Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tài liệu ôn thi lịch sử các học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.15 KB, 10 trang )

CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
Câu 1: Phân tích bối cảnh xuất hiện của chủ nghĩa trọng thương.
Câu 2: Phân tích những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa trọng thương.
Câu 3: Chủ nghĩa trọng thương tại các quốc gia.
Câu 4: Đánh giá câu nói của người Trung Quốc: “Phi thương bất phú” liên hệ thực tế Việt
Nam.
Câu 5: Đánh giá câu nói của người Anh: “ Thương mại là hòn đá thử vàng đối vs sự phồn
thịnh của 1 quốc gia, không có phép lạ nào khác để kiếm tiền trừ thương mại”.
Câu 6: Giải thích luận điểm của A. Montchretien: “ Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại
thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải nhập dẫn của cải qua ngoại thương”. 5
Câu 7: Nhận xét vai trò, hạn chế của chủ nghĩa trọng thương.
Câu 8: Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương.
Câu 1: Phân tích bối cảnh xuất hiện của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời trước hết ở
Anh vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ thứ XVII và sau đó bị suy
đồi. Có thể nói, nó ra đời trong bối cảnh hết sức thuận lợi khi phương thức sản xuất
phong kiến bắt đầu tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời:
+ Về mặt lịch sử:
Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng, tức là thời kỳ
tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các nước Châu
Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua
con đường ngoại thương.
+ Về kinh tế:
Cuối thế kỉ 15 đầu thế kỉ 16, thương mại bắt đầu phát triển nhờ các nhân tố như: các phát
kiến địa lý tạo điều kiện cho sự hình thành các tuyến đường vận tải thương mại, sự gia
tăng dân số tạo nên thị trường lao động, thị trường tiêu thụ, làm tăng doanh lợi của các
nhà sản xuất và thương gia. Ngoài ra, phải kể đến những nguyên nhân khác như: vai trò
của các thương gia được nâng cao, sự hình thành ngày càng nhiều các quốc gia độc lập cả
về chính trị, vàng bạc từ Tân thế giới đổ về… Kinh tế hàng hoá phát triển, thương nghiệp
có ưu thế hơn sản xuất, tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực. Do đó trong thời kỳ này
thương nghiệp có vai trò rất to lớn. Nó đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo,


hướng dẫn hoạt động thương nghiệp.
+ Về mặt chính trị:


Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, đang lên, là giai cấp tiên tiến có cơ sở kinh tế tương
đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý
tộc, do đó chủ nghĩa trọng thương ra đời nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến.
+ Về phương diện khoa học tự nhiên:
Điều đáng chú ý nhất trong thời kỳ này là những phát kiến lớn về mặt địa lý như: Crixtốp
Côlông tìm ra Châu Mỹ, Vancôđơ Gama tìm ra đường sang Ấn Độ Dương… đã mở ra khả
năng làm giàu nhanh chóng cho các nước phương Tây. Con người đã khám phá ra những
vùng đất mới ,tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa các khu vực (tìm ra tân thế giới giúp
giao thương với phương Đông,chinh phục Mexico mở rộng giao thương với châu Mỹ,giao
thương cho Bồ Đào Nha với Ấn độ và các nước Nam Á bằng đường biển nhờ cuộc hành
trình của Vasco da Gama)
+ Về mặt tư tưởng, triết học:
Thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa trọng thương là thời kỳ phục hưng, trong xã hội đề cao tư
tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống lại
những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ…
Câu 2: Phân tích những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa trọng thương.
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương bao gồm 4 quan điểm cơ bản sau đây:
· Thứ nhất, họ đánh giá cao vai trò của tiển tệ. Họ đồng nhất tiền tệ với của cải. Coi tiền tệ
(vàng, bạc) là của cải, là sự giàu có. cho rằng tiền tệ mới là tài sản thực sự của một quốc
gia, một nước càng có nhiều tiền thì càng giàu có, sự giàu có tích lũy dưới hình thái tiền tệ
là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn. Khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng nhờ thương mại
nên chỉ có ngoại thương xuất siêu mới đem lại của cải và sự giàu có ” nội thương là ống
dẫn, ngoại thương là máy bơm”. Đồng thời coi hàng hóa chỉ là phương tiện nhằm gia tăng
khối lượng tiền tệ, mục đích của mọi chính sách kinh tế của một quốc gia là làm tăng khối
lượng tiền tệ. Những người theo CNTT đã đứng trên quan điểm coi tiền là đại biểu duy
nhất của của cải, là tiêu chuẩn để đánh giá mọi hình thức nghề nghiệp. Những hoạt động

