức học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh
chưa cao.
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tuy đã được trang bị nhưng vẫn còn
thiếu. Tranh ảnh giảng dạy còn hạn chế ở một số nội dung.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Một vài kinh nghiệm nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An
Ninh
1.1. Tuyển chọn VĐV thi đấu Hội thao GDQP-AN cấp tỉnh
*Biện pháp thực hiện:
Về thời gian hội thao cấp Tỉnh thực hiện 2 năm/1lần, cấp trường tổ chức
hằng năm theo hướng dẫn năm học về GDQP-AN, sau khi đã có kết quả hội thao
cấp trường (liền kề với Hội thao cấp tỉnh) thì tổ trưởng chuyên môn bắt đầu lập kế
hoạch, phân công giáo viên chịu trách nhiệm từng môn thi.
Môn điều lệnh quan trọng nhất là chọn cho được một học sinh làm chỉ huy
phải có dáng dấp quân đội, tiếng hô to, rõ, mạnh dạn và dứt khoát. Sau đó phân
công trực tiếp cho em làm Tiểu đội trưởng của một tiểu đội trong lớp, giáo viên nào
hướng dẫn lớp đó sẽ bồi dưỡng trực tiếp cho em đó. Song song thì các giáo viên

còn lại cũng tự tìm kiếm một tiểu đội trưởng và huấn luyện cho em đó, rồi cuối
cùng chọn ra một tiểu đội trưởng tham gia Hội thao.
Các môn còn lại sẽ chọn theo thành tích đạt được trong hội thao, số lượng
chọn thì gấp đôi để sau khi tập luyện sẽ chọn VĐV chính thức được hoàn hảo hơn.
Sau đó sẽ biên chế về các lớp, rồi giáo viên được phân công sẽ có kế hoạch tập
luyện ở những giờ ngoại khóa (theo quy định kế hoạch tập luyện hội thao cấp tỉnh).
1.2. Tuyển chọn học sinh tháo lắp súng
* Biện pháp thực hiện:
Căn cứ hướng dẫn số 1547/SGDĐT_ GDTH ngày 13 tháng 9 năm 2010 V/v
Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục quốc phòng năm học 2010-2011


Căn cứ kế hoạch tổ chức học tập môn học GDQP của nhà trường; Qua quá
trình học tập nội dung tháo lắp súng của học sinh;
Hằng năm Sở Giáo dục và Đào tạo kết hợp Bộ Chỉ huy Quân sự tổ chức thi
tháo lắp súng cho học sinh.
Theo kế hoạch rong quá trình giảng dạy bài kĩ thuật tháo lắp súng tiểu liên
AK tại lớp các giáo viên phải chọn cho mình một số học sinh có kết quả học tập tốt
sau đó sàng lọc lại một lần nữa và việc đầu tiên là cho học sinh khám sức khỏe.
Hiện nay tại các nhà trường đều có bộ phận Y tế trường học cho nên việc khám sức
khỏe cho các em cũng rất dễ dàng và đỡ phần tốn kém. Việc khám sức khỏe tập
trung chú ý vào huyết áp và tim mạch của các em. Những học sinh nào có vấn đề
về huyết áp và tim mạch thì dứt khoác bị loại. Sau đó tiếp tục có kế hoạch tập
luyện, giáo dục về tâm lý khi nhất là học sinh mới lần đầu tháo lắp súng (yếu tố này
rất quan trọng) rồi sau đó thực hành. Điều quan trọng nhất phải giáo dục cho các
em thật kỉ lưởng, phải bình tỉnh, tự tin không cẩu thả, không giật mình.
Những nguyên tắc cần lưu ý đối với học sinh khi học tháo lắp súng, đạn:
- Nắm chắc tính năng của súng
- Quan sát phát hiện mục tiêu nhanh, ước lượng đúng, không để phân tán khi
thưc hiện kĩ thuật động tác.