nào mà không dẫn đến tích lũy tiền tệ là những hoạt động tiêu cực, không có lợi. Họ coi
nghề nông không làm tăng thêm mà cũng không làm tiêu hao của cải. Hoạt động công
nghiệp không thể là nguồn gốc của của cải ( trừ công nghiệp khai thác vàng bạc), chỉ có
hoạt động ngoại thương mới là nguồn gốc thực sự của của cải.Chủ nghĩa trọng thương là
trường phái đầu tiên coi trọng vai trò của tiền tệ trong lịch sử kinh tế.
· Thứ hai, quan niệm về nghề nghiệp trong xã hội.
Họ cho rằng, nghề nghiệp nào trong xã hội làm gia tăng khối lượng tiền tệ mới là những
ngành nghề có ý nghĩa tích cực và ngược lại. Cụ thể:
- Nông nghiệp là ngành trung gian giữa tích cực và tiêu cực vì sản phẩm đầu ra sản phẩm
vật chất song không phải mua các yếu tố đầu vào như vậy tuy không tạo ra nhưng cũng k
tiêu tốn tiền tệ.


- Công nghiệp là ngành nghề mang tính tiêu cực vì phải bỏ tiền ra mua các yếu tố đầu vào
để sản xuất ra sản phẩm vật chất.
- Thương nghiệp là ngành duy nhất trong xã hội có ý nghĩa tích cực và tạo ra của cải trong
xã hội, vì sản phẩm đầu vào là sản phẩm vật chất và thu lại tiền tệ.
Trường phái trọng thương k chỉ đánh giá cao vai trò của thương nghiệp cụ thể còn nhấn
mạnh vai trò của ngoại thương, khối lượng tiền tệ của một quốc gia chỉ có thể gia tăng
bằng con đường ngoại thương, đặc biệt là ngoại thương xuất siêu.
· Thứ ba, họ giải thích nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp.
Họ giải thích rằng lợi nhuận của thương nghiệp là kết quả của hoạt động trao đổi không
ngang giá là sự lừa gạt cướp bóc giống như trong chiến tranh. Lợi nhuận được sinh ra từ
lưu thông, do mua bán sinh ra, là kết quả của sự mua re bán đắt.Họ cho rằng k một người
nào thu đc lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác, trao đổi phải có một bên thua để bên kia
đc. Dân tộc này làm giàu bằng cách hi sinh lợi nhuận của dân tộc khác.
Thứ tư, chủ nghĩa trọng thương rất đề cao vai trò của nhà nước
Chủ nghĩa trọng thương chưa biết đến và không thừa nhận sự hoạt động của các quy luật
kinh tế khách quan do đó họ đánh giá rất cao vai trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà
nước để phát triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của nhà

nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu hút tiền tệ
về nước mình càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước mình càng ít càng phát triển. Họ đề
cao vai trò can thiệp vào kinh tế của nhà nước.
Chủ nghĩa trọng thương đã có những đóng góp tích cực, đó là: Đã xây dựng một hệ thống
lý luận kinh tế độc lập, làm cơ sở cho các hoạt động kinh tế. Đặt nền móng cho tự động
hóa thương mại. Nhưng bên cạnh đó mặt hạn chế là chưa thấy được vai trò của sản, xem
xét hiện tượng bên ngoài mà chưa thấy bản chất của sự vật.
Câu 3: Chủ nghĩa trọng thương tại các quốc gia.
3.1. Chủ nghĩa trọng thương tại Anh:
Chủ nghĩa trọng thương ở Anh chia làm 2 giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn 1 diễn ra trong thế kỉ XV-XVI gọi là giai đoạn học thuyết tiền tệ
- Giai đoạn 2 diễn ra trong thế kỉ XVI gọi là giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương
mại.
+ Giai đoạn học thuyết tiền tệ.
Đại biểu của học thuyết tiền tệ của chủ nghĩa trọng thương thời kì này là William Stafford
(1554-1612), Thomas Gresham (1519-1579, người Anh)... Quan điểm trọng thương của
ông được trình bày trong tác phẩm “ Trình bày tóm tắt một vài lời kêu ca của đồng bào
chúng ta” Trong tác phẩm này ông cho rằng nguyên nhân của sự đắt đỏ nằm ở vấn đề khối