- Tích cực học tập, ôn luyện, rèn luyện sức khỏe, tâm lý để phục vụ tốt cho
bài tập. Chấp hành nghiêm qui tắc bảo đảm an toàn trong quá trình luyện tập và
thực hành với súng.
1.3. Dụng cụ sân bãi
*Biện pháp thực hiện:
- Về sân bãi thì được nhà trường thường xuyên tu bổ nên sân bãi luôn đảm
bảo đúng qui cách.
- Về dụng cụ súng tập: Đơn vị trường Trung học phổ thông Thạch Thành III
được trang bị súng tập đầy đủ cho học sinh có thể đáp ứng cho 03 lớp học trùng giờ
có sử dụng đến súng tập.
1.4. Kết hợp với Nhà trường tổ chức học tập ngoại khóa
*Biện pháp thực hiện:
Bên cạnh hoạt động nội khóa tức hoạt động dạy học được ghi cụ thể trong kế
hoạch còn có các hoạt động khác phục vụ cho việc dạy học nhưng không được ghi
trong chương trình đó là hoạt động ngoại khóa. Hoạt động ngoại khóa có vai trò hỗ
trợ giúp học sinh nắm vững kiến thức của chương trình một cách toàn diện và có
khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.


Trong những năm qua, Ban giám hiệu Nhà trường chỉ đạo, xây dựng kế
hoạch dạy học trong đó giáo viên được chọn các hình thức tổ chức dạy học nhờ đó
tôi đã đề nghị với tổ trưởng bộ môn và Ban giám hiệu nhà trường tổ chức hoạt động
ngoại khóa cho học sinh như tham quan, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể
thao kết hợp với tìm hiểu ngày thành lập Quân đội nhân dân, ngày thành lập Công
An nhân dân, ngày thành lập Tỉnh, thi tìm hiểu về biển đảo quê hương, về phòng
chống ma túy, HIV…
Khi tổ chức hoạt động ngoại khóa giáo viên cần xác định hướng và nội dung
hoạt động để có thể mở rộng những vấn đề trong hệ thống kiến thức của chương
trình hoặc củng cố những nội dung đã được trình bày trên lớp,…Tuy nhiên tất cả
những nội dung đó cần đạt được mục đích là nâng cao tầm hiểu biết của học sinh

và khêu gợi được sự thích thú của các em.
Ví dụ trong chương trình lớp 11:
- Đối với chuyên đề Toàn vẹn lãnh thổ chủ quyền Việt Nam, các em học sinh
bày tỏ niềm tin, lòng yêu nước, hiểu sâu sắc hơn biển đảo của Việt Nam, từ đó hình
thành nhân cách sống và bảo vệ môi trường xanh, sạch đẹp và càng cảm thấy yêu
thương đất nước mình hơn…
- Đối với chuyên đề Luật nghĩa vụ quân sự, ngoài kiến thức có được từ bài
học các em tìm tòi thêm những ý kiến của các bạn những thông tin hình ảnh từ tạp
chí báo đài, và thông tin trên mạng… từ đó những suy nghĩ về nghĩa vụ quân sự đối
với các em sau khi làm chuyên đề, mỗi em đều bày tỏ những ý kiến của mình rất
chân thành, thể hiện tinh thần xung phong, tự giác, tự nguyện khi đến tuổi nhập
ngũ…
Qua đó đã nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật Nhà nước, truyền thống của quê hương, đất nước, nâng cao
nhận thức về quốc phòng, an ninh cho học sinh từ đó các em càng hăng say học tập
và yêu thích bộ môn quốc phòng an ninh
1.5. Dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm
*Biện pháp thực hiện:
Thảo luận nhóm là phương pháp GV chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, các
thành viên trong nhóm suy nghĩ, trao đổi từ đó đưa ra ý kiến chung của cả nhóm về
vấn đề được giao. Khác với kiểu dạy học truyền thống truyền thụ một chiều: thầy
nói trò nghe, thảo luận nhóm là phương pháp giúp học sinh được bộc lộ những khả
năng của bản thân, hình thành kỹ năng tư duy, hợp tác trao đổi, chia sẻ và học hỏi
lẫn nhau. Thảo luận nhóm tạo không khí sôi nổi, thoải mái trong học tập. Học sinh
luôn có được cảm giác tự do, không bị áp đặt qua đó phát huy được tính tích cực,
chủ động sáng tạo của mình trong quá trình khám phá và chiếm lĩnh tri thức.


Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm lấy học sinh làm trung tâm có nhiều
ưu điểm như:

+ Tạo cho học sinh thói quen tự nhận thức, suy nghĩ về những vấn đề đặt ra
trong môn học.
+ Tạo động cơ để học sinh mở rộng, đào sâu và nâng cao hơn sự hiểu biết về
những vấn đề thảo luận.
+ Học sinh có cơ hội được lắng nghe, đánh giá, so sánh quan điểm, ý kiến
của chính mình với ý kiến của những người tham gia thảo luận; được khẳng định và
thể hiện chính kiến của mình.
+ Tạo cách ứng xử, phản hồi nhanh về những vấn đề đặt ra.
Ngoài ra, sử dụng phương pháp thảo luận nhóm còn có ý nghĩa “kép” bởi nó
không chỉ thuần túy thể hiện những hiểu biết về nội dung thảo luận mà còn bộc lộ
thái độ, cảm xúc, kinh nghiệm thực tế của học sinh xung quanh những nội dung đó.
Mặt khác, với hình thức thảo luận nhóm không chỉ học sinh mà bản thân giáo viên
cũng có thể cập nhật, bổ sung, điều chỉnh tri thức của mình thông qua những ý
kiến, kinh nghiệm, chia sẻ hữu ích từ cuộc thảo luận. Phương pháp này kích thích
lòng ham mê học tập của học sinh, tránh lối học thụ động giúp học sinh phát triển
kỹ năng giải quyết vấn đề theo nhóm, có tinh thần đoàn kết cao; học sinh hợp tác
hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình học tập, tự đánh giá, tự điều chỉnh vốn tri thức của
bản thân bằng phương pháp tự học và khám phá thêm những kiến thức liên quan từ
thực tiễn. Khi nhóm thảo luận hoạt động dưới sự giám sát của thầy cô giáo, giúp
hạn chế rất nhiều những thói quen xấu như nói chuyện riêng, thiếu tập trung, đùa
giỡn …Đa số học sinh đều dùng phương pháp suy luận và tư duy để giải quyết vấn
đề nên những tri thức khoa học mà các em thu thập được sẽ khắc sâu và dễ nhớ.
Trong thảo luận nhóm thông thường giáo viên xem xét, định hướng để các
nhóm đặt câu hỏi và chọn câu hỏi hay yêu cầu nhóm khác thảo luận trả lời. Nhóm
hỏi tranh luận trực tiếp với người trả lời. Sau khi nghe câu trả lời, nhóm đặt câu hỏi
phải phản biện được, đúng ở đâu, sai ở đâu, góp ý gì để cho câu trả lời hoàn thiện.
Như thế yêu cầu người hỏi phải nắm vững câu hỏi, tham gia với tinh thần đóng
góp, xây dựng tốt. Đây là một mô hình tốt, rất đáng học tập, thu hút được học sinh.
1.6. Sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học
*Biện pháp thực hiện:

Sử dụng CNTT trong dạy học nhằm giúp giáo viên và học sinh sử dụng công
nghệ một cách có hiệu quả để phát triển việc học của học sinh một cách độc lập
sáng tạo, phát triển môi trường học tập với nhiều thuận lợi từ đó giúp người học
học tích cực, được tiếp xúc nội dung học tập theo nhiều con đường khác nhau như


tham khảo các tài liệu in, tài liệu trên Internet,…và với nhiều đối tượng khác nhau
như các học sinh trong và ngoài lớp học, các thầy giáo khác,…
Ngoài ra, xét về góc độ tâm lí lứa tuổi, học sinh lớp 11 đang trong giai đoạn
phát triển của nhận thức và con đường nhận thức của các em cũng không thoát khỏi
quy luật: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Do đó, việc sử
dụng công nghệ thông tin vào dạy học để có thể cung cấp cho các em những tư liệu
trực quan sinh động (Tranh ảnh, bản đồ, phim tư liệu…), giúp các em biết và hiểu
được bản chất của vấn đề quốc phòng an ninh quốc gia là hoàn toàn phù hợp với
các em.
Ứng dụng CNTT giáo viên có thể dễ dàng tìm kiếm nhiều các tư liệu kết hợp
hình ảnh mầu, hiệu ứng đa chiều với âm thanh trong bài dạy và giúp cho việc thiết
kế bài dạy phong phú, đang dạng và hiệu quả, tạo sự hứng thú cho học sinh.
Từ nội dung trên, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp như sau:
- Về phía nhà trường:
+ Đẩy mạnh tuyên truyền cho giáo viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang
tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua
việc triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành, thông qua các buổi sinh hoạt
chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề và qua việc triển khai các cuộc thi có ứng
dụng CNTT do ngành tổ chức.
+ Phát động sâu rộng thành phong trào và đề ra yêu cầu cụ thể về số tiết ứng
dụng CNTT - đặc biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học. Để mỗi giáo viên
qua áp dụng thấy được hiệu quả và sự cần thiết của việc ứng dụng CNTT trong
giảng dạy,
+ Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm

Tin học với giảng viên là giáo viên CNTT và những giáo viên có kỹ năng tốt về Tin
học của trường, theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ yếu vào
những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng hàng ngày như
lấy thông tin, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách
chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu,
máy quay phim, chụp ảnh, cách thiết kế bài kiểm tra,...
+ Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm ứng
dụng CNTT trong giảng dạy.
+ Định hướng cho giáo viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng
dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho
giáo viên như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án powerpoint, hướng dẫn sử dụng máy
chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử e- Learning,…


+ Bố trí phòng Hội đồng, phòng thư viện đều có kết nối Internet để cán bộ,
giáo viên được truy cập Internet thường xuyên.
+ Lắp đặt thêm phòng học chức năng để giáo viên dễ dàng trong việc đăng kí
và sử dụng.
- Đối với giáo viên:
+ Cần mạnh dạn, không ngại khó, tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử
của mình sẽ giúp cho giáo viên rèn luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp tốt các
phương pháp dạy học tích cực khác.
+ Tự xây dựng ngân hàng tư liệu (phim, ảnh…) phục vụ cho các tiết dạy ứng
dụng CNTT.
+ Khi thiết kế Bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu (Video,
hình ảnh), chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt tay vào soạn
giảng.
+ Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá
trình dạy học và sự phát triển của học sinh.
+ Tích cực tham gia các cuộc thi ứng dụng CNTT do ngành tổ chức. Bởi vì

thông qua đó giáo viên sẽ rèn luyện được các kỹ năng, có thêm nhiều kinh nghiệm
từ học hỏi đồng nghiệp.
1.7. Giảng dạy bằng giáo án điện tử
* Biện pháp thực hiện:
- Về thiết kế bài giảng:
Để thiết kế được một giáo án điện tử phục vụ cho tiết dạy, người giáo viên
cần có những kiến thức cơ bản như:
+ Biết sử dụng máy vi tính.
+ Biết sử dụng phần mềm PowerPoint.
+ Biết truy cập Internet.
+ Biết cách sử dụng máy chiếu (Projector).
Các công đoạn thường theo một qui trình sau:
+ Lên kế hoạch về nội dung.
+ Lập bảng dự kiến nội dung chi tiết cho từng slide.
+ Sưu tầm tài liệu (hình ảnh, âm thanh, sơ đồ,….)
+ Nhập nội dung cho từng slide trên Powerpoint.