lượng tiền trong nền kinh tế. Vì thế, Nhà Nước cần phải có các biện pháp hành chính tác
động vào quá trình lưu thông nhằm giữ khối lượng tiền khỏi bị hao hụt.
Nội dung chủ yếu là bảng cân đối tiền tệ: ngăn chặn không cho tiền chạy ra nước ngoài,
khuyến khích mang tiền vàng từ nước ngoài về. Đề cao tiền tệ (vàng, bạc) coi đó là tiêu
chuẩn của sự giàu có.
Biện pháp:
- Quy định tiền của nước Anh là vàng
- Chống lại mọi hành vi đem tiền ra ngoài; các thương gia nước ngoài vào nước Anh đc
khuyến khích mang tiền vào nhưng không đc mang tiền ra khỏi nước Anh mà phải mua
hàng hóa mang ra.

- Cấm nhập khẩu những sản phẩm không cần thiết.
- Xâm chiếm, mở rộng thuộc địa để tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
Đây chính là giai đoạn tích lũy tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, nhà nước sử dụng nhiều biện
pháp hành chính để tối đa hóa tích lũy tiền tệ.
+ Giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương mại.
Đại biểu của học thuyết về bảng cân đối thương mại là Thomas Mun (1571-1641) “Của
cải là số sản phẩm dư thừa được sản xuất ra trong nước sau khi thỏa mãn nhu cầu tiêu
dùng nội bộ được chuyển thành tiền ở thị trường nước ngoài”.
Nội dung chủ yếu:
- Muốn giàu có phải tung tiền vào lưu thông, không được giữ tiền lại.
- Mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu, với phương châm ”xuất nhiều hơn nhập”. Phải biết
xuất khẩu tiền nhằm mục đích buôn bán : “ Vàng đẻ ra thương mại, thương mại làm phát
triển số tiền lên”. Đẩy mạnh xuất khẩu thành phẩm, tăng cường Xuất khẩu những sản phẩm có
thế mạnh.

- Phải đẩy mạnh hoạt động thương mại: “ Đó là hòn đá thử vàng đối với sự phồn thịnh của
một quốc gia”, “ Không có phép lạ nào khác kiếm tiền ngoài thương mại”. Cho phép
thương nhân đem tiền ra nước ngoài với mục đích thương mại.
- Trong thương mại “hàng năm, chúng ta cần giữ một nguyên tắc là bán cho người nước
ngoài một số lượng lớn hơn khối lượng hàng hóa mua vào”.
- Cần mở rộng cơ sở nguyên liệu cho công nghiệp bằng ngoại thương (nhập khẩu nguyên
liệu từ nước ngoài kết hợp với sức lao động trong nước nhằm phát triển sản xuất trong
nước).
- Thu hẹp nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng.
- Đẩy mạnh cạnh tranh làm giá cả hàng hóa hạ xuống và nâng cao chất lượng hàng hóa nội
địa. Đánh thuế cao hàng nhập khẩu từ các đối thủ cạnh tranh.


- Trong ngoại thương, cần mở rộng thị trường bằng việc biết bán hàng với giá cả thấp.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa trọng thương phát triển nhất, có tính chất thực tiễn, thể hiện rõ