+ Chỉnh sửa, trình bày các slide, cải tiến bài trình diễn
+ Tạo trình diễn
+ Lưu bài trình diễn
Bài giảng điện tử cần đảm bảo được về nội dung và hình thức trực quan, sinh
động và lôi cuốn. Vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các đoạn phim
ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm mỹ cũng cần
được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu sắc, hình thức
đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang, chạy chữ…)
làm cho học sinh mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và mất thời gian
vô ích.
Nội dung bài giảng cần được chỉnh sửa và thu gọn cho phù hợp với nội dung
các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh nghiệm của tôi sẽ đưa lên slide những

thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng phương pháp truyền thống), chủ yếu là
các đề mục và một số nội dung tóm tắc hay các trích dẫn… tuyệt đối không bê
nguyên bài soạn vào slide. Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện
tử là phải chọn màu nền, phông chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu
khá quan trọng, làm tốt khâu này sẽ giúp học sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi
được slide đồng thời chữ không quá lớn, chiếm quá nhiều “đất” của mỗi slide; màu
nền, màu chữ cũng cần hài hòa sao cho đảm bảo độ tương phản nhưng không quá
lòe loẹt hay ảm đạm gây phản cảm. Do chưa có một chuẩn chung, do đó tôi phải
thiết kế thử và giảng thử nhiều lần trên lớp, lấy ý kiến giáo viên trong tổ và của học
sinh để chọn được một phương án phù hợp nhất. Nên cố gắng mô hình hóa nội
dung bài giảng thành các sơ đồ, mô hình, đồ thị để chuyển các slide. Công việc này
chiếm mất nhiều thời gian, công sức của giáo viên, nhưng bù lại việc truyền tải bài
giảng đến học sinh sẽ rất trực quan, sinh động, giúp học sinh hưng phấn hơn khi
tiếp thu bài giảng và do đó hiệu quả tiếp thu bài giảng sẽ cao hơn.
Trong thiết kế kết cấu bài giảng thì sự liên kết giữa các slide cần được chú
trọng. Và tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint và
sử dụng tính năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong bài
giảng và giữa các nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi giáo
viên đang giảng ở trang danh mục các chương, có thể chuyển ngay đến chương bất
kỳ của bài giảng bằng cách nhắp chuột lên đầu mục chương đó trong danh sách.
Hay có thể sử dụng các nút chức năng để chuyển đến phần tư liệu và quay về vị trí
bài giảng ban đầu… Tóm lại, giáo viên có thể chuyển đến một vị trí tùy ý trong bài
giảng chỉ bằng một vài lần nhắp chuột mà không phải lần tìm mất thời gian.
Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp
với mỗi tiết, mỗi chương trình bài giảng. Thời lượng của tư liệu, nhất là phim tư
liệu nên vừa đủ minh họa cho phần bài giảng tránh kéo dài không cần thiết làm


loãng thông tin và ảnh hưởng đến thời gian của tiết học. Các phim tư liệu có thời
lượng dài, bổ ích cho môn học được thu xếp cho học sinh xem vào một vài tiết học

riêng. Yêu cầu học sinh thu hoạch, liên hệ với bài giảng.
- Giáo viên trên lớp với giáo án điện tử:
Dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết bảng, thời
gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng có sức lôi cuốn học sinh hơn. Tuy
nhiên, giáo án điên tử chỉ là sự trợ giúp, còn chất lượng bài giảng tốt hay không
phụ thuộc vào các yếu tố: Sự truyền đạt tri thức, trình độ của giáo viên và thái độ
của người học.
Vì vậy, để giúp học sinh khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học
tập của các em, khi giảng dạy người giáo viên cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa
màn hình với lời giảng và giữa màn hình với ghi bảng sao cho linh hoạt uyển
chuyển, tránh phụ thuộc quá nhiều vào một phía. Trong giảng dạy giáo viên cần
phải ghi những mục, ý chính của bài học, tránh ghi chi tiết vụn vặt sẽ làm loãng bài
giảng hoặc trùng với nội dung trên màn hình.
Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn GDQPAN sẽ có rất nhiều phát kiến mới, giáo án điện tử bước đầu mang đến cho giáo viên
và người học những kết quả thiết thực.
1.8. Hình thành đội ngũ cán sự môn học
* Biện pháp thực hiện:
Để có được đội ngũ cán sự môn học có khả năng điều hành đòi hỏi người
giáo viên phải có một số kỹ năng cần thiết về:
- Lựa chọn: có thể qua sự tín nhiệm của tập thể lớp nhưng cũng cần có sự
quan sát từng em học sinh. Có em có năng lực học tập tốt nhưng lại không có khả
năng điều hành lớp. Cũng có thể chọn những học sinh có sức học khá, ngoan về
hạnh kiểm biết diễn đạt mạch lạc một vấn đề hơn những học sinh khác trong cùng
lớp.
- Thiết kế công việc: người giáo viên phải biết những công việc cần thiết
trong kế hoạch năm học, trong tháng và trong tuần để thiết kế cho tập thể lớp tham
gia mà trong đó đội ngũ cán sự lớp theo dõi, điều hành dưới sự giám sát chặt chẽ
của giáo viên.
- Bồi dưỡng: thường xuyên trao đổi và hướng dẫn cho các em theo từng
nhiệm vụ mà chúng ta đã phân công, không nên giao khoán cho các em mà có sự

trợ giúp; cũng không tham gia quá sâu để các em độc lập hoạt động và giáo viên sẽ
tư vấn cho các em, giúp các em giải quyết các tình huống khó khăn.


- Kiểm tra, đánh giá: giáo viên phải thật sự nhiệt tình và tâm huyết trong
công tác, thường xuyên theo dõi, động viên đội ngũ cán sự lớp. Tuyên dương các
em làm tốt, uốn nắn những lệch lạc của các em nhưng không làm cho các em mất
uy tín trong tập thể lớp.
Xây dựng đôi ngũ cán sự môn học là việc làm không dễ nhưng chúng ta phải
làm vì giáo viên ở các trường Trung học phổ thông không có thời gian để xử lí tất
cả mọi việc ở lớp hơn nữa sẽ không có thông tin và cũng không giải quyết kịp thời
được nếu đội ngũ cán sự lớp không được rèn luyện một cách chu đáo và có kế
hoạch cụ thể.
Sử dụng đội ngũ cán sự môn học là biện pháp đổi mới phương pháp giảng
dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học, ý thức
kỷ luật, từ đó hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát triển trí
tuệ và thể chất một cách toàn diện.
Tóm lại để dạy tốt theo phương pháp mới giáo viên Giáo Dục Quốc Phòng –
An Ninh chúng ta cần phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao đội ngũ cán sự
môn học một cách chu đáo, phát huy khả năng tự học cho học sinh, bằng cách phải
đưa ra tiêu chí phấn đấu có tính cạnh tranh, thi đua từng nhóm vào trong nội dung
chương trình học tập. Như vậy thì thời lượng của nội dung bài dạy chỉ chiếm
khoảng 1/3 thời lượng toàn bộ nội dung buổi học. Mặt khác giáo viên có đủ thời
gian để hướng dẫn sửa chữa động tác sai cho các học sinh yếu, kém. Tuy nhiên việc
chọn lựa cán sự phải tìm hiểu kỷ tham khảo ý kiến tập thể có tính nhiệm không,
khả năng nắm bắt động tác, vai trò quản lý...
2. Một vài giải pháp nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An
Ninh
2.1.Giải pháp 1
Tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về

chất lượng. Phát triển đội ngũ giáo viên GDQP-AN là một yêu cầu tất yếu, khách
quan, là yếu tố cơ bản trong hoạt động dạy-học, quyết định đến chất lượng, hiệu
quả việc thực hiện chương trình môn học, bồi dưỡng nâng cao trình độ để đội ngũ
giáo viên yên tâm giảng dạy môn GDQP-AN.
2.2. Giải pháp 2
Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung theo hướng tăng kiến thức về QPAN, giảm kỹ năng quân sự. Đổi mới cơ chế quản lý đối với môn học; rà soát, phát
hiện, khắc phục sự chồng chéo về nội dung với môn học khác trong hệ thống giáo
dục phổ thông, từ chương trình chuẩn kiến thức, chuẩn kỹ năng, tổ chức biên soạn
sách giáo khoa, sách giáo viên đến việc tổ chức tập huấn, giảng thử, rút kinh
nghiệm.