ràng khát vọng của giai cấp tư sản Anh trong thời kì tích lũy tư bản.
3.2. Chủ nghĩa trọng thương ở Pháp.
+ Quan điểm của nhà kinh tế Antoine de Montchretien (1575 – 1622).
Quan điểm:
Quan điểm mang màu sắc tiểu tư sản, thông cảm với quần chúng nhân dân, đặc biệt là
nông dân bị đè nặng dưới ách phong kiến, lên án sự xa hoa của giới quý tộc. Nông dân là
chỗ dựa cho Nhà nước và Nhà nước phải quan tâm đến nông dân. Ông khẳng định “tài sản
của đất nước không chỉ là tiền tệ mà còn bao gồm cả dân số đặc biệt dân số nông nghiệp”.
Ông cho rằng thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều ngành nghề khác nhau. Thương
nhân giữ vai trò liên kết người sản xuất với nhau.Lợi nhuận thương nghiệp là chính đáng
vì nó bù đắp sự rủi ro thua thiệt trong việc giao dịch mua bán.
Ông viết “hạnh phúc của người ta là ở sự giàu có mà sự giàu có là ở trong lao động” ông
lên án sự lười biếng, coi đây là nguồn gốc của mọi tội lỗi và cho rằng nếu cần thiết sẽ
cưỡng chế những người trong độ tuổi phải có việc làm.
Biện pháp:
Hàng hóa nước ngoài bị đẩy ra khỏi nước Pháp, tăng cường thúc đẩy hoạt động sản xuất
trong nước và ngành thương mại, để nước Pháp có thể tự cung tự cấp. Các nhà sản xuất
vải lanh Hà Lan phải kết thúc hoạt động ở Pháp, cấm nhập khẩu sản phẩm dệt của Anh.
Thậm chí sách nước ngoài cũng bị cấm để ngăn chúng “đầu độc tinh thần chúng tôi”. Cho
thành lập rất nhiều công trường thủ công sản xuất các sản phẩm theo mẫu của nước ngoài
nhằm tạo việc làm cho người dân lang thang thất nghiệp.
Câu 4: Đánh giá câu nói của người Trung Quốc: “Phi thương bất phú” liên hệ thực
tế Việt Nam.
Câu nói trên thể hiện rõ quan điểm nghê nghiệp của chủ nghĩa trọng thương, đó là nghề
nghiệp nào trực tiếp đem lại khối lượng tiền tệ cho xã hội mới là nghề nghiệp “làm giàu”
cho quốc gia và cho cá nhân. Ở đây, họ đã quá xem trọng vai trò của thương nghiệp, xem
thường các ngành sản xuất vật chất. Điều này chỉ đúng trong bối cảnh tích lũy tư bản, chủ
nghĩa trọng thương phồn thịnh mà thôi.
Bởi lẽ, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất của con người, nó ảnh hưởng
đến tốc độ và quy mô của hoạt động thương nghiệp. Nếu nền sản xuất vật chất không phát

triển thì sẽ không có hàng hóa để bán và cũng không thu được tiền tệ để mua các hàng hóa
khác.
Liên hệ thực tiễn:


Xuất phát từ một nền kinh tế của nước ta còn lạc hậu, thương mại không tăng (cả về nội
thương lẫn ngoại thương). Đã có thời kì chúng ta thực hiện c/s “bỏ quan trả cán” để kìm
hãm sự phát triển kinh tế =) làm cho kinh tế thụt lùi so với thế giới. Nếu kinh tế chỉ huy
theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho thương mại kém phát triển cả về nội
thương và ngoại thương =) nền kinh tế yếu kém.
Đến đại hội Đảng VI(86) Nhà nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển sang nền kinh tế
hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa =) đòi hỏi
phải tăng mạnh thương mại cả về nội thương lẫn ngoại thương =) có c/s n/thương của
mình. Sau >29 năm thực hiện đổi mới đất nước đã thu được nhiều thành tựu kinh tế quan
trọng, chứng tỏ quản điểm trọng thương là đúng dắn, phải có giao lưu với nước ngoài mới
có điều kiện sản xuất trong nước, tăng tích luỹ vốn. Bên cạnh đó chúng ta cũng không coi
thương mại là con đường làm giầu duy nhất, vì quan điểm trọng thương chỉ quan tâm đến
một lĩnh vực của kinh tế trong sản xuất đó lá lưu thông mà thôi. Mà ta cần phải biết kết
hợp giữa tăng trọng thương với gia tăng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nước ta gia nhập WTO, việc phát triển thương mại nhất là ngoại thương là rất cần
thiết. Nó không chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của nền Kinh tế mà còn là cầu nối
giữa các nguồn lực trong và ngoài nc, tạo đk cho sự tăng trưởng nhanh nền Kinh tế dân
tộc. Ngoài ra, VN chúng ta đứng trước cơ hội và thách thức rất lớn, đó là cơ hội phát triển
mạnh mẽ thương nghiệp, mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước đồng thời các ngành
sản xuất trong nước phải đối mặt vs sự cạnh tranh rất lớn của các doanh nghiệp nước
ngoài.Vì vậy, chúng ta phải làm tốt cả 2 nhiệm vụ là thúc đẩy lưu thông hàng hóa đồng
thời củng cố và phát triển mạnh mẽ nền sản xuất trong nước.
Câu 5: Đánh giá câu nói của người Anh: “ Thương mại là hòn đá thử vàng đối vs sự
phồn thịnh của 1 quốc gia, không có phép lạ nào khác để kiếm tiền trừ thương mại”
· Giải thích