2.3. Giải pháp 3
Thường xuyên phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Bộ CHQS, Hội
đồng GDQP-AN tỉnh, giữa các nhà trường với cơ quan quân sự địa phương để tạo
sự thống nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo và bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất,
sách giáo khoa, tranh ảnh, mô hình học cụ phục vụ cho môn học; thường xuyên làm
tốt công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá kết quả môn học, hàng năm tổ chức hội thi,
hội thao, thực hiện tốt công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương,
khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong giảng dạy, học tập môn học
GDQP-AN.
2.4. Giải pháp 4
Thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp với
từng đối tượng, tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử cho học sinh thông qua
hoạt động ngoại khóa, dạy học tích hợp liên môn, thường xuyên cập nhật thông tin
để truyền đạt cho học sinh những tiêu chí mới về bảo vệ Tổ quốc.
2.5. Giải pháp 5
Thường xuyên quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và kinh phí phục vụ công tác
giảng dạy và học tập của học sinh. Đối với môn học GDQP-AN, do tính chất đặc
thù nên cần có nguồn kinh phí hỗ trợ của Trung ương và các địa phương để phát

triển đội ngũ giáo viên, gắn với việc thực hiện chính sách hỗ trợ cho đội ngũ giáo
viên. Đồng thời, đảm bảo kinh phí cho việc biên soạn, ban hành sách giáo khoa,
sách giáo viên, tài liệu tham khảo và mô hình, học cụ phục vụ công tác giảng dạy.
2.6. Giải pháp 6
Cùng với đó, tích cực đổi mới phương pháp, ứng dụng các tiến bộ khoa họccông nghệ vào giảng dạy, trợ giá cho thiết bị dạy học môn GDQP-AN, tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình giảng dạy để tăng tính hấp dẫn của
môn học đối với học sinh. Ngoài ra, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu xây
dựng mẫu trang phục đồng bộ, thống nhất, để tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh
khi học môn GDQP-AN.
2.7. Giải pháp 7
Sở GD-ĐT chủ động triển khai và tổ chức thực hiện nội dung, chương trình
môn học; đồng thời, có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với cơ quan quân sự ở các
địa phương. Cần có sự thống nhất nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của môn học
đối với học sinh, từ đó đề cao trách nhiệm trong tổ chức triển khai thực hiện, kịp
thời phát hiện những vấn đề phát sinh để có biện pháp điều chỉnh, xử lý, nâng cao
chất lượng môn học trong nhà trường.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với
sự cố gắng nghiên cứu, trao dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân tôi
đã đúc kết được một số biện pháp cụ thể như trên và đã đưa vào áp dụng giảng dạy
cho học sinh khối 11 của trường Thạch Thành III.
So sánh với thực tế và sau khi tiến hành áp dụng một số kinh nghiệm và các
giải pháp của sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau :
- Tiết học môn giáo dục quốc phòng – an ninh sinh động hơn.
- Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực hơn.
- Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh được thể hiện ở mức độ cao hơn.
- Học sinh lĩnh hội được kiến thức nhanh và sâu rộng hơn.
* Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm của môn giáo dục quốc phòng – an

ninh của từng năm học được nâng dần lên:
Năm học

Số HS

Xếp loại
Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


2014-2015

320

62

19.5

98

30.6

155

48.4

5

1.5

2015-2016

335

83

24.8

105


31.3

147

43.9

0

0

Như vậy sau 2 năm học tiến hành thực nghiệm đều cho thấy việc sử dụng
các phương pháp như đã trình bày ở trên có tác dụng giúp học sinh hiểu bài nhanh
hơn, nhớ lâu hơn và tỉ lệ học sinh giỏi, khá, trung bình ở các lớp tăng lên; số học
sinh yếu, kém giảm đáng kể. Từ đó có thể khẳng định rằng các phương pháp đó có
tác dụng mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng học tập cho học
sinh.