Thomas Mun(1571-1614) là nhà Kinh tế học Anh,giám đốc cty Đông Ấn-cty cổ phần đầu
tiên trên thế giới và lớn nhất nc Anh thời đó.
Theo ông, chỉ có thương mại mới là phương thức để kiếm tiền, tạo ra của cải,còn các
hđộng khác như công nghiệp, nông nghiệp ko tạo ra tiền mà chỉ là phương tiện để có
nhiều tiền mà thôi. Thương mại càng đc mở rộng thì càng có nhiều cơ hội kiếm tiền, quốc
gia càng giàu có. Sự phát triển của thương mại là thước đo duy nhất đo sự phồn thịnh của
1 quốc gia.
Thương mại đẻ ra tiền, tiền lại đẻ ra thương mại. Phải thực hiện bán nhiều hơn mua, phải
mở rộng xuất khẩu và phải xuất siêu. Ông đề nghị: “Chúng ta phải thường xuyên giữ vững
nguyên tắc là hàng năm bán cho ng nc ngoài vs số lượng HH lớn hơn số lượng mà chúng
ta phải mua của họ”, tức là phải xuất siêu.


Tư tưởng cơ bản của luận điểm trên cho thấy, Thomas Mun đã tuyệt đối hóa vai trò của
thương mại trong hoạt động Kinh tế cũng như trong tích lũy tiền. Ông là 1 đại biểu của
CNTT trong g/đoạn phát triển thật sự của nó.
· Đánh giá
Thomas Mun đã phát hiện ra vai trò của thương mại trong việc tạo ra của cải. Thật vậy,
mục đích của sản xuất hàng hóa là để bán.Nếu ko có thương mại (thực chất là lưu thông)
thì hàng hóa ko thể thực hiện đc, ko thể thu hồi chi phí sản xuất và tích lũy tiền tệ, do đó
ko thể có tái sản xuất nói chung và tái SX mở rộng nói riêng.
Trong đk toàn cầu hóa,hội nhập kinh tế quốc tế và khi VN đã gia nhập WTO như hiện
nay,việc phát triển thương mại,nhất là ngoại thương là rất cần thiết đối vs các nc nói chung
và nc ta nói riêng.Nó ko chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của nền Kinh tế mà còn là
cầu nối giữa các nguồn lực trong và ngoài nc,tạo đk cho sự tăng trưởng nhanh nền Kinh tế
dân tộc.
Tuy nhiên, vế thứ 2 “không có phép lạ…” của Thomas Mun có tính phiến diện.Trong khi
đề cao vai trò của thương mại,lại ko thấy đc vai trò quyết định của SX,ko thấy đc mối
quan hệ giữa sản xuất và lưu thông.
Câu 6: Giải thích luận điểm của A. Montchretien: “ Nội thương là hệ thống ống dẫn,