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nâng cao chất lượng dạy và học là việc làm hết sức cần thiết và mang tính
cấp bách trong các nhà trường, đặc biệt đối với môn GDQP-AN.
Trong quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác triệt để những kinh nghiệm
vốn có, kết quả cho thấy chất lượng bộ môn được nâng cao. Bên cạnh đó học sinh
thấy yêu thích học môn GDQP-AN và giờ dạy GDQP-AN thêm sinh động và hấp
dẫn.
Tuy nhiên, với mỗi trường cần phải có những biện pháp sáng tạo, linh hoạt
cho phù hợp với đặc điểm học sinh và tình hình thực tế của đơn vị để có thể hạn
chế và khắc phục những tồn tại trong quá trình dạy học.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo viên

phải có nghệ thuật sư phạm, phải biết linh hoạt khi sử dụng các phương pháp trong
tiết dạy thì mới giúp cho học sinh khắc sâu kiến thức một cách chủ động từ đó nắm
được những nội dung cơ bản của bài học. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính
độc lập, sáng tạo và năng động để tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
Bên cạnh đó, để tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn GDQPAN giáo viên cần phải có nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, luôn sưu tầm bổ
sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm để có được sự vững
chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong phong cách nhằm thu hút học sinh.
Với những nội dung đã trình bày trong đề tài cho thấy đề tài đã được thực
hiện phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đã đặt ra. Tuy đề tài đã được nghiên cứu hất
sức cẩn trọng và phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường trong giai đoạn hiện
nay nhưng chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng góp ý
kiến của lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo về
chuyên môn của trường để các giải pháp nghiên cứu và thực hiện trong đề tài được
áp dụng rộng rãi cho các khối lớp và các môn học khác.
2. Kiến nghị
- Đối với tổ chuyên môn:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN để
giáo viên trong tổ có thể thông qua đó thảo luận góp ý nhằm chia sẻ kinh nghiệm
về các phương pháp giảng dạy từ đó học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và nâng cao chất lượng dạy và học.
- Đối với trường:


Cần tạo điều kiện về phòng ốc, đèn chiếu để phục vụ giảng dạy. Tăng cường
hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy GDQP-AN.
Cần mua các tư liệu GDQP-AN có liên quan trong chương trình học để giáo
viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả của
bộ môn.
Quan tâm, tạo điều kiện cho giáo viên được thường xuyên được học hỏi
kinh nghiệm, giao lưu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cần cung cấp thêm nữa các đồ dùng trực quan : như mô hình học cụ, tranh
ảnh ..... các băng đĩa, phim tài liệu nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của giáo viên,
học sinh ở trường trung học phổ thông.
Tổ chức các đợt sinh hoạt chuyên môn nhằm tìm các giải pháp để nâng cao
hiệu quả chất lượng bộ môn.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 04 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết

Nguyễn Ngọc Thạch


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài

1


2. Mục đích nghiên cứu

1

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu.

2

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN

3

I. Cơ sở lí luận

3

II. Thực trạng của vấn đề

4

1. Thuận lợi

4

2. Khó khăn


4

III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề

5

1. Một vài kinh nghiệm nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng –
An Ninh

5

1.1. Tuyển chọn VĐV thi đấu Hội thao GDQP-AN cấp tỉnh

5

1.2. Tuyển chọn học sinh tháo lắp súng

5

1.3. Dụng cụ sân bãi

6

1.4. Kết hợp với Nhà trường tổ chức học tập ngoại khóa

6

1.5. Dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm

7


1.6. Sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học

8

1.7. Giảng dạy bằng giáo án điện tử

10

1.8. Hình thành đội ngũ cán sự môn học

12

2. Một vài giải pháp nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An

13


Ninh
2.1.Giải pháp 1

13

2.2. Giải pháp 2

13

2.3. Giải pháp 3

14


2.4. Giải pháp 4

14

2.5. Giải pháp 5

14

2.6. Giải pháp 6

14

2.7. Giải pháp 7

14

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

14

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

16



×