ngoại thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải nhập dẫn của cải qua ngoại
thương”
Chủ nghĩa trọng thương họ coi trọng tiền tệ, họ coi tiền tệ như là thước đo tiêu chuẩn của
sự giàu có và mọi sự hùng mạnh của một quốc gia. Do đó mục đich kinh tế của mỗi nước
đó là phải tăng kl tiền tệ. Nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu có; họ coi hàng hoá chỉ
là phương tiện tăng khối lượng tiền tệ. Họ coi tiền là đại biểu duy nhất của của cải, tiêu
chuẩn để đánh giá mọi hinh thức hành nghề hoạt động nghề nghiệp, những hoạt động nào
mà không dẫn đến tích luỹ tập thể là hoạt động không có lợi, hoạt động tiêu cực. Họ coi
nghề nông là một nghề trung gian những hoạt động tích cực và tích cực vì nghề nông
không làm tăng hay giam của cải, hoạt động chủ nghĩa thì không thể là nguồn gốc của cải
(trừ chủ nghĩa khai thác vàng bạc).
Ngoại thương là động lực tăng kinh tế chủ yếu của một nước, không có ngoại thương
không thể tăng được của cải . Ngoại thương được ví như máy bơm đưa lượng tiền nước
ngoài vào trong nước.
Đối với ông, khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương cụ thể là
xuất siêu. Lợi nhuận từ ngoại thương chính là việc mua rẻ hàng hóa trong nước và bán đắt
cho các quốc gia khác thu về một lượng tiền tệ. Chính vì thế ngoại thương là máy bơm
đưa tiền từ nước ngoài vào nền kinh tế trong nước.
“Nội thương là ống dẫn” bởi nội thương chỉ có tác dụng làm di chuyển của cải và hàng
hóa trong nước từ người này sang người khác, từ ngành nghề này sang ngành nghề khác.


Quan điểm này đánh giá cao ngoại thương xem nhẹ nội thương vì ông chỉ chú ý đến lĩnh
vực lưu thông (T-HT) mà chưa hiểu được toàn bộ quá trình sản xuất và bước chuyển của
việc tạo ra lợi nhuận đó là do gia tăng sản xuất =) giải pháp số một là tăng cả nội thương
và ngoại thương.
Tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được dưới sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhà nước nắm độc
quyền về ngoại thương, thông qua việc tạo điều kiện pháp lí cho công ty thương mại độc
quyền buôn bán với nước ngoài.
Câu 7: Nhận xét vai trò, hạn chế của chủ nghĩa trọng thương.

Về mặt thực tiễn:
Vai trò: Những chính sách kinh tế của chủ nghĩa trọng thương đưa ra như đẩy mạnh ngoại
thương, trợ giúp tài chính tín dụng, bảo hộ thuế quan… tạo ra nguồn vốn ban đầu rất lớn
cho sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình tích lũy tư
bản, rút ngắn thời kì quá độ từ phong kiến lên tư bản.
· Hạn chế: Quá coi trọng thương mại, ko chú ý đến sản xuất vật chất là nguồn gốc của sự
phát triển, thúc đẩy ngoại thương.
Về mặt lí luận:
· Vai trò: Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương so sánh với nguyên lý trong chính
sách kinh tế thời kỳ Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất lớn, nó thoát ly với truyền thống
tự nhiên, từ bỏ việc tìm kiếm công bằng xã hội, những lời giáo huấn lý luận được trích dẫn
trong Kinh thánh:
- Thời kì phong kiến giải thích các hiện tượng kinh tế bằng thần bí tôn giáo còn CNTT đã
dựa vào tài liệu lịch sử, sự kiện có thật để phân tích kinh tế;
- Thời kì phong kiến xem xét của cải nặng về mặt hiện vật còn CNTT đã xem xét của cải
theo quan niệm giá trị;
- CNTT còn thấy đc mục đích của sản xuất và trao đổi hàng hóa là lợi nhuận.
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã đặt nền móng, tạo ra những tiền để lý
luận kinh tế cho kinh tế học sau này, cụ thể:
- Đưa ra quan điểm, sự giàu có không chỉ là những giá trị sử dụng mà còn là giá trị, là
tiền;
- Mục đích hoạt động của nền kinh tế hàng hoá là lợi nhuận;
- Các chính sách thuế quan bảo hộ có tác dụng rút ngắn sự quá độ từ chủ nghĩa phong
kiến sang chủ nghĩa tư bản;
- Tư tưởng nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh tế là một trong những tư tưởng tiến bộ.
Hạn chế: Những quan điểm của chủ nghĩa trọng thương nặng tính kinh nghiệm (chủ yếu
thông qua hoạt động thương mại của Anh và Hà Lan); có rất ít tính chất lý luận và thường
được nêu ra dưới hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế.



Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương mới chỉ dừng lại ở cái vỏ bên ngoài của
các hiện tượng và quá trình kinh tế, chỉ dừng lại xem xét trong lĩnh vực lưu thông mà chưa
quan tâm đến các hoạt động khác của nền kinh tế. Không đi sâu vào nghiên cứu bản chất
bên trong của các hiện tượng kinh tế.
Quan niệm về lợi nhuận thương nghiệp tạo ra trong lưu thông là do mua rẻ bán đắt là
không chính xác. Những lý luận của chủ nghĩa trọng thương chưa thoát khỏi lĩnh vực lưu
thông, nó mới chỉ nghiên cứu những hình thái của giá trị trao đổi. Đánh giá sai trong quan
hệ trao đổi, vì cho rằng lợi nhuận thương nghiệp có được do kết quả trao đổi không ngang
giá.
Đánh giá sai lầm vai trò vị trí của các ngành nghề kinh tế trong xã hội (coi trọng quá cao
thương nghiệp, xem thường công nghiệp.
Chưa thấy được các quy luật kinh tế khách quan chi phối đời sống kinh tế trong khi đó lại
quá đề cao vai trò của nhà nước.
Một hạn chế rất lớn của chủ nghĩa trọng thương đó là đã quá coi trọng tiền tệ (vàng,
bạc), đã đứng trên lĩnh vực thô sơ của lưu thông hàng hoá để xem xét nền sản xuất TBCN.
Câu 8: Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là những chính sách cương lĩnh của giai cấp tư sản (tầng lớp tư
sản thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản.
Những chính sách, cương lĩnh này nhằm kêu gọi thương nhân tận dụng ngoại thương,
buôn bán để cướp bóc thuộc địa và nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản đang hình
thành.
- Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu là mô tả bề ngoài của các
hiện tượng và quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích được bản chất của các hiện
tượng kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương chưa hiểu biết các quy luật kinh tế, do đó họ rất coi trọng vai trò
của nhà nước đối với kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương chỉ mới dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà chưa nghiên
cứu lĩnh vực sản xuất.
- Chủ nghĩa trọng thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau, nhưng ở các
nước khác nhau thì có những sắc thái dân tộc khác nhau. Ví dụ: ở Pháp chủ nghĩa trọng

thương kỹ nghệ Pháp, ở Tây Ban Nha là chủ nghĩa trọng thương trọng kim, ở Anh là chủ
nghĩa trọng thương trọng thương mại.
Tóm lại, chủ nghĩa trọng thương ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Lý luận còn đơn
giản thô sơ, nhằm thuyết minh cho chính sách cương lĩnh chứ không phải là cơ sở của
chính sách cương lĩnh. Mặt khác, đã có sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành quy tắc,
cương lĩnh, chính sách. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là hiện thực và tiến bộ trong


điều kiện lịch sử lúc đó. Những luận điểm của CNTT có rất ít tính chất lí luận và thường
được nêu lên dưới hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế. Lý luận
mang nặng tính chất kinh nghiệm.
So sánh với những nguyên lý trong chính sách kinh tế của thời kì trung cổ thì quan niệm
của CNTT là một bước tiến bộ lớn. Nó cắt đứt hẳn với những truyền thống chủ yếu thời
Trung cổ, trước hết là những truyền thống tự nhiên. Nó đã từ bỏ việc tìm kiếm công bằng
xã hội, những lời giáo huấn luận lý được trích dẫn trong kinh thánh.
Tuy nhiên chúng ta không nên đánh giá quá cao những thành tựu về lý luận của CNTT.
Những thành tựu đó rất bé nhỏ. CNTT chưa thoát ra khỏi lĩnh vực lưu thông. Đánh giá
CNTT, K. Marx viết: “ Công trình nghiên cứu lý luận đầu tiên về phương thức sản xuất
hiện đại- tức học thuyết trọng thương- nhất định phải xuất phát từ những hiện tượng bề
ngoài của quá trình lưu thông, khi những hiện tượng đó trở thành độc lập trong sự vận
động của tư bản thương nghiệp. Vì vậy học thuyết đó chỉ nắm cái vỏ bên ngoài của những
hiện tượng. Cái đó một phần do tư bản thương nghiệp là hình thái tồn tại tự do đầu tiên
của tư bản nói chung,,,khoa học thực sự của nền kinh tế hiện đại, chỉ bắt đầu từ việc
nghiên cứu lý luận chuyển từ quá trình luuw thông sang quá trình sản xuất”.



